← Quay lại trang sách

- 2 -

Không cần bàn đến những vấn đề trừu tượng; cái nhất thể dân tộc Việt, đã trãi qua, “Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày” (Lời bài hát của Trịnh Công Sơn), vẫn còn là dân tộc Việt. Đảng phái chính trị, chính em cũng chỉ là nhất thời, cũng chỉ giống như sự tăng trưởng, hoặc khuyết giảm của cặp âm dương nhất thể nơi Đạo, nhưng tại sao lòng tôi cảm thấy đau xót mỗi khi nghĩ đến hoặc nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của dân chúng chung quanh? Họ còn có túp lều để ở; tôi lang thang không ngõ chui về, có gia đình không dám trở lại, trở lại càng đau lòng hơn vì với tâm tính ngang tàng của tôi chắc chắn gia đình, bố mẹ sẽ bị liên lụy. Thì sao không lập gia đình, mình đào hoa lắm mà, tôi thầm nghĩ; mình đâu cần mái ấm để rồi trở thành con thú, tối ngày mặt cúi xuống đất, lưng bán cho trời chỉ vì miếng cơm manh áo. Mình không thích con gái sao? Thích chứ, các nàng dễ thương, hấp dẫn nhưng không thấy cần thiết, không muốn cho bất cứ ai bị khổ lây.

Mình nghĩ gì vậy? Suy nghĩ lung tung khiến tôi ấp sách lên ngực ngừng đọc. Huyền đồng, “Trở về với đời sống giản dị,” cụ Nguyễn Duy Cần giải thích như thế. Sống giản dị là sống thế nào? Phỏng có ai có lối sống giản dị hơn tôi chăng? Không nhà, không cửa, chẳng vợ con đùm đề, không nơi nương tựa, may nhờ có ông Tầm rước về nuôi, nhưng đợi sau sáu tháng, một năm, tôi sẽ quyết định thế nào. Ăn nhờ, ở đậu mà không giản dị thì ăn cướp mới giản dị hơn sao? “Theo Đạo càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi. Vô vi đây là vô dục vậy” (Tr. 54). Trời, trên răng dưới dép thì có gì để bớt? Chẳng lẽ chỉ còn cái mạng lại tự tử quách. Vô vi, bớt cái dục, cụ Nguyễn Duy Cần nói bớt cái dục, thì cụ có vợ con không? Mấy người tu thiền, tu dòng, tu nhóm đã bao lâu năm, hay cả đời có bớt được cái dục không? Ah, “Phải dứt bỏ, dứt bỏ cả lề lối suy tư theo ‘la tập’ nhị nguyên, dứt bỏ lòng ham muốn riêng tư, dứt bỏ cái học trục vật, chạy theo danh lợi bên ngoài… Tóm lại, phải dứt bỏ cái ta nhân tạo, giả dối để trở về với cái ta đồng nhất với Đạo, trở về thanh tĩnh và vô vi” (Tr. 54). Viết lách, đề nghị cái gì? Trở về với thanh tĩnh và vô vi! Không muốn, không ước mơ, tham vọng cũng dễ thôi, nhưng lúc dạ dày kêu réo thì dù cho có vô vi cách mấy đầu gối vẫn phải bò. Hừ, ai không phải lo miếng cơm manh áo; ai không phải tính toán, suy nghĩ sao cho có của ăn, của để hầu ít nhất no cái bụng. Phỏng khi bụng đói meo cụ còn có thể cầm bút viết hai chữ vô vi không hay lại phải hữu vi lục nồi, vét chảo? Cụ Nguyễn Duy Cần viết về Đạo và phương cách trở về với cái được mệnh danh là Đạo mà. Cụ trình bày cái Đạo chứ đâu khuyên nhủ ai! Cụ quảng cáo.

“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Đạo mà có thể thuyết giảng minh bạch được thì không phải là thường hằng, bất biến” (Tr. 54). Quái đản, không biết thì nói thẳng không biết, đàng này lại cố thuyết giảng về điều không biết. Dĩ nhiên, biết mình không biết thì đã là biết, nhưng làm sao có thể nói về điều mình không biết. Phương cách nào để có thể biết điều mình không biết. Đã không biết thì có thể nói chi. Không biết cách nào để có thể bay, để có thể di chuyển nhanh như chim bởi vì mình không có đôi cánh thì ráng tập chạy cho nhanh; chạy hãy còn chậm thì kiếm cách chế ra xe đạp chạy nhanh hơn; xe đạp vẫn còn thấy chậm thì chế ra xe máy, rồi xe hơi, rồi phi cơ; ấy là phát minh; đó là sáng kiến của những người lười và không vô vi, là dục. Quái, bỏ cái dục, bớt cái dục thì sao có tiến bộ, văn minh. Chẳng lẽ sống vô vi là trở về với thời ăn lông ở lỗ. Ở lỗ, có ai không mặc quần áo mà dám ló mặt ra đường chăng? Bớt, bớt đến độ không còn gì để bớt, bớt cái dục, cái ham muốn nghĩa là thế nào? Nói về điều không thể biết thì phải làm sao, phải là sao để biết mới có thể nói. “Đạo khả Đạo phi thường Đạo; Đạo khả Đạo phi thường Đạo! Người nói không biết; kẻ biết không nói!” Kỳ quái! Thôi thì cứ đọc cho hết; đâu phải vô lý mà cụ Nguyễn Duy Cần tốn công sức để quảng bá cái không biết!

“Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Không làm gì là làm tất cả. Quái đản, sao mấy câu nói này cứ làm phiền tâm trí tôi. Và lại thêm câu khác, “Đi xa tức là về gần.” Đi đâu xa nhất? Về gần, về đâu? Đi về nơi trường hợp nào? Đi, đi đâu? Chết là đi xa nhất vì sẽ chẳng bao giờ có thể gặp lại. Về gần! Ah, linh hồn trở về nơi cõi uyên nguyên. Mình bị lừa, tôi thầm nhận ra. Câu nói được chia hai phần, đi xa, nói về hữu vi, thân xác; về gần nói về tâm linh, thực thể linh hồn. Linh hồn là gì, sao có thể minh chứng, cảm nhận, cảm nghiệm? Câu nói pha trộn giữa hữu vi và vô vi, giữa hiện thực và vô hình. Biết không nói cũng thế; nói không biết! Hừ, thôi thì cứ đọc qua cho hết xem sao, may ra gặp được điều gì khác lạ; tôi thầm dự tính.

Mới đó mà chiều đã ập tới, tôi nghĩ, cần phải biết điều một chút nên xuống bếp, mở tủ lạnh định bụng kiếm đồ nấu ăn bữa tối. Cũng vừa lúc đó ông Tầm bước vô lên tiếng,

- Anh định kiếm chi vậy?

- Cháu tìm xem có gì để nấu bữa ăn tối.

- Cơm ban trưa tôi nấu nhiều nên chiều nay không phải nấu cơm, chỉ cần nấu món ăn cho lẹ.

- Bác mua trứng sáng nay, còn ít thịt kho, lại có thêm gà đông lạnh. Ngoài vườn có rau cải, hành hoa; nên cháu nghĩ làm cơm chiên với rau cải.

- Vậy thì nên trụng rau cải với nước muối cho bớt nhặng trước khi trộn với cơm chiên.

- Cháu nghĩ, rau cải luộc ăn với cơm chiên hành hoa với trứng, trộn thịt kho, thịt gà.

- Cũng hay, để tôi ra nhổ rau cải về luộc, anh chuẩn bị chiên cơm.

Cuốn Cái Cười của Thánh Nhân được biên soạn với những câu truyện giả tưởng, không thực tiễn, coi độc giả như những đứa bé ba, bốn tuổi nhưng đầy mơ mộng viễn vông. Cụ Nguyễn Duy Cần có ý định chi khi biên soạn cuốn này? Để diễu thiên hạ hay để đánh thức độc giả, dẫn dắt độc giả nhìn lại chính mình nơi phương diện nào đó? Nơi câu truyện tặng bó lúa, phi lý, nhiều thì tặng thóc, ít tặng gạo. Chỉ cho một bó lúa, không hiện thực chút nào. Thế thì liên quan gì đến thánh nhân; chẳng lẽ thánh nhân ngu ngơ như đứa bé ba, bốn tuổi? Nơi phần phụ lục của cuốn sách, in thêm phần Tư Tưởng U Mặc, những câu nói nghịch thường. Không nhớ tôi đọc được từ nơi đâu, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương?” Hoặc, “Thượng Đế và Satan là một?” Đọc mà giật mình, quả là phạm thượng. Thiên Chúa là Thiên Chúa và là Thiên Chúa độc nhất. Lý lẽ nào, trường hợp, trạng thái nào có thể đánh đồng Thiên Chúa với Satan. Cái bóng của ai là hình ảnh người đó. Bóng của Thượng Đế sao có thể là quỷ vương! Tên đề của sách là Cái Cười của Thánh Nhân thì chẳng lẽ thánh nhân có những nụ cười ngây ngô như thế sao? Hèn chi có thành ngữ, “Nói thánh nói tướng.”

Tới chừng nửa đêm thì tôi đã đọc xong cuốn Cái Cười của Thánh Nhân. Kể ra tôi đọc cũng nhanh; mới hơn sáu tiếng đã xong hai cuốn sách. Mà sao những gì được viết nơi hai cuốn này đánh động nặng nề đến tâm tư tôi. Nguyên những chuyện đâu đâu không liên hệ gì đến cuộc sống. Những chuyện khùng khùng điên điên. Ông Tầm muốn tôi đọc mấy cuốn này vì lý do gì? Nói cho đúng, mới đọc được hai cuốn mà nơi tâm trí tôi nổi lên một trận chiến liên miên bất tận, và đối thủ của tôi lại vô hình, lại là những phát biểu, luận điệu thách thức tôi suy nghĩ để giải mã chúng sao cho hợp tình, hợp lý nơi trạng thái, trường hợp nào đó. Trạng thái nào, trường hợp nào? Đã từ lâu tôi vẫn tự hỏi, nơi trạng thái nào cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương? Trong trường hợp nào Thượng Đế và Satan là một? Thượng Đế là gì; Satan là gì?

Chính khi đọc hai cuốn với những phát biểu, ngụ ngôn ngang ngược, nhưng đôi khi ngờ nghệch này, tâm trí tôi lại liên tưởng đến những câu nói nghịch thường nơi Tân Ước; khiến tôi lờ mờ cảm nhận, hình như kiểu phát biểu nơi Tân Ước mang sắc thái nào đó. Chẳng hạn, “Kẻ cầm cày mà quay trở lại phía sau thì không thích hợp với nước Thiên Chúa (Lc. 9:62). Quay trở lại phía sau để làm gì trong khi phải để ý điều chỉnh lưỡi cày cho luống cày đều đặn theo sau con trâu phía trước. Sự thể giống như giả tưởng chẳng khác gì những chuyện ngụ ngôn.

Nơi cuốn, Cái Cười Của Thánh Nhân, cụ Nguyễn Duy Cần cho rằng “Yếu tố quan trọng nhất của văn u mặc là sự bất ngờ, nghĩa là không thể dự liệu trước được” (CCcTN; Thu Giang Nguyễn Duy Cần; Đại Nam xuất bản; Glendale, CA, USA; năm?; Tr. 31). Tôi cảm thấy hình như điều được cụ Nguyễn Duy Cần cho là “Sự bất ngờ” chẳng khác gì nhẩy trật đường rầy này để bước sang đường rầy khác. Đường rầy nào thì tôi chưa xác định được. Tuy nhiên, hình như nơi tâm trí nổi lên ý niệm nào đó, mơ mơ màng màng thúc đẩy tôi cần tìm cho biết.

Năm giờ sáng hôm sau, tôi dậy sớm theo tập quán để luyện võ. Chừng tiếng sau trở vào nhà đã thấy ông Tầm đang ngồi uống cà phê nơi bàn ăn, đồng thời cũng có thêm một ly trên đó phin pha cà phê vẫn còn đang nhỏ giọt dành cho tôi.

- Hôm nay, anh mua con cá về nửa kho, nửa chiên.

- Bác muốn ăn loại cá nào?

- Nếu có được con cá dảnh thì tốt.

- Cá dảnh là cá gì?

- Anh có biết câu, “Lươn ngắn lại chê trạch dài; thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm” không? Cái con thờn bơn ấy.

- Ah, con cá ngộ, con cá mặt đen, mặt trắng. Cháu biết tên nó là cá thờn bơn, cá ngộ, nhưng cá dảnh thì mới nghe lần đầu. Ở đây họ có bán khô cá ngộ không bác? Nếu có, cháu mua thử một vài con về nhậu đế.

Ông Tầm đưa cho tôi 10 đồng; tôi đạp xe ra chợ. Chỉ kiếm được một con cá ngộ bằng hai bàn tay, sao đủ chiên và kho, tôi định kiếm thêm một con cá trê về kho bởi chợt nhớ câu ví von, “Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê.” Nhớ ngày còn nhỏ, mỗi lần nhà có cá trê kho khô với rau răm và ớt, tôi ăn cơm quên chết. Cá trê chiên sơ, kho khô, hơi mặn, nêm bằng nước mắm, thêm ít muối, đáy nồi lót một lớp rau răm, thêm ớt, sả, và đun lửa riu riu cho tới khi cháy cạnh. Không thể diễn tả được mùi vị nó tuyệt vời thế nào. Vì hơi mặn nên ăn với cơm rất dôi, chỉ mới nghĩ tới đã muốn trôi cả cái lưỡi. Sau khi mua được con cá ngộ, kiếm ngang, kiếm dọc mấy hàng cá tươi mà vẫn không thấy cá trê, một chị bán cá chợt hỏi tôi,

- Chú kiếm dzì dzậy?

- Tôi đang tìm xem có ai bán cá trê không. Tôi muốn mua một con.

- Sớm nay tui có được mấy con đã có người mua rồi. Ở chợ này chỉ tui mới có vì ba tui đánh lợp bên sông. Tui chỉ còn năm con cá rô, chú mua tui bán hời cho. Cá rô này béo lắm, không thua cá trê đâu. Chú đem về kho tiêu, ớt, sả, nước mắm, nếu có thêm chút xì dầu và ủ trấu cho khô và mềm cả xương ra ăn mới đã. Thế bà xã đâu mà chú phải đi chợ sớm vậy?

- Dạ, tôi còn đang định kiếm mà chưa có ai chịu, nghèo quá mà, ai dám thương. Mấy con cá rô này chị bán nhiêu?

- Tui lấy chú đồng hai thôi.

- Một ngày công chỉ có hai đồng mà năm con rô này những đồng hai; chúng có quá mắc không chị?

- Tui lấy chú đồng hai không mắc đâu. Người khác, tui tính đồng rưỡi còn hời đó. Cá nhà mần ra, tui đâu e hơn, thiệt.

- Thì chị lấy tôi một đồng làm quen để lần sau tôi còn ghé hàng chị nữa. Tôi đàn ông, đàn ang nào có quen chợ búa, trả giá chi.

- Chú về nói bà xã đi chợ cho khỏi bị lừa. Tui nói thiệt nè, đồng hai là quá hời rồi.

Tôi đã ấm ớ mở lòng, vì nghèo nên không ai dám thương do đó chưa có vợ mà chị ta còn giả vờ nhắc tới “Bà xã;” khiến tôi chợt có ý nghĩ chị này muốn tôi vô tình khai ra vị thế hiện trạng của mình; do đó tôi đánh đáo lưỡi,

- Có được bà xã thì cũng đỡ, được cả đàng nọ lại được cả đàng kia, nhưng, tôi ởm ờ, nhỏ giọng, nơi thời buổi khốn khổ này nào ai dám dây mình vô thứ tứ cố vô thân.

Mấy người đàn bà bán cá biển kề bên nghe tôi than thở trả giá mỉm cười liếc chị bán cá rô, rồi nhìn tôi có vẻ lạ lùng. Nơi chợ miền quê này, hiếm thấy ông nào lảng vảng nơi hàng cá hàng tôm; mà tôi lại là thanh niên hơ hớ, vừa mua con cá ngộ nơi hàng cá biển cách chị ta hai thớt hàng, lại nhì nhằng, đôi co trả giá mấy con cá rô. Đàn ông đâu chả thế, cho dù những tay bợm nhậu, cũng chẳng bao giờ trả giá hơn thiệt khi mua đồ, cứ nhắm mắt nhắm mũi móc tiền trả theo giá nói của chủ cửa hàng. Công nhận năm con cá rô ngon thiệt. Mẩy thật là mẩy, lại to nữa, ít khi gặp được những con rô lớn như thế. Con cá ngộ tôi vừa mua hết một đồng, nếu đem so với năm con cá rô này thì chúng đáng giá hơn kém hai đồng. Lòng tôi thấy vui vui, cô bé cỡ chừng 18, 20, gọi tôi là chú, chắc chưa lập gia đình; vì nếu cô đã có chồng, thường sẽ gọi tôi bằng anh, người miền Nam mà. Nói cho đúng, đồng hai đối với năm con cá đâu mắc mỏ gì, nhưng tôi muốn nhì nhằng, nói qua nói lại với cô bé này cho vui. Hơn nữa, tôi định láu cá khi cô bé nói “Lấy tui đồng hai.” Ngôn ngữ Việt mình dễ thương thiệt. Nói một đàng, hiểu một nẻo, duyên dáng, thân tình ghê nơi.

Cái số của tôi nó đào hoa kỳ lạ; miệng thì dẻo quẹo dễ thương. Nói cho đúng, đễ thương tại tôi rất tôn trọng mọi người nên ăn nói lễ phép, nhẹ nhàng, lại luôn luôn tỏ ra mình kém vế hơn người đối diện. Thực ra, tôi cũng chẳng đơn giản gì; đẹp trai, cao ráo, thuộc hàng sinh viên sinh hòn, và hơn nữa ít nhất đệ tam đẳng huyền đai, chăm chỉ luyện võ nên vóc dáng cường tráng dễ bắt mắt. Bởi thế, thái độ và cách thức ăn nói của tôi hiền hòa, dễ thương, nhưng niềm tự tin, thách đố với phận số đã tạo cho tôi vẻ bất khả xâm phạm. Tôi không bao giờ chọc chạch đàn bà con gái vì như thế là hèn, là thiếu nhân phẩm. Có lẽ thái độ đứng đắn càng làm tôi ăn khách, hấp dẫn hơn. Có điều, chưa bao giờ tôi cảm thấy mình cần có người bạn đời, mà có chăng chỉ e ngại, nếu có vợ con, tôi sẽ bị ngăn chặn cảnh tự do vùng vẫy giữa chợ đời. Nơi hoàn cảnh người người khốn khó kiếm ăn từng bữa này, có vợ, tôi chỉ còn nước tối ngày căm cúi lo miếng cơm manh áo thì cuộc đời sẽ buồn biết mấy!

Chị bán cá này cũng khá xinh gái, tuổi mười tám, đôi mươi, con gái nào trông không hấp dẫn. Ăn nói nhẹ nhàng, cởi mở của chị càng khiến tôi muốn kiếm cớ nhì nhằng, đôi co cho thêm phần thân thiện. Có lẽ ai cũng biết trị giá năm con cá rô lớn như thế mà chỉ có một đồng hai là quá rẻ, thế mà tôi cứ lý này, cớ kia, rồi lại còn ám định trở lại mua hàng để hạ thấp giá thì cũng lấy làm lạ. Hơn nữa, tôi lại là thanh niên trẻ, hiện thân của giới ham vui, chơi đùa mà phải đi chợ mua cá về nấu ăn. Ngay từ đầu, chị bán cá đã dợm hỏi lý do tại sao tôi phải đi chợ nên mọi người chung quanh đều biết tôi còn độc thân. Nếu đi chợ kiếm đồ nhậu đâu ai ghé hàng cá. Thực ra, so sánh giá cả giữa cá và thịt thì nếu tính về lượng, cá mắc hơn, lại nấu món nhậu phiền hơn; bởi vậy, tôi trở thành trung tâm cho những cặp mắt chung quanh để ý tới. Nhưng chị bán cá này lại không tỏ vẻ chi phiền hà vì cảnh nói qua nói lại lằng nhằng của tôi. Thế nên, quen thói tửng tửng, tôi đò đưa,

- Tôi mua chị một đồng làm quen; chị cũng chỉ nên lấy tôi một đồng thôi. Lần sau, nếu muốn ăn cá, tôi sẽ ghé chị cho bõ công quen biết.

Làm ngang như thuộc thành phần quê mùa, tôi nói theo kiểu bớt đầu bớt đuôi cho gọn, nhưng ngôn ngữ lại ngược ngạo “mua chị” và “lấy tôi.” Tôi nhẹ liếc mắt xem cảm ứng của mấy bà hàng cá đôi bên; thấy họ mỉm cười nhưng không hiểu họ có biết ẩn ý nơi câu tôi nói chăng.

- Thì cũng được. Tui lấy anh một đồng; cá do tía tôi đặt lờ chứ nào tui có buôn bán chi đâu. Lần sau mua cá nhớ tui nghen.

- Tôi sẽ đi chợ mỗi ngày, ghé đây hay không tôi không dám chắc, nhưng nhớ chị thì tôi luôn nhớ.