ĐỌC SÁCH - 1 -
Ngoài miệng tuy nói thế nhưng trong lòng tôi nghĩ, những cuốn sách mỏng này, nội một ngày tôi sẽ đọc hết ba cuốn, chỉ vài ngày là xong, nào có chi mà phải những một tháng, nhưng mấy câu nói nơi cuốn Tân Ướcđược ông Tầm nhắc đến cũng phần nào đánh động tâm trí. Tại sao ông lại nói áp dụng vào cuộc đời mình, rồi lại ảnh hưởng đến sự thăng tiến nhận thức! Mình đã được giảng giải phải kính mến Chúa hết lòng hết sức, mình có bao giờ bỏ đọc kinh, đi lễ đâu! Nhưng sao lại nói, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta”? Sao lại so sánh yêu cha mẹ và yêu Chúa? Kính mến Chúa và yêu cha mẹ là hai trạng thái khác biệt; một đàng là hữu vi, nhân sinh, thế tục, đàng khác là niềm tin, sự tin tưởng, mông lung vì đâu biết Chúa là gì, chỉ cho rằng, nghĩ đến danh hiệu, không kinh nghiệm, cảm nghiệm, không một liên hệ thực tiễn. Nói rằng kính mến Chúa là kính mến thế nào ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, nào có gì khác đâu. Hừ, hãy xem các cuốn sách khác viết gì trước đã.
Đưa tay lấy cuốn sách mỏng nhất, cuốn Lão Tử Tinh Hoa rở thử xem nó nói gì. Ngay trang đầu, tác giả là Nguyễn Duy Cần phía trên bốn chữ Lão Tử Tinh Hoa nghênh ngang ở giữa. Trang tiếp theo giới thiệu một số sách của tác giả; để rồi trang kế ghi đôi câu nhận định của hai tác giả Tây phương. Nơi trang thứ tư có mấy hàng chữ, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri;” được dịch là, “Biết không nói, nói không biết.” Sao mà nói ngang như thế? Biết sao lại không nói; kẻ nói sao lại không biết? Không biết mà có thể nói được à? Đã không biết thì nói thế nào, nói điều chi, nói mình không biết ư? Biết mình không biết tức là đã biết mình không biết; mà đã không biết thì nói làm sao? Chẳng lẽ nói mình không biết điều mình không biết; mà đã không biết sao có thể nói. Kỳ cục, trong cuộc đời này thiếu gì điều mình không biết và bởi vì không biết thế sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Kẻ biết không nói tức là im lặng; kẻ nói không biết chẳng lẽ là kẻ ba hoa chích chòe, nổ. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao có câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Nó là con ba ba, nhưng lại có người rao truyền nó là con rùa. Người nói không biết mình nói gì; người rao truyền không biết mình rao truyền về điều chi? Nói bậy, rao truyền tào lao, kẻ nói không biết; kẻ nói không biết.
Đã không biết thì nói làm sao mà lại nói kẻ nói không biết. Đồng ý rằng, người biết mà giữ im lặng, không nói gì thì đúng là người biết không nói. Nhưng sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Nó đã không biết sao có thể nói mà lại nói, kẻ nói không biết. Câu này nói về điều gì? Sự thể nào, trạng thái nào, nơi vị thế ra sao, hoặc mưu mô ẩn kín cần được giữ im lặng, không nên nói ra. Người biết không nói. Biết gì, biết ra sao, tại sao không nói? Ah, mình không nói gì về cha mẹ, các em mình vì e có điều làm phiền đến họ. Người giầu có không khoe của, chỉ kẻ nghèo hèn mới, “Đẹp tốt phô ra, xấu xa che đậy.” Người nói không biết; người nghèo khoe sự mình không có để người khác nghĩ mình giàu sang. Họ biết họ nghèo nên mới khoe mà. Kẻ nói không biết; kẻ nói không biết.
Đầu óc tôi lùng bùng với những lý luận cứ như đám mây vần vũ, xáo trộn, không biết đâu là lý lẽ sao cho có thể giải thích hợp tình, hợp lý, có thể chấp nhận được. Thấy tôi ngồi im nhìn chằm chằm vào trang đầu tiên của cuốn sách, ông Tầm lên tiếng,
- Có chuyện gì mà có vẻ đứng hình vậy?
- Ah, cháu đang suy nghĩ thế nào lại nói, “Kẻ nói không biết!”
- Thì nó cũng giống câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” mà thôi.
- Hai câu có liên hệ gì với nhau đâu!
- “Người biết không nói; kẻ nói không biết,” nơi trường hợp, trạng thái nào? Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta, nơi trường hợp, trạng thái nào?
- Trường hợp, trạng thái! Trường hợp, trạng thái.
Tôi lẩm bẩm, lặp đi lặp lại vấn đề được ông Tầm nhắc tới trong khi đầu óc quay cuồng, bối rối. Tôi tự nhủ, không biết bao nhiêu sách, truyện, tiếng Anh, tiếng Pháp mình đã đọc, đâu có trường hợp nào kích động tâm não mình như thế này. Chợt nhớ, câu, “Dục tốc bất đạt,” tôi tự nhủ, hãy khoan, từ từ suy luận. Trường hợp, yêu cha mẹ thuộc về tâm tình. Biết không nói thuộc về thái độ. Nơi trường hợp khinh thường đối thủ hay một ai đó, biết không nói có nghĩa chẳng nên nói vì nói ra sẽ bất lợi. Ah, Phúc Âm cũng có câu, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Biết nhưng không nên nói vì nói ra sẽ bị coi khinh và phiền hà. Tại sao lại bị dày đạp và quay lại cắn xé. Biết không nói, không quăng châu ngọc trước miệng heo. Con heo là thứ con vật, bị coi là nhơ uế, hèn hạ nơi xã hội Do Thái. Quăng châu ngọc trước miệng heo, nói những lời khôn ngoan, tốt lành với những thứ heo, những người thiếu suy nghĩ, nhận thức, sẽ bị coi thường và dày đạp; sẽ bị kết án. Không đúng, không hợp lý; nói với phường ngu dốt sẽ bị cho là thế nọ, thế kia, khinh thường, chà đạp. Điều này có nghĩa, không nên nói với, không nên chia sẻ với những người thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ, suy tư kẻo bị khinh thường, đàm tiếu, phỉ báng. Đối với những người không muốn hiểu, không đủ khả năng để hiểu thì chỉ nên im lặng kẻo bị họ chà đạp.
Người biết không nói nơi trạng thái nào? Những gì mình biết nhưng không nên nói ra, hoặc không thể nói? Kẻ yêu cha mẹ, làm sao có thể nói ra mình yêu cha mẹ mình thế nào. Yêu cha mẹ chỉ có thể nói lên bằng cách đối xử, cách sống. Kẻ biết không nói, không phải, kẻ biết nhưng không thể nói, vì càng nói ra càng chẳng nói được gì; làm sao giải thích được lòng yêu thương đối với cha mẹ. Kẻ nói không biết, trạng thái, trạng thái. Thì hãy đọc xem cuốn sách nói gì. Mới có một câu thôi mà đã bối rối như bố vợ bị đấm, tôi tự nhủ. Ông Tầm thấy tôi im lặng suy tư nên đứng lên đi ra vườn phía sau. Tôi ôm đống sách và tập bản thảo vô giường, nằm ngửa lên đọc cuốn Lão Tử Tinh Hoa vì có cửa sổ phía đầu giường soi sáng.
Cỡ độ hơn kém ba giờ tôi đã đọc xong nhưng chẳng hiểu tinh hoa của Lão học là gì. Nói cho đúng, chẳng hiểu sách nói gì. Lần đầu tiên trong đời tôi đối diện với cuốn sách nhưng đọc xong cũng chẳng nhận ra được căn bản nó nói về điều chi, ngay cả chỉ với một câu ngang ngược nơi trang đầu tiên của cuốn sách. Cũng có một đôi câu khác được tác giả giải thích một cách thực tiễn ít khi được để ý, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ được để tâm suy nghĩ, suy nghiệm, chẳng hạn, Tác giả Nguyễn Duy Cần nêu lên sự thể ánh sáng mặt trời. Ai cũng nhận biết mặt trời soi sáng và cho đó, chấp nhận đó là sự tự nhiên, nhưng đâu ai nói về công việc soi sáng của mặt trời, đâu ai thấy mặt trời làm việc chi; tuy nhiên, tất cả sự sống, sinh hoạt đều nhờ vào ánh mặt trời. Mặt trời chẳng làm gì nhưng không có ánh mặt trời, mọi sự đều ngưng trệ. “Không làm gì nhưng không việc chi không làm;” tôi chợt nghĩ, không làm gì là làm tất cả. Chuyện gì, sự gì, trạng thái nào nơi tôi ảnh hưởng toàn bộ con người tôi, ảnh hưởng tất cả cuộc đời tôi? Sự gì nơi tôi coi bộ không để ý nhưng hoạt động bao trùm mọi lãnh vực cuộc sống? Ước mơ, ý định, tham vọng, yêu thương, ghen ghét, mưu đồ?
Dĩ nhiên, có cái khát vọng nào đó, mờ mờ, ảo ảo nơi tâm trí mỗi khi nghĩ tới cảnh điêu tàn trong cuộc sống của dân chúng khiến tôi có ước vọng làm gì đó may ra có thể giúp dân chúng có cuộc sống thoải mái, khấm khá hơn. Tại sao tôi chấp nhận lang thang, làm bất cứ việc gì miễn tạm sống cho qua chờ cơ hội. Cơ hội gì? Cơ hội cho tôi vươn lên? Không, tôi sống thế nào chả được. Vậy cơ hội gì, để làm gì và cho ai? Mắc mớ gì tâm tư tôi cứ luẩn quẩn với nỗi khát khao không rõ ràng ấy? Tại sao có điều gì đó không được phân định rõ ràng cứ như ma đùa, quỷ ám tâm trí tôi? Nhiều lần tự hỏi nhưng chưa bao giờ để tâm phân tích trạng thái tâm tư, tôi chỉ biết khắc khoải một cách mơ hồ.
Không hiểu tinh hoa hay tạp hoa mà khi đọc qua phần giới thiệu thân thế cũng như sự nghiệp, tính chất, thể văn của tác giả, vừa khi bước vào học thuyết thì cụ Nguyễn Duy Cần đã đương đường tuyên bố, “Đạo Đức Kinh, theo nhiều học giả Đông phương cũng như Tây phương, là một quyển sách thuộc về tâm linh, đạo học cho những người đi theo con đường Huyền học và siêu thoát” (Lão Tử Tinh Hoa; Thu Giang Nguyễn Duy Cần; Sống Mới; Forth Smith; AR, USA; năm? Tr. 39). Theo cụ Nguyễn Duy Cần, điểm chính yếu của Đạo Đức Kinh nói về Đạo, nguyên lý tuyệt đối, cội nguồn và điều hành vũ trụ, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không thể hiểu bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận; không một danh từ, ý tưởng, cũng như phán đoán nào có thể nói hoặc diễn giải về thực thể được gọi là Đạo này. Lý thuyết, nào chẳng khác chi
Pascal minh xác, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Tôi không nhớ đã đọc được câu này ở sách Pháp hay sách Anh hoặc sách Việt, nhưng, suốt những năm từ nhỏ đến hết bậc trung học nơi nhà trường Công giáo, không có thầy nào nhắc tới, và ngay cho tới tận lúc này, cũng vẫn chưa thấy linh mục hoặc bà sơ nào đá động đến. Nhiều lần tôi thầm tự hỏi, Chúa mà không thể nói đến được, không thể hiểu được thì nói rằng tin vào Chúa là tin thế nào, chẳng lẽ tin vào tưởng tượng hay danh hiệu! Nếu thế thì tệ hơn vô thần! Vô thần ít nhất còn tự tin vào chính mình cho dẫu ma giáo hay đểu cáng, độc ác ra sao, hãy còn có điểm tựa để tin.
Có điều, hình như có điểm chung nào đó nơi những phát biểu kỳ cục ngang ngược nơi các lý thuyết hay quan điểm khác nhau. Tôi chỉ mờ mờ cảm nhận có điểm chung nào đó chứ không phân định rõ được điểm chung ấy là thế nào. Cụ Nguyễn Duy Cần còn nêu lên tính chất tương đối nơi vạn vật của Đạo, “Không một danh từ nào, không có một ý tưởng nào, cũng không có một sự phán đoán về giá trị nào mà có thể gọi là tuyệt đối cả” (Hữu vô tương sanh, nan dị tương hành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy. Tr. 42). Cặp tương đối ấy luôn luôn nằm trong mọi sự, mọi vật, và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và thường gây cho lòng ta nhiều tranh chấp, mâu thuẫn, (Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ; thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành, thì đã có cái chẳng lành rồi, Tr. 43). Sự thể được giãi bày này sao giống giống đạo học nhất nguyên, âm dương đối lập nhất thể, cũng như Dịch học!
Sở dĩ nhắc tới Dịch học bởi trong quá khứ, có thời tôi tấp tểnh muốn nghiên cứu về tử vi để ít nhất muốn biết trước chút nào về phận số tương lai của mình, đồng thời khi có dịp nổ cùng bạn bè, nhất là đối với phái nữ; tôi có thể ba hoa chích chòe cho vui, kiếm thêm cảm giác hưng phấn may ra được kẻ khác cho rằng mình cũng là một thứ gì. Hơn nữa, nghe đâu đây cũng như nơi cuốn báng bổ tử vi nào đó, có tác giả khuyến khích muốn giỏi tử vi, tử bình, nhâm độn, thì cần suy nghiệm về dịch học. Và thế là tôi mua mấy bộ, ít nhất có thể biết chắc là sách viết về dịch của ba, bốn tác giả. Nào Dịch học diễn nghĩa, Dịch học ứng dụng, Dịch trong y lý, Dịch học hiện đại. Đem chúng về tôi ngày đêm đọc tới đọc lui, nghiên cứu nơi tác giả nọ, so sánh với lời bàn của dịch giả kia, và cuối cùng thì ngâm cứu. Không hiểu sao người xưa nghĩ ra được những thứ không tiền khoáng hậu, chẳng chi minh chứng cứ buông ra những thứ, những lý thuyết tự trời rơi xuống khiến đầu óc tôi quay cuồng không thể nhớ, chẳng có chi làm gốc gác, điểm tựa để chìm sâu vào cõi huyền hoặc của nhân sinh. Sự thể này đối với ai không biết, riêng tôi đúng là huyền hoặc.
Bởi đó, đã một giai đoạn thời gian dài, không biết bao nhiêu năm, khi nào nghe thấy ai nhắc tới tử vi, lý số, tôi đều cho rằng mấy thày bói toán chỉ “giác” bằng cái miệng chứ bản năng không thể “ngộ.” Tuy nhiên, sau này, trời xui đất khiến tôi gặp và làm quen được một thày ngộ được tử vi. Tôi nghĩ, không cần phải nói nhiều, cứ cho ông ta biết ngày sanh tháng đẻ cũng như giờ giấc chui ra khỏi bụng mẹ. Ông ta không cho phép mình nói thêm bất cứ điều gì để lắng nghe ông phán về quá khứ, đặc điểm, dáng người, tính chất, và có thể cả ẩn tướng; coi chừng chính bạn cũng không để ý về ẩn tướng nơi mình. Cuộc đời lắm điều oái oăm, nhiều sự mình chưa biết và có thể không bao giờ biết. Ôi cái phận số. Ai muốn chứng nghiệm ngộ tử vi hay không, cứ việc kiếm thày tử vi, Tam Xuân, ở Louisiana, USA, mà nghe phán. Cũng xin nhớ, đừng nhắc đến bút hiệu của tôi kẻo phiền hà tức khắc ập tới.
Cụ Nguyễn Duy Cần cũng cho rằng, “Cái lập trường chống lý của Lão Tử, là do nơi kinh nghiệm thuần túy tâm linh của ông. Tri thức không bao giờ đạt đến cái Tuyệt đối, Nguyên lý cùng tột của vũ trụ, vạn vật, tức là Đạo” (Tr. 45). Thế nên, phương pháp giải thoát theo Lão Tử là phương pháp tiêu cực, “Đừng sa vào cái tạp niệm nhị nguyên, tức là gần được với Đạo rồi vậy” (Tr. 45). Đã không thể nói gì được, không thể nghĩ bàn chi, cũng không biết chi về Đạo thế mà Đạo Đức Kinh lại dương danh Đạo là mẹ nuôi của vạn vật, của muôn loài, “Hữu danh vạn vật chi mẫu” (Tr. 52). Rồi lại thêm, “Trở về với Đạo thì người ta mới được trường cửu, hay nói một cách khác, người ta mới thực hiện được cái Chân Tánh của mình” (Tr. 52). Quái, không thể nghĩ bàn, không thể dùng lý trí để nhận biết, thì sao có thể trở về! Về đâu?
Chẳng những thế, những câu nói trong Đạo Đức kinh còn mang đầy vẻ nghịch thường mà cụ Nguyễn Duy Cần cho rằng có kết luận bất ngờ. Chẳng hạn câu, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Người biết không nói thì dễ thôi, họ có lý do của họ; nhưng người nói không biết mới bất ngờ. Bất ngờ vì không biết sao có thể nói. Phỏng đây là thách thức bàn dân thiên hạ suy tư, suy nghiệm, nghiệm xét. Nơi Tân Ước, Phaolô viết trong thư gửi Côlôsê, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-22). Làm sao có thể nghiệm xét mọi sự. Cuộc đời này thiếu gì sự việc, sự thể mình không biết mà dám hô hào, “Nghiệm xét mọi sự?” Nói cho đúng, người ta chỉ có thể nghiệm xét trong giới hạn nào đó chứ làm sao có thể nghiệm xét mọi sự. Nghiệm xét mọi sự là thế nào? Đã nghiệm xét mọi sự sao lại còn nói huyền nhiệm và mầu nhiệm? Hừ, mỗi vị thần có phép riêng được rao truyền; mỗi lý thuyết có bế tắc ẩn giấu; mỗi tác giả mang tham vọng nào đó. Mỗi người có ước mơ, tham vọng khó nói lên lời. Mình vẫn chưa biết ước mơ, mục đích cuộc đời của mình là gì, rồi sẽ đi về đâu! Ngày mai, ngày mai, ôi ngôn từ thần thánh!