← Quay lại trang sách

- 4 -

Nhân một hôm, thắc mắc sao có thể áp dụng câu Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không xứng với Ta” (Mt. 10:37). Tôi đặt vấn đề, nếu cho rằng, Phúc Âm là lời rao giảng của đức Giêsu, vậy chẳng lẽ đức Giêsu khuyến khích người ta nên bất hiếu? Chính ngay luân lý còn khuyên dạy chúng ta, “Ơn ai một chút chớ quên; phiền ai một chút để bên dạ này,” mà Phúc Âm lại là lời Chúa sao khuyến khích chúng ta bất hiếu? Sao dạy chúng ta đối nghịch với giới răn, “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ?” Tôi chỉ đặt vấn đề để phản biện, hầu có thể áp dụng lời dạy khôn ngoan trong cuộc đời của mình. Chẳng rõ đã qua bao ngày tháng, tâm trí bị phiền hà; vì câu nói nghịch thường này cứ luôn lởn vởn trong tâm trí. Một hôm, nơi một bài nghị luận, tôi đọc được mấy câu Tục Ngữ, “Liệu bò đo chuồng; liệu cơm gắp mắm,” “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng;” bình luận tới lui, ngược xuôi, và nơi cuối bài viết, tác giả kết luận với câu Ca Dao, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” đầy vẻ chua chát, bất mãn. Đại khái, tác giả nêu lên ẩn ý luân lý, cách sống, thái độ hàm chứa nơi Tục Ngữ, Ca Dao, và phê bình cũng như cười cợt thái độ nhận biết theo nghĩa từ chương của những vị mang danh học giả, học thiệt, mình đầy kiến thức nhưng chẳng khác chi những con vẹt thiếu bộ óc người, cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân chẳng khác gì kẻ tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa. Tất nhiên, là người Việt, ai không hiểu câu, “Liệu bò đo chuồng” nào nói chi đến bò hoặc chuồng bò; cũng như, “Liệu cơm gắp mắm,” đâu mắc mớ gì tới mắm, tới cơm, hoặc, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” chẳng liên hệ tới ăn, tới nồi, phương chi ngồi và hướng. Thế nên, tác giả kết luận một số người mang học vị này nọ, thiếu suy nghĩ, nghiệm chứng nên rao truyền, tuyên truyền điều mình không biết bằng câu Ca Dao nói lên cảnh nực cười, thiếu hiểu biết. Suy nghĩ, phân tích một chút, tôi nhận thấy Tục Ngữ, Ca Dao trình bày theo kiểu ám định, nói đàng nọ, ý chỉ đàng kia, chẳng khác gì, “Sấm đàng đông, động đàng tây; tuy rằng nói đấy nhưng đây động lòng.” Tục Ngữ, Ca Dao dùng sự vật, sự việc bình thường, dân quê, ám định về thái độ, cách ăn, nết ở, phương cách sống, của một người nơi phương diện luân lý, đạo đức xã hội; chẳng hạn, “Khôn ngoan ở chốn nhà bay; dù che ngựa cưỡi, đến đây cũng hèn.” Câu lục bát khuyên nhủ về thái độ, cách liên hệ trong cuộc sống của một người nơi đồng đất lạ. Thế lời kết án nơi Phúc Âm ám chỉ về điều gì nơi công việc rao giảng, cầm cân nảy mực theo lề luật của giới ký lục và Biệt Phái, mà nặng nề, thâm trọng qua phát biểu, “Khốn cho các ngươi?” Có lẽ không còn lối nói nào nghiêm trọng hơn? Tôi được dạy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16); trong khi chính đức Giêsu lại nặng nề kết án những người mang nhiệm vụ, rao giảng, truyền bá lời Chúa nghiêm trọng như thế? Nơi phương diện nào, cách nào, sự rao giảng trở thành, “Khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào?” Phỏng, bằng cách diễn giảng, diễn nghĩ, giải thích, giải nghĩa, rao giảng con ba ba thành con trạnh hay con rùa! Ah, kể ra tôi cũng khá thông minh, nhờ suy nghĩ, đặt vấn đề, so sánh, dẫn tới nhận định, nên đã có thể biết được lý do, nguyên nhân tại sao ký lục và Biệt Phái bị lên án một cách thâm trọng như thế. Lời Kinh Thánh nói ám định về tâm linh, về tâm tình, nhận thức, diễn trình suy tư, nơi tâm trí con người. Các ký lục và Biệt Phái diễn dịch, giảng giải theo nghĩa từ chương dưới quan điểm luân l‎ý, đạo đức nhân sinh, thế tục. Làm sao chấp nhận kẻ bất hiếu có thể là người công chính trong khi giới răn dạy, “Thảo kính cha mẹ.” Vậy thì, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta” mang