← Quay lại trang sách

- 3 -

Miệng tôi dẻo và dễ thương đến thế nên chẳng hiểu đào hoa nơi tôi do cái miệng hay phận số. Thực ra, tôi nhì nhằng với cô bé bán cá vì nhớ lời ông Tầm dặn cố ý làm quen hoặc để mọi người biết sự hiện diện của tôi nơi miền đất xa lạ này. Dẫu biết mình thuộc loại đào hoa nhưng được thấm nhuần nơi phong hóa, luân lý, và đạo đức chủng viện, tôi chưa bao giờ có dù chỉ là ý định hoặc ước muốn bôi bác hay khinh thường bất cứ ai, đặc biệt nữ giới. Qua nhận biết thực tại cuộc sống khó khăn, dân chúng nào sung sướng chi mà còn cực nhọc, khổ ải bon chen với cuộc sống; thêm vào đó được nuôi dưỡng lớn lên trong gia cảnh chẳng khấm khá gì nên phải đối diện với bao cảnh khó khăn sinh sống, tôi không muốn, bằng bất cứ giá nào, có thái độ hoặc hành động bất nhã với bất cứ ai.

Tôi miệt mài đọc cuốn Quân Vương ngay nơi phòng ăn sau khi cơm trưa xong. Cuốn sách phân định các loại thực tại thế cục dân sinh và quân quyền; đồng thời trình bày mưu chước, thái độ diễn xuất, và những phương án trị vì của bậc vua chúa trong những hoàn cảnh khác nhau. Nơi cuối sách được ghi lại vần thơ của Pétarque, “Đạo l‎ý chống bạo tàn, võ khí sẽ sớm thành công tiêu diệt quân thù. Trí dũng cảm từ xưa vẫn có và còn mãi mãi trong người dân ta” (Le Prince; Quân Vương; Machiavell; Phan Huy Chiêm dịch; Quán Văn; Saigon; VN; Năm?; Tr. 190).

Tôi không hiểu ẩn ý ông Tầm muốn gì khi đưa tôi đọc cuốn này. Có bao giờ tôi thèm nghĩ tới làm ông nọ ông kia đâu. Trong văn chương người Việt có câu, “Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng.” Tôi được sinh ra trong một gia đình bình dân; gia đình nghèo nàn thuộc hàng dân dã thì lấy gốc gác nào, phương tiện nào, mà đòi leo lên vị thế này nọ trong cuộc đời. Đâu ai lạ gì, “Con vua thì được làm vua; con chú sãi chùa đành quét lá đa.” Dẫu biết rằng anh hùng không vị quá khứ nhưng vào thời buổi nhiễu nhương, xáo trộn, bất thường, và khốn khổ này, phải để ý từng lời nói, tránh vô tình làm nấc thang cho kẻ khác rình mò lấy điểm thì anh hùng đâu bằng miếng cơm hẩm khi lục tung cả nhà lên vẫn không kiếm được chút chi ăn cho sống người!

Dẫu nghĩ thế, nhưng tôi chỉ biết bụng bảo dạ, ít ra cuốn sách cũng giúp cho tôi tăng thêm nhận thức như một phần hành trang chuẩn bị cho quãng đường đời vô định đang trờ tới, hầu thản nhiên đón nhận những biến chuyển có thể bất ngờ mà không làm tôi sửng sốt, giao động. Dĩ nhiên, mọi sự, mọi việc đều có giá phải trả. Diễn tiến nơi giòng đời đâu phải tự nhiên bất thường xảy tới. Nếu không để tâm suy nghĩ, nhận định, những sự kiện “Cái xẩy nẩy cái ung,” ngỡ ngàng xảy đến biến thành tai bay vạ gió, có ăn năn thì cũng đã muộn. Vô tình, lơ là không chú ý coi chừng thì khi khốn khó ập tới, tìm đâu thuốc chữa bệnh hối hận. Đương nhiên, cuộc đời đâu thiếu người tốt lành, nhưng hình như nơi thành ngữ có câu, “Chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Nhiều sự việc trong cuộc đời xảy ra như thế, nhưng đâu phải thế. Sự đời đều có giá phải trả, và nếu không muốn phải trả với giá không hài lòng thì cần trả giá cho sự chuẩn bị hầu “Tránh voi đâu hổ mặt người.”

Xưa nay, nay xưa, tôi chỉ nghĩ mỗi người có một phận số; con vua thì được làm vua; bởi thấy lắm cảnh chẳng thuận lý, không hợp tình vẫn nhan nhản trước mắt. Chẳng khác gì nơi vần thơ Tản Đà có câu, “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, cho nên quân ấy mới làm quan,” trong cảnh, “Những người khố rách áo ôm, mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng” (Thơ Tản Đà; “Đời Lắm Việc;” Đồng Nai; VN; năm?; Tr. 133). Thật là khó thể chấp nhận nhận định, “Thằng dân ngu quá lợn,” mà có lẽ chỉ tại không biết, không nhận thức và thực hành, “Dân vi qu‎ý; xã tắc thứ chi; quân vi khinh.” Hai mươi mốt năm từ ngày Bắc vào Nam, dẫu được nuôi dưỡng trong gia cảnh bình dân, nhưng có bao giờ tôi phải đối diện với nỗi thương cảm khi thấy người người chung quanh bần hàn như thế này. Thực tế minh chứng, không phải cứ kiên thủ làm ăn, chắt bóp, cần kiệm, là có thể giầu có; mà chỉ những ai được sinh ra với số phận giàu có mới có thể giàu được. Kiên chí làm lụng, cần kiệm, chắc chắn sẽ không bị đói nghèo, chứ phận đã không được giàu có thì khi có tiền, rồi tiền cũng vì lý do nào đó ra đi; chả thế mà nói tiền bạc; tiền thì bạc bẽo nếu không được dùng như đầy tớ, phương tiện. Phỏng thời đại này, nơi đất nước này, vận số dân chúng đều toàn là phận nghèo, hay đất nước đến hạn vận long đong khốn khổ, đối nghịch nên “Quân ấy mới làm quan!”

Những gì được viết nơi cuốn Quân Vương đối nghịch nhận thức của tôi về vận số, phần nào đó khuyến khíchtâm trí đặt lại vấn đề hầu phát triển nhận thức suy nghĩ, để rồi quan sát, nhận định, và phát triển phương thức giải đáp đối diện với cuộc đời tùy thuộc hoàn cảnh. Nhờ cuốn sách này, tôi hiểu được câu, “Tầm thường và lòn cúi, việc gì cũng thành công” (Beaumarchain); trong khi, “Những vị quan giỏi là những người đầy mưu mánh.” Muốn có mưu mánh phải suy nghĩ, nhận định. Dĩ nhiên, con người đâu phải loài chim, nên sao có thể chấp nhận, “Hãy nhìn chim trên trời, không gieo vãi, gặt hái, không cất vào kho lẫm; mà Cha trên trời còn lo cho chúng” (Mt. 6:26). Đối với con người, không suy nghĩ, làm lụng kiếm miếng cơm, manh áo thì chỉ đi ăn mày, sống dựa vào sự bố thí của thiên hạ. Vào thời buổi gạo châu củi quế này, nhà nhà phải ăn bo bo vẫn chưa đủ no thì ăn mày chỉ còn cách cạp đất, vẫn không có đất mà cạp bởi đất của nhà nước.

Có điều lạ, đó là nghĩ quanh, nghĩ quẩn, mấy câu nói nghịch thường nơi sách đọc, mấy câu Phúc Âm cứ nhào vào tâm trí tôi khuấy động. Tại sao, có điều gì, tính chất gì liên hệ giữa Phúc Âm và những câu nói ngang ngược, kỳ cục này. Có lẽ, tại vì tôi được theo học nơi trường sở Công giáo, được nghe nhắc đi nhắc lại quá nhiều lần, lại có trí nhớ khá tốt nên những câu nói nơi Phúc Âm tương đương tính chất dễ dàng hiển lộ khi suy nghĩ chăng, nhưng nơi phương diện, tính chất nào, trạng thái, hay trường hợp gì? Điều gì, tính chất nào tương đồng giữa sự thể ăn mày, sống dựa, có thể liên hệ tới loài chim, chẳng phải khổ nhọc gì vẫn có sâu bọ làm thực phẩm vui sống qua ngày? Mới chỉ hôm qua và sáng nay mà đầu óc tôi muốn nổ tung lên. Thôi, hãy để đầu óc yên nghỉ suy tư, đi tưới rau.

Đặt lên vai chiếc đòn gánh bé bé xinh xinh hai đầu móc với dây cột đôi thùng “Ô doa” (thùng có làm thêm doa để tưới nước trên luống rau), tôi thầm nghĩ, những hạt cỏ cây sẵn đấy, những con sâu xanh mọng nơi hoa lá đấy nhưng chim phải kiếm tìm. Con người thì phải trồng tỉa, phân bón tưới nước. Công việc nào không là công việc mới có thể tiếp tục cuộc sống. Chim coi bộ không phải gieo vãi chi, nhưng cả ngày, cả đời đều chỉ lo kiếm tìm hạt cây cỏ, sâu bọ ăn cho no chiếc dạ dày. Ah, nếu không có những con chim kiếm tìm sâu làm thực phẩm thì sâu bọ sẽ ăn trụi hết luống rau, còn đâu cho con người chăm bón. Phỏng những con chim được nuôi dưỡng bằng những con sâu hoặc bông hạt cây cỏ, hay mang nhiệm vụ bắt sâu bọ làm hại rau cỏ? Một công đôi việc, vừa sinh sống vừa giúp ích, vậy mục đích của những con chim là gì? Chúng có bao giờ nghĩ đến mục đích cuộc đời của chúng không? Rồi những con muỗi, con gián, chúng có nhiệm vụ gì?

Đặt vấn đề mục đích cuộc đời của loài chim, tôi lại tự khúc mắc về mục đích cuộc đời của mình. Câu hỏi này không biết đã tự bao giờ nổi lên nơi tâm trí. Tôi được sinh ra, có cuộc đời để làm gì; sống để làm chi. Con chim, muông thú, lo kiếm ăn, truyền giống và chết đi từ thuở xa xưa. Con người cũng thế; quyền năng, giầu có, danh tiếng, rồi cũng đi vào quên lãng theo dòng thời gian năm này trôi theo tháng nọ. Ai cũng thế thôi, vào đời tay trắng và rồi ra đi cũng trắng đôi bàn tay. Còn chăng, tiếng tăm để lại; mà tiếng tăm nào có lợi ích gì, giúp gì khi thân xác đã chìm sâu dưới lòng đất. Cuộc đời là gì; sao tôi cứ cảm thấy điều chi khao khát chẳng khác ước mơ đuổi bắt trong tâm tưởng. Tôi khao khát điều chi, ước vọng nào cứ mờ mờ, ảo ảo trong tôi chẳng khác chi câu nói trong cuốn Lão Tử Tinh Hoa, “Người biết không nói.” Tôi biết tôi có ước vọng nhưng không phân định được ước vọng đó là gì nên chẳng thể nói được chi. Phỏng điều mơ ước mịt mù đó được cụ Nguyễn Duy Cần gọi là Đạo?

Cuốn Hành Trình về Đông Phương được Nguyên Phong dịch từ cuốn Life and Teaching of the Masters of the Far East, tác giả Baird Thomas Spalding, tôi đã có dịp đọc trong thời kỳ luyện thi tú tài hai. Tôi không hiểu sao tên đề bản dịch lại có vẻ như nói về hành trình thực nghiệm, phỏng đây là kiểu gây chú ý tới người mua (độc giả)? Tôi còn nhớ rõ, nơi phần lời tựa (Foreword), Blair T. Spalding đã viết, “I wish to state that I was o­ne of a sesearch party of eleven persons that visited the Far East in 1894.” Tôi không nhớ rõ đã đọc được từ đâu đó, ông Spalding, có nơi viết, được sinh ra tại New York, USA, vào năm 1872, nơi khác được viết ông sinh tại Anh quốc năm 1857. Ông qua đời năm 1953. Cũng theo lời tựa nơi cuốn bản tiếng Anh, tác giả nói cuốn sách ghi lại công trình biên khảo và gặp gỡ một số vị chân sư, “Masters,” khi ông cùng phái đoàn ghé qua Ấn Độ để nhờ họ thông dịch một số tài liệu từ những kinh điển đạo học của Ấn Độ.

Phần cuối của lời tựa nơi bản tiếng Anh, Spalding cho rằng, các vị chân sư bên Ấn chấp nhận Buddha tượng trưng phương pháp dẫn đến thức ngộ; đồng thời họ cũng công nhận đức Giêsu là vị thức ngộ hoặc được coi như đạt tới trạng thái tâm thức mà mọi người hằng ước mong đạt tới. Nơi câu kết, Spalding viết, “Đức Giêsu là ánh sáng chiếu rọi mọi tâm hồn, ánh sáng hướng dẫn mọi hài nhi sinh vào thế giới.” Không đọc được từ bất cứ nơi đâu để biết tác giả Spalding theo tôn giáo nào, nhưng dựa vào câu cuối của lời tựa, tôi nghĩ Baird Thomas Spalding theo Kytô giáo.

Cũng vui khi đọc được bản dịch này nơi tiếng Việt. Theo nhận định của tôi, sách được viết dưới quan điểm Tây phương, dùng những tài liệu biên khảo để ghép nối thành câu truyện diễn tả hành trình của một nhóm người đối diện với những sự thể, sự việc như thành quả nghiệm chứng được ghi chép. Gốc gác của những thành quả này được cho là thuộc về quyền lực tối thượng đang hiện diện và hoạt động mọi nơi, mọi chốn mà bình thường chúng ta không để ý hoặc không để tâm suy nghiệm. Một đôi nơi, tác giả dùng nhận thức vật lý để minh chứng nguồn năng lực của quyền lực tối thượng này thể hiện nơi cuộc sống của sinh vật.

Nơi một đoạn văn giải thích về sự di chuyển để sinh nở của loài nhệch (Lươn biển) trong bản dịch được viết, “Này các ông bạn, cá hồi (Salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy? Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda. Muốn đến đây một con lươn Âu Châu phải đi gần 4000 cây số, lươn Á Châu phải đi xa hơn có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam Dương. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn Ðộ và một con lươn giống Thái Lan không bao giờ đi lạc sang Phi Châu. Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn?

Khi đọc bản in tiếng Anh, tôi cũng như mọi người, đọc để mà đọc, đọc để có thêm kiến thức, đôi khi nảy sinh nhận định và biết để mà biết. Mọi sự hiểu biết từ sách vở coi như chuyện ngoài tai. Thử hỏi ai không như thế! Chẳng hạn qua bốn năm học âm nhạc nơi chương trình trung học đệ nhất cấp, từ lớp đệ thất (lớp 6) cho tới lớp đệ tứ (lớp 9) ở Việt Nam thời trước 1975, quý vị đã biết được những gì về ngành nghệ thuật ấy, hay nếu ai thích và muốn học hay tự học đánh đàn dương cầm hoặc guitar đành phải mò mẫm lại từ đầu như chưa học gì. Nghe giảng giải về lý thuyết âm nhạc và thực tập, thực hành đánh đàn, áp dụng lý thuyết nơi thực hành đánh đàn là hai sự thể hoàn toàn khác biệt, chẳng khác gì nghe giải thích về lợi ích của thực phẩm hoàn toàn khác với hành động ăn uống.

Thế nên, có dịp đọc bản dịch Hành Trình về Đông Phương, nhất là khi đọc đoạn nói về cá hồi và những con nhệch (lươn biển) chưa kịp lớn, không biết gì về quê hương của bố mẹ chúng, nhưng chỉ mới cỡ sáu inches (8 cm), biết cắm đầu cắm cổ, một mạch bơi về quê cha đất tổ, tôi mới nhận ra tác giả muốn dùng sự việc nơi phương diện vật lý hiện thực của loài nhệch để minh chứng có một quyền lực đang hoạt động nơi những con cá hồi, nơi những con nhệch thơ dại, nơi tạo vật. Tôi cảm thấy có niềm vui nào đó nở rộ trong tâm tư, và cũng chính sự nhận thức này kéo tâm trí tôi liên tưởng đến sự thể mà cụ Nguyễn Duy Cần gọi là Đạo ở cuốn Lão Tử Tinh Hoa. Tôi tự hỏi, năng lực nào, quyền lực nào dẫn đưa những con cá hồi từ ngoài khơi biển mặn trở về nguồn nước ngọt thời được trứng nở ra để đẻ trứng? Năng lực nào, quyền lực nào dẫn dắt những con nhệch còn măng sữa trở về vùng quê hương, nơi bố mẹ chúng trưởng thành? Năng lực nào dẫn dắt những con chim biết bắt sâu bọ nơi cây cỏ, biết cặp đôi rồi để trứng, nở con, biết công mồi mớm con. Ah, có lần, khi còn đang đi chặt cây bán làm nhà kinh tế mới nơi Tân Hữu, tôi thấy được tổ chim di tuyệt vời, tuyệt vời hơn tác phẩm của bất cứ nghệ sĩ điêu khắc nào. Riêng tôi, năng lực, quyền lực nào kiến tạo nơi tâm tư nỗi thao thức mờ mờ, ảo ảo, khiến tôi cố kiếm tìm mà mãi tận lúc này vẫn chưa nhận biết.

Cái năng lực, quyền lực nào dẫn đưa cá hồi trở lại sinh quán, khiến những con nhệch chưa kịp lớn đã thuận theo bản năng, vượt hành trình ngàn vạn dặm đầy môi miệng của những kẻ săn mồi dưới nước để trở về đúng quê hương nơi bố mẹ chúng trưởng thành? Lời ca, cung nhạc của bản thánh ca “Đồng Cỏ Tươi” vang vọng đâu đây nơi tâm trí, “Đồng cỏ tươi, Chúa chăn cho tôi nghỉ ngơi, trên đồng cỏ non xanh rì; tôi nay còn thiếu thốn chi, vui thay mà cũng phúc thay!” (Thánh Vịnh 22). Đâu đây hiện về nơi Tục Ngữ, Phong Dao, dân Việt có thành ngữ, “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ,” như dục giã tâm tư tôi để ý đến thực trạng hiện hữu nơi mình, danh hiệu của sự thể năng lực bẩm sinh đang hoạt động nơi tôi, nơi mọi người, nơi tạo vật mà dân gian và các tôn giáo mệnh danh bằng những danh hiệu khác nhau như Trời, Tạo Hóa, Thiên Chúa, Ông Xanh, Quyền Lực Hiện Hữu, v.v… Chính lúc này, câu Phúc Âm, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6), nhắc nhở nơi tâm trí, Thiên Chúa là sự sống; chính sự sống đang hiện hữu nơi tôi, nơi tạo vật, dẫn đưa những con cá hồi về sinh quán gốc, khiến những con lươn biển măng sữa biết tìm về quê hương bố mẹ chúng. Đã bao năm qua, danh hiệu Thiên Chúa hằng ngày được nhắc nhở bên tai mà tôi đã chẳng để ý; tôi sống nhưng không để tâm, không nhận biết sự sống nơi mình là chi, mà cứ coi đó là chuyện thường tình. Chính sự thường tình, bẩm sinh, đang hét vào tai tôi, hãy tỉnh thức, tỉnh thức nhìn lại bản thân hầu nhận biết thực thể hiện hữu của mình thực sự là chi!

Không hiểu sao, sự nhận biết này ảnh hưởng mạnh mẽ nơi tâm trí, liên miên ám ảnh, thúc giục tôi tìm tòi cho ra lý lẽ hoặc thực tại, sự thật nào, manh mối nhận thức cũng như sự liên hệ nào nơi suy luận, suy tư đã tạo nên kết luận mơ hồ về sự hiện hữu của mình; đồng thời tôi cũng cảm thấy ngỡ ngàng với chính mình; vì tại sao đã bao nhiêu ngày tháng, qua nhiều sách vở tôi đã đọc, không một tác giả nào nói lên được mục đích của đời người, mà chỉ phân tích, nói tới tham vọng, ước vọng ngắn hạn, rồi đưa đến diễn tiến, diễn trình vô cùng của ham muốn nhân sinh, đạt được mơ ước này thì lại chồng chất thêm thèm khát khác trờ tới, tạo thành động lực, cố gắng liên miên bất tận, thúc giục, lôi kéo con người lao công, mệt mỏi không ngừng nghỉ, trầm luân trong ham muốn hầu đạt được ước mơ. Hèn chi cụ Nguyễn Duy Cần nói tới “Huyền Đồng,” trở về thanh tĩnh, vô vi.

Tôi có tưởng tượng không? Albert Einstein cho rằng tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức; vì kiến thức thì hữu hạn, và tưởng tượng thì vô hạn. Hèn chi ước mơ, ước muốn, tham vọng của con người trở nên vô cùng bởi chúng hàm chứa tưởng tượng. Ước mơ, tham vọng của tôi là gì? Mục đích cuộc đời của tôi là chi? Tôi được sinh ra để làm gì? Không biết tại sao mình có cuộc đời, không biết mục đích cuộc đời của mình là chi, chẳng hiểu nỗi thao thức trong lòng thực sự như thế nào thì biết sao mà tưởng tượng. Chính ngay cuộc sống còn bấp bênh, rày đây, mai đó, ngày ngày chỉ lo sao có được miếng cơm, manh áo cho qua, tương lai mờ mịt, không dám dầu chỉ nghĩ tới, thì tưởng tượng, ước mơ nào còn chỗ đứng. Tôi muốn gì, tôi phải thực hiện, phải làm chi? Những ý nghĩ, những câu hỏi mờ mờ ảo ảo cứ luẩn quẩn, dồn dập nơi tâm trí chẳng khác nào đám mây dày đặc, luôn cuồn cuộn giao động, quấy phá, thách đố tôi gỡ rối. Đầu mối đâu mà gỡ, gốc gác đâu để tìm!

René Descartes nổi tiếng với câu, “Tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu.” Hiện hữu để làm gì? Con chim, con muỗi cũng hiện hữu; mục đích của những sự hiện hữu là thế nào? Không hiểu có ai bị phiền hà bởi những ý nghĩ như tôi chăng? Tại sao cụ Nguyễn Duy Cần nêu lên điểm huyền đồng nơi Đạo Đức kinh? Sách vở nào nói lên mục đích của sự hiện hữu? Tại sao Descartes phải đặt vấn đề nhận biết sự hiện hữu của mình bởi nhận biết mình suy nghĩ. Sự suy nghĩ thuộc dạng vô hình; sự hiện hữu xác thân hữu hình. Sao lại phải dùng sự hiện hữu vô hình để xác quyết sự hiện hữu thân xác hữu hình mà không dùng ngược lại. Chẳng lẽ gốc gác của sự hiện hữu hữu hình bắt nguồn từ ý niệm, ý nghĩ, nhận thức, tưởng tượng vô hình. Quái, nghi ngờ sự hiện hữu của thân xác, vật chất chung quanh đến nỗi phải dùng ý niệm, ý nghĩ, chẳng thể đụng chạm, chẳng thể rờ tới được, để minh xác sự hiện hữu hữu hình, quả là kỳ cục, ngược đời. Như vậy, tôi là thế nào, tôi có hiện hữu hay không? Thân xác, cuộc đời của tôi là gì? Mấy cái ông “triết da, triết thịt” này chỉ bới bèo ra bọ; thế sao họ được người người thán phục, coi trọng? Coi trọng vì lý do gì? Vì họ đã bày ra được điều kích thích người khác suy nghĩ, đặt vấn đề, cho dù những vấn đề đó không đem lại miếng cơm manh áo cho bất cứ ai? Sao suy nghĩ lung tung thế, tôi tự hỏi để rồi tự nhủ, còn mười mấy cuốn khác và một tập bản thảo nữa, hãy đọc cho hết rồi tính.

Thoạt tiên, khi nhận tập sách, tôi thầm tính chỉ nội trong một tuần là sẽ đọc hết, nhưng chỉ mới ngày thứ hai, dẫu đã đọc qua được bốn cuốn, Lão Tử Tinh Hoa, Cái Cười của Thánh Nhân, Quân Vương, và Hành Trình về Đông Phương, tôi đã bị tối tăm mặt mày; nhiều vấn đề được khêu gợi lên trong tâm trí mà vẫn chưa có lời giải đáp. Nhưng tại sao khi ông Tầm trao sách cho tôi, ông lại nhấn mạnh cách đọc, “Tôi nhắc lại, đọc sách không giống như đọc truyện giết thời giờ mà thực nghiệm những gì có thể được viết nơi sách vô bản thân.” Lăng quăng nói về vấn đề âm nhạc, sao ông có thể bới ra cơ cấu công thức của hợp âm trưởng, sự khác biệt giữa hợp âm trưởng và hợp âm thứ, nguyên tắc nhận ra hợp âm chính và phụ của bản nhạc không cần nhìn nốt cuối, chỉ cần biết “Khóa nhạc.” Ông đưa mọi thứ vào thành công thức, điều mà tôi chưa bao giờ để ý. Có lẽ tôi phải để tâm phân tích và sắp xếp những kiến thức, nhận định thành hệ thống cho dễ dàng phân định.

Đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa, cố gắng để ý xem tinh hoa của Phật học là gì, nhưng tôi chỉ thấy những lời giảng giải về lịch sử, cơ cấu, quan niệm, chủ thuyết, cũng như quan điểm, nhận định của tác giả về Phật giáo. Chẳng hạn, đời sống của Thích Ca, điều kiện tinh thần của người học Phật, kinh điển Phật giáo, giáo lý Tiểu thừa, Đại thừa, Duyên sinh quan, quán nọ hàng kia, trí huệ, “hữu vi” thật giả, niết bàn niết ghế. Cuối cùng, ngay trước phần Thập Ngưu đồ, cụ Nguyễn Duy Cần phán,

“Bậc thánh” trên các bậc thánh, dù họ có hi sinh cả nghìn lần những gì quý báu nhất của đời họ, có hi sinh cả tính mạng họ cho nhân loại, cho một đấng thiêng liêng cao cả nhất của họ... họ cũng vẫn bị mãi giam hãm trong con đường luân hồi sinh tử nếu họ không hiểu rằng tất cả cái đó, thực ra chỉ là những trò chơi con trẻ, những thứ “mộng, huyễn, bào, ảnh” do chính “hành tướng” của mình tạo ra và phóng lên bức màn vô tận của Hư Không! Có đúng với câu nói này của một vị thiền sư: “Đừng nghĩ đến Thiện, cũng đừng nghĩ đến Ác, thì trong lúc đó mới hiện tỏ ra được cái “Bản lai diện mục” của mình thôi”. Và “Chỉ thiên một chút thôi bên thiện hay bên ác, cũng đủ làm cho mặt biển Chân Như nổi sóng, cả Trời Đất sẽ bị phân chia và chênh lệch.” (PHTH; N. D. Cần; Đại Nam; CA, USA; năm?; Tr. 280).

Giời! Thế cái tinh hoa của Phật học là cái gì? Những lý thuyết, chủ thuyết, quan điểm, quan niệm, khuyên nhủ, khuyên răn, v.v... nào thiếu gì nơi cuộc đời này mà lại lấy chúng, chép cho đầy sách và cho là tinh hoa. Có lần đọc được cuốn Pháp Bảo Đàn kinh, lục tổ Huệ Năng dạy chỉ một câu mấu chốt, và đó là, “Kiến Tính thành Phật,” không hơn không kém, chẳng đảnh lễ, cúng kiến, niết bàn niết chiếu chi ráo trọi. Nhưng kiến tính là thế nào, cần điều kiện gì, phải kiết già, kiết non, ăn chay, ăn mặn, một vợ, hay năm bảy chồng, ngày ấy tôi, cũng như bao người, đâu thèm để tâm tìm hiểu, chỉ đọc như con khỉ ngó sách thì nào lãnh hội được chi. Quả là tốn giờ đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa, hao tổn tâm trí theo dõi, lại nhét đầy mớ lý thuyết, chủ thuyết, quan niệm rác rưởi hữu vi, nhân sinh vô đầu óc khiến đáng thương cho cái cổ ngoan hiền tìm hiểu của tôi.

Ủa, mình đọc sách hay phê bình sách đây? Tôi tự hỏi. Tác giả viết sao thì đó là chuyện của họ; mình đọc, hiểu biết, và thực hành thế nào là chuyện của mình, mắc mớ chi mà bực bội. Nhưng uổng phí thời giờ, thà vung chân, múa tay luyện võ còn lợi ích hơn; không hiểu sao ông Tầm lại khuyến khích đọc loại sách vô bổ này; tôi quạo với ông Tầm trong tâm tưởng nhưng thanh lịch đủ để không lên tiếng chi.

Lục lọi nơi chồng sách, kiếm xem có cuốn Pháp Bảo Đàn kinh chăng, nhưng nào thấy, tôi âm thầm cố lục lọi tâm trí xem phải thế nào mới có thể kiến tính. Lục tổ Huệ Năng còn nhắc tới “Bổn lai diện mục.” Kiến Tính, nhận biết bổn lai diện mục, đối diện thực thể hiện hữu chính mình; thân xác chỉ hiện hữu trong giai đoạn thời gian, nhưng so với diễn tiến biến chuyển vô cùng của hiện hữu thì thân xác, cuộc đời một người bị coi là giả, có đó rổi mất đó, ngàn năm trước là có, giờ là không vì chẳng còn hiện diện nơi thế giới hữu hình. Hiện giờ là có, là hiện hữu, nhưng ngàn năm sau lại cũng chỉ là không; được gọi là không vì không còn thấy được nơi thế giới hữu hình, vật chất, nhân sinh.

Vậy “Tính, Bổn lai diện mục” nơi tôi là gì mà phải kiến, kiến bằng cách nào? Theo lý thuyết nhân duyên, nhà Phật cho rằng mọi sự, mọi vật đều do nhân duyên mà sinh ra, mà có hiện hữu. Duyên hợp thì thành, thì sinh; mà duyên tan thì diệt, thì biến mất. Thế sao lại phải kiến tính. Tính là cái gì, cái bổn lai diện mục; bổn lai diện mục là thứ gì bởi khi duyên tan thì chẳng có chi? Hừ, luẩn quẩn, huyền mị; không biết thì nói không biết, chỉ tưởng tượng “lý gio, lý trấu” rồi thuyết giảng điều mình không biết. Vô ngã, hữu ngã! Nếu quyển sách, những dòng chữ, là vô ngã, thì tư tưởng chứa đựng trong đó hữu hay vô? Đọc sách cho qua, tưởng là biết mà thực ra chẳng biết gì, không áp dụng, thực hành nơi bản thân, không nhận thức được sách viết về chuyện gì đang diễn tiến nơi bản thân thì đọc làm chi, tổn giờ, phí sức, quả là đọc cũng như không, vô bổ. Mà nếu duyên hợp thì có, duyên tan thì diệt, sao lại bày ra cúng, kiến, sao có thể hy vọng, ước mơ, cầu, khấn?

Phật là người thức ngộ hay là tâm thức ngộ? Tâm là phật; phật là tâm; sao lại còn nói phật tại tâm. Nói rằng phật tại tâm là đã có phân biệt tâm và phật. Vậy nếu kiến tính tức là nhận ra tâm là phật, là Chân Như, thế thì cần chi phải nói đến nhân duyên. Thử hỏi, bày ra thuyết nhân duyên để mua vui thiên hạ hay tự lừa đảo? Nếu đã kiến tính đâu cần thiền, sao lại bới ra Sáu Cửa Thiền Thất? Nơi phần “Trước Khi Vào Cửa Động,” Trúc Thiên viết, “Thiền đứng riêng một khung trời cùng tuyệt, chủ trương chỉ thẳng vào nơi tánh, thấy thẳng tự nơi tâm để tức khắc thành Phật.” Một lục tổ Huệ Năng, “Ngồi nhiều sinh bệnh” nên cần hành thiền. Hành thiền tức là thiền bất cứ lúc nào, trong khi làm việc hoặc vui chơi, giải trí, lúc rửa bát, quét nhà, hay nấu ăn, luyện võ. Bởi đó hành thiền cần định tâm, và định tâm có nghĩa, làm gì thì làm, chơi gì thì chơi nhưng tâm trí luôn luôn để tâm hướng về kiến tính, và kiến tính tức là đối diện tính, đối diện tâm Chân Như, nhận chân, nhận thức mình là phật, là hiện thể của Chân Như. Đã thế sao còn bày ra sáu cửa; đúng là bới bèo ra bọ! Và rồi lại chia thêm người và nghiệp. Phỏng người là do nhân duyên tạo nên? Vậy cớ gì nói người tạo ra nghiệp, mà không nhận biết nhân duyên tạo ra nghiệp. Người đã là vô ngã phỏng vô ngã kiến tạo hữu ngã là nghiệp. Người đã vô ngã tất nhiên không thể tạo nên nghiệp thì làm gì có báo? Thế nghiệp báo ở đâu ra? Luẩn quẩn, không hợp lý, chẳng hợp tình! Cứ tưởng tượng bày ra rồi lại tự oánh nhau với tưởng tượng, trận chiến vô cùng tại tâm!

Ah, vô ngã là thực thể hay nhận thức. Nếu vô ngã là thực thể thì hữu ngã chính là trạng thái thiếu nhận thức; thiếu nhận thức về bản lai diện mục, về tính, về thực thể hiện hữu nơi mình. Như vậy, thiền cũng chỉ là suy tư, là suy nghĩ để kiến cái tâm, kiến bản lai diện mục, kiến thực thể hiện hữu nơi mình, nhận thức, nhận biết thực thể hiện hữu nơi mình. “Ta là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành,” Muốn thành phật thì vẫn là dục; thế nên kiến là đối diện; định tâm đối diện tâm phật. Tâm là phật, phật là tâm sao lại gọi là tâm phật? Phỏng đó là nói lắp bởi còn phân chia tâm trí và tâm phật thì còn lệ thuộc hữu vi, bản ngã, phân biệt. Thử hỏi, không phân biệt, không suy nghĩ, không nhận biết, nhận định sao có thể nhận thức, sao có thể ngộ? Mấy con chó, con mèo còn biết phân biệt chủ của nó với những người ngoài; mà con người nếu không phân biệt, không nhận thức, không suy nghĩ để nhận biết đâu là tâm trí, đâu là tâm phật thì sao có thể kiến tính.

Tính nơi mình là gì mà “Kiến tính thành phật?” Thiền cũng chính là kiến sao lại còn chẻ sợi tóc làm tư, lại bới thêm sáu cửa, bẩy cửa mới có thể thấy tự tánh, thấy tâm, mới nhận thức được tính, được bản lai diện mục? Vậy, theo thiền, cái tâm phật nơi tôi là gì?

Nơi phần cuối của lời tựa “Trước Khi Vào Cửa Động,” dịch giả Trúc Thiên nêu lên kết luận, “Nhưng thôi, khỏi cần vào sáu cửa. Ta chỉ vào bất cứ một cửa nào đó thôi, tùy theo duyên cảm. Sáu cửa đều trổ về một cửa. Một cửa bao hàm luôn sáu cửa. Nhưng vào, xin nhớ ra. Ðó là điều tối cần. Nếu ra không được thì cửa nào cũng là cửa tử. Còn ra được thì sao? Không biết. Xin để cho người biết – hòa thượng Phật Quả Viên Ngộ – lên tiếng nói: “Chư Phật chẳng từng xuất thế, củng không một pháp trao cho người. Tổ sư (Ðạt Ma) chẳng từng qua đây, cũng chưa hề lấy tâm truyền thọ. Bởi người đời nay không rõ nên mảng lo cầu ngoài. Sao không biết tự dưới gót chân mình chặt đứt hết đại sự nhân duyên, hiền thánh đừng dính níu? Chỉ nên như ta nay thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, nói mà chẳng nói, biết mà chẳng biết. Cầu gì mới được chứ?” “Kiến tính thành phật,” chẳng khác gì bất kiến bất thành! Đã là phật thì kiến mà chi, thành cái gì!

Mình đã đọc cuốn này và tạm dịch tên đề của nó là “Cuộc đời muôn chiều hướng” rồi mà; tôi thầm nghĩ, nhớ lại đã đọc nó nơi bản tiếng Anh, khi lật trang đầu tiên cuốn, Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời,” thấy ghi tên dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt của bản tiếng Anh, Many Mansions, tác giả Gina Cerminara. Không hiểu sao ông Tầm muốn mình đọc cuốn này. Đại khái, tác giả cuốn sách này nói về khả năng đi vào giấc ngủ thôi miên của ông Edgar Cayce, tìm về kiếp trước của người khác để nói lên lý do hay nguyên nhân hiện trạng bệnh tật của họ; đồng thời cho lời khuyên nên chữa trị bằng cách nào hoặc dùng thuốc thang chi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh về sự điều chỉnh tâm trạng, thái độ trong cuộc sống khi liên hệ với người đồng loại. Nơi phương diện tâm linh, tác giả viết, “Linh hồn con người trải qua nhiều kiếp sống và được tiến hóa thông qua những cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ đời sống. Con người thâu thập kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy nó trong tâm thức, rồi mang theo những điều đó vào những kiếp sống tiếp theo sau đó.”

Tôi theo đạo Công giáo, lại được dưỡng dục, cũng như theo học dưới nền giáo dục Công giáo, đặc biệt nơi tiểu chủng viện nên chỉ hơi ngỡ ngàng khi đọc cuốn Many Mansions nơi bản tiếng Anh, nhưng không dám nói năng gì hoặc chia sẻ với bất cứ ai. Dẫu mục đích đọc sách chỉ là trau dồi thêm ngôn ngữ, nhưng kiến thức cũng được mở rộng cho dù không chút cố gắng tìm hiểu. Hơn nữa, được dạy dỗ, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” luôn luôn khuôn mẫu tâm trí tôi suy nghĩ trong giới hạn những gì phải tin; ngoài ra, tất cả đều chẳng nên để ý, nếu không muốn nói, những gì không giống được dạy, được nghe giảng giải, đều thuộc về ma quỷ. Thế nên, những quan niệm kiếp trước, kiếp sau, luân hồi, hoặc nghi lễ cúng kiếng, vái lạy, ngay cả đồ cúng cũng bị tuyệt đối không đụng đến. Tôi là người Công giáo mà.

Dĩ nhiên, mê đọc sách, lại có trí nhớ đồng thời theo ban C thời trung học, bản dịch này giúp tôi học hỏi được nhiều ngôn từ tiếng Việt khá chính xác hơn; vì khi đọc nơi tiếng Anh, tôi hiểu nhưng loạng quạng diễn giải bằng tiếng Việt. Mặc dầu sách nói về luân hồi và những hệ quả của lối sống lệ thuộc luân lý, đạo đức nhân sinh liên hệ đến cuộc đời con người, và cho dù rất khác biệt với niềm tin được dạy dỗ của tôi, nhưng, tâm tính thanh niên mà, tôi nghĩ, nếu đã là sự thật thì dù tin hay không, sự thật vẫn là sự thật; biết thêm kiến thức, chẳng bổ đàng nọ cũng bổ đàng kia; cuộc đời này thiếu gì chuyện nghĩ rằng không thể nhưng đã có thể, đã là hiện thực, thì tin hay không trở thành vô nghĩa.

Tự hỏi, vậy kiếp trước của tôi đã như thế nào, những gì được viết nơi sách không soi sáng cho tôi chút chi, dù chỉ mơ hồ. Có điều, những lời khuyên, lời nhận định của tác giả chẳng khác gì sự cảnh cáo khuyến khích cũng như cảnh tỉnh tôi nên có cuộc sống ý thức hơn dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, và biết mở rộng lòng cảm thông với những người chung quanh, tránh soi mói, phân biệt, hoặc xét đoán theo nhãn quan hạn hẹp của mình. Tôi đâu sợ bị phạt; bởi nghĩ, không nhớ đọc nơi đâu câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu” (Lão). Trong Phúc Âm thì lại có câu, “Vì Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác” (Mt. 5:45). Lấy con dao cứa vào tay mình rồi cầu khẩn đấng nào đó giúp mình không cảm thấy đau, thì nó vẫn đau. Thưởng phạt, hậu tính, hãy cứ sống tốt lành sao cho không áy náy lương tâm là được. Đời này lo chưa xong, mắc mớ chi đời sau, chỉ vẽ chuyện. Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng đâu phải dễ chi viết được một cuốn sách, và mắc mớ gì hao tổn tâm lực mò mẫm tìm kiếm tài liệu này, sự việc kia, rồi giờ giấc căm cụi viết lên những điều vô ích, tôi chỉ biết tâm phục, khẩu phục tác giả đã đổ công sức và nhận thức kiến tạo tác phẩm để lại cho đời.

Tin hay không những điều tác giả đã viết ra, tôi không đặt thành vấn đề. Đối với tôi, có thể áp dụng những gì được nói đến mới quan trọng. Cho rằng điều này tác giả viết đúng, điều kia không hợp, sự nọ khiến mình cảm thấy vui, hoặc bực mình tức là đã tự biến mình thành thùng rác ngu xuẩn, chấp nhận để kẻ khác quăng vô bất cứ thứ gì, dẫu qu‎ý giá đến đâu đối với họ nhưng đã trở thành độc hại, phiền hà chính mình. Cho rằng đọc để tăng kiến thức, thử hỏi, tăng kiến thức để làm chi nếu kiến thức đó không được suy nghĩ, nghiệm chứng nâng cao nhận thức nơi mình. Nghe ai đó kể lại, họ sụt sùi thương cảm nhân vật trong câu chuyện nào đó phải đối diện với gia cảnh, trường hợp nọ kia, tôi im lặng nhưng cảm thấy thương hại, hối tiếc cho sự mất mát vô lối, lãng phí thời gian, trầm mình vô tâm tưởng nô lệ tàn phá tâm tư. Uổng, chẳng những lãng phí thời gian mà coi chừng còn ảnh hưởng tai hại đến tâm tư, nhận thức, tự biến mình thành kẻ mộng du quái đản.

Tuy nhiên, đối với những cuốn sách thực nghiệm, được tác giả kể lại những sự thể, thực trạng tâm tưởng, hiện trạng được chứng thực qua biên khảo hay kinh nghiệm nơi diễn trình cuộc sống khiến độc giả, hoặc thách đố họ suy nghĩ, nghiệm chứng hầu tăng thêm nhận thức làm tươi đẹp cuộc đời, ít nhất nơi chính họ, tôi chân thành cảm phục. Dĩ nhiên, kết quả mà người đọc nhận được lại tùy thuộc chính họ. Đọc sách để giết thời giờ, đọc để mà đọc, đọc như không đọc, có lẽ độc giả loại này chưa bao giờ, hoặc không thể nghiệm được câu, “Người làm không hết việc; kẻ giết vẫn thừa giờ.”

Nói cho đúng, nếu đừng cho tôi là lộng ngôn, nhà Phật có câu nói hình như đã mấy trăm năm, “Thời mạt pháp.” Tôi không thuộc tín đồ Phật giáo nhưng cứ bị lời phát biểu này đánh động tâm tư. Tôi không hiểu câu nói “Thời mạt pháp” mang nghĩa phương pháp, phương cách trình bày, diễn giảng, hay giảng giải các pháp không chỉnh hoặc không thực dụng, hay các pháp bị hiểu dưới quan điểm thế tục thiếu nghiệm chứng hoặc thiếu thực chứng. Tất nhiên, tự thuở ban đầu, vị xướng lên câu nói này hình như không muốn đụng chạm đến tín đồ, và những vị quảng bá, triển dương, rao giảng, nên đổ tất cả phiền hà, thiếu sót nơi “Pháp.”

Dẫu nhà Phật có lục tổ Huệ Năng, không biết ngay cả ký tên của mình thế nào; nhà Ấn có RamaKrishna, chỉ mới học đến lớp tư trường làng, mà một trở thành tổ thứ sáu của nhà Phật, vị khác trở nên một vị thánh được tôn sùng qua bao thời đại; thì nói rằng pháp mạt hay mạt pháp, đổ lỗi cho pháp, hoàn toàn không hợp lý, chẳng hợp tình chút nào. Từ ngàn xưa, có pháp nào dạy, diễn giảng, chỉ bảo người mẹ phải thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho đứa con mình sinh ra thế nào đâu! Nhìn, hay nghĩ về thực thể sự thể này, ai cũng nhận ra một điều, và đó là, cứ đối diện với sự thể, sự việc, con người sẽ nhận biết, nhận thức, sẽ ngộ được nên thế nào. Pháp nào dạy cho người mẹ thương con phải suy nghĩ ra sao, phải nhận thức thế nào mà nói pháp mạt hay mạt pháp? Pháp là kết quả, thành quả của diễn trình suy nghĩ, suy tư, nghiệm chứng, thực chứng được ghi chép lại. Tất nhiên, người ăn được ớt thì thấy ớt ngon; kẻ không ăn được ớt mà lỡ nhai phải miếng ớt sẽ thấy thế nào, người trong cuộc tự biết. Pháp thì cũng thế! Tin hay không, thực hành, thực nghiệm mới biết. Đọc để mà đọc, đọc giết thời giờ, chỉ tự biến mình thành thùng rác!

Tuy nhiên, đâu phải phi lý mà nơi Phúc Âm có câu, "Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13; Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). Sở dĩ tôi nhớ chỉ vì câu này đã làm phiền tâm trí tôi mấy tháng. Các ký lục và Biệt Phái là những người được học hành, đào luyện để thi hành nhiệm vụ rao giảng lời Kinh Thánh, lề luật, hướng dẫn dân Chúa nhận biết, tôn thờ, chính chủ thể sáng tạo vũ trụ và con người. Tại sao họ bị kết án nặng nề vậy? Rao giảng Kinh Thánh thì không có gì được gọi là sai với đúng vì họ được đào luyện với mục đích đó.