nghĩa gì, ám định điều chi nên được cho là, “Không xứng với Ta?” Nơi Ca Dao có câu, “Yêu ai, yêu cả đường đi; ghét ai, ghét cả tông chi, họ hàng;” hoặc, “Yêu nhau, cau bảy bổ ba; ghét nhau, cau bảy bổ ra làm mười.” Yêu thương thuộc tâm linh, tâm tình, nhận thức, tâm cảm, tâm trí, được tỏ bày bằng thái độ hiến thân, theo đuổi, suy nghĩ, tư duy, ước muốn, ý định, ý nghĩ, tham vọng, ước mơ, dồn hết năng lực lệ thuộc, hay phù trợ đối tượng. Dĩ nhiên, một người ước mơ, ham muốn, hay có tham vọng về điều gì thì sẽ dồn hết năng lực, tài lực, đam mê để đạt thành, thực hiện điều đó. Hèn chi Phúc Âm cũng có câu, “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt. 6”21). Tự xét lại lòng dạ mình, tôi thấy câu nói không chỉ về gia sản hoặc tài lực mà kho tàng ở đây có nghĩa ước muốn, ước mơ, ý định, tham vọng. Bởi đó, câu này cần được hiểu là, “Ước muốn, ý định, hay tham vọng của anh ở đâu, thì lòng dạ anh ở đó.” Từ sự nhận thức này, câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta,” có nghĩa “Kẻ có ý định, ước muốn bất cứ điều gì hơn Ta, không xứng với Ta.” Câu nói về diễn trình suy nghĩ, suy tư, diễn trình tâm thức, nhận định, nhận biết về Thiên Chúa. Hèn chi Phúc Âm có câu nói mang đầy vẻ kỳ cục, nghịch thường, “Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao?” (Lc. 6:26). Không suy nghĩ, nghiệm chứng, nghiệm xét sẽ rơi vào trường hợp, “Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại,” bị lên án không oan chút nào. Nơi trường hợp cá nhân, không suy nghĩ, chỉ nguy hại cho chính mình. Nếu đứng trong vị thế rao giảng, tai hại muôn người; thay vì khuyến khích người ta suy nghĩ để thăng tiến nhận thức lại chôn vùi nhân sinh nơi vòng luẩn quẩn thế tục bị nhà Phật gọi là vô minh. Tôi phải suy nghĩ để nhận định điều gì, sự thể, sự việc nào cần được chú ý và cần được áp dụng ở phương diện, trạng thái nào nơi cuộc đời mình? Cuốn Lão Học Tinh Hoa thách đố nghiệm chứng, suy tư câu “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Bỏ lối suy nghĩ hữu vi, đối đãi, theo quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh là suy nghĩ thế nào? Hành Trình về Phương Đông nêu lên thực thể, quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mọi sự. Lục tổ Huệ Năng nơi nhà Phật đoan quyết, “Kiến tính.” Cái Cười của Thánh Nhân diễu cợt, chê tôi thiếu suy nghĩ thâm trầm. Cuốn Quân Vương khuyến khích nên suy nghĩ, nhận định, và tính toán cặn kẽ từng phương diện hầu nhận biết phương cách nào nên thực hiện khi đối diện với những biến chuyển của cuộc sống. Những Bí Ẩn của Cuộc Đời thách đố tôi nhìn lại để nhận biết khả năng nơi mình ra sao và nên có thái độ sống thế nào, nhưng sao có thể biết? Sáu Cửa Thiền Thất đòi hỏi suy tư, dùng hoạt động tâm tưởng để nhận thức thực thể thực sự mình là ai. Tôi đọc sách rất nhanh nhưng mấy ngày này lại càng lúc đọc càng chậm. Đọc chậm vì vừa đọc vừa suy nghĩ hầu nhận biết những điều được nêu lên trong những trang sách nói gì, ám định gì về diễn biến suy tư hoặc tâm trạng nơi tôi. Tôi đọc sách, nhưng thực ra, tôi đang quan sát những hiện trình, đang đối diện với tâm trạng, sự thể thực tại nơi mình ở phương diện nào đó. Thời gian vùn vụt trôi; mới đó mà đã trưa, chưa kịp phân định liên hệ nhân duyên và nhân quả thì chiều đã ập tới. Tại sao lại có quan niệm duyên chỉ là gặp gỡ, nợ mới nên vợ chồng. Duyên hợp thì phát sinh sự việc, sự thể; duyên tận thì mọi sự tan; vậy nợ ở đâu ra. Luân hồi bắt nguồn từ bất tử; nếu mọi sự đều do duyên hợp tan thì sao có bất tử. Như vậy, lý thuyết nhà Phật chỉ nói về biến chuyển của sự vật, sự thể. Luân hồi gốc gác từ Ấn học, bởi Atman là một phần của Brahma, bất tử, nên mới có hành trình thăng tiến nhận thức qua tái sinh, luân hồi. Nhà Phật không có tái sanh; đạo Phật mượn tạm luân hồi, tái sanh bên Ấn học dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh và tâm lý e sợ khổ ải hữu vi trong diễn trình quảng bá, triển dương tôn giáo. Ôi cái tội độc nhất vô minh Đạt Ma sư tổ mệnh danh sao mênh mông thế! Càng quảng bá, càng vô minh, thay vì khuyến khích con người suy nghĩ hầu phát triển nhận thức, người ta lại cứ ngăn chận, ăn cướp cơ hội của chúng sinh bằng cách rao giảng, nhồi nhét quan niệm luân lý, đạo đức hữu vi, nhân sinh, hèn chi bị Phúc Âm lên án. Chiều nay tôi định nấu phở nên buổi sáng đi chợ, mua miếng sườn heo nhỏ, miếng thịt bò, nếu ông Tầm muốn ăn phở tái. Ghé qua hàng rau rợ, mua ít giá, nơi vườn nhà đã có ngò gai, húng quế, ngổ (ngò ôm), tía tô ta, tía tô Nhật. Tôi không quên vô tiệm thuốc bắc mua một gói ngũ vị hương tán nhỏ để pha vô nước nấu phở và một đơn Mai Quế Lộ. Không thích hầm xương bò vì vừa mất giờ canh chừng, vừa tốn củi lửa. Phi hành, tỏi, tôi nấu phở bằng sườn heo và đùi gà, nước trong, ngọt, nhẹ mùi, chỉ cần thêm gừng, hành tây, và chút ngũ vị hương bỏ trong túi vải, nấu thêm chừng vài phút rồi lấy ra tránh quá nặng mùi, dễ ăn hơn. Như vậy, nước phở chỉ cần 30 phút là xong. Sở dĩ tôi cân thêm một đơn Mai Quế Lộ vì cần có thời gian ngâm với một lít rượu đế mới có thể dùng được. Phần nước cho hai tô phở chỉ cần một muỗng canh Mai Quế Lộ, hương thanh, nhẹ, dễ chịu hơn mùi nặng nề của xương bò với ngũ vị hương. Lá số của tôi, cung mệnh ở Ngọ có Đào Hoa, Bác Sĩ, Lộc Tồn, tam hợp với Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp tại dần; nhị hợp có Thiên Trù nên thích ăn ngon, do đó nấu ăn cũng không đến nỗi tệ. Tuy nhiên, độc ẩm lại là điều tối kỵ, chỉ chán chường, thành ra muốn nghiện rượu cũng khó. Nơi cuốn thứ năm của bộ Life and Teaching of the Masters of the Far East nêu lên diểm, “Hãy nhận biết chính mình” (Know yourself). Ngày trước, khi đọc bản tiếng Anh, tôi đã không để tâm suy nghĩ về điểm bình thường của mọi người, và đó là chúng ta thường tự giới hạn chính mình trong sự nhận biết, nhận thức thực thể hiện hữu hữu vi của con người. Chúng ta thường nghĩ hoặc thường cho rằng mình biết rõ về mình trong giới hạn hiện hữu nhân sinh, cuộc sống xác thân; do đó khi đọc thấy công án “Tôi là ai,” cũng như hầu hết độc giả, tôi nghĩ rằng không ai có thể biết về tôi hơn chính tôi, nên coi thường điều “Know yourself” nêu lên, gốc gác thực thể hiện hữu của con người chính là thực thể tâm linh. Nơi Công giáo gọi là linh hồn; nhà Phật gọi là Tính, hèn chi lục tổ Huệ Năng chỉ thúc đẩy “Kiến Tính.” Nơi Sáu Cửa Thiền Thấtđược ghi, “Kinh Niết Bàn lại nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không giải thoát. Tánh phật ấy, tức ’tánh giác’ ấy vậy.” (SCTT; Trúc Thiên dịch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA, USA; Tr.43). Nơi khác, Sáu Cửa Thiền Thất. Cũng ghi, “Tâm ấy không lìa ngoài cái xác thân bốn đại. Nếu lìa tâm ấy tức không còn vận động gì được, vì đó là thân vô tri, khác gì cây cỏ, ngói gạch” (Tr. 131). Tôi là ai? Linh hồn tôi là gì, liên hệ với xác thân và cuộc đời tôi thế nào, sao có thể minh chứng tôi có linh hồn? Đặt vấn đề là một chuyện; suy nghĩ là một chuyện khác; thực chứng, minh chứng, nghiệm chứng lại là điều không thể thiếu cho nhận thức. Xưa nay, tôi vẫn hãnh diện mình đọc sách nhiều, biết nhiều, hiểu lắm, nhưng quả thật vô bổ, vì đã không suy nghĩ nên không nhận biết thực thể mình thực sự là gì! Linh hồn mình là cái chi! Và đã một tuần trôi qua, tôi chỉ mới đọc được 7 cuốn sách, quả là quá lầm lẫn khi đã nghĩ, chỉ cần một tuần có thể đọc hết mọi quyển. Không lạ gì đã có lời khuyên chỉ cần đọc một cuốn sách, ngược lại cũng có câu, “Tận tín ư thư bất như vô thư,” đọc sách mà tin vào sách thà đừng đọc (Mạnh Tử). Hai phát biểu đối nghịch khuyên hai loại độc giả. Chỉ cần đọc một cuốn sách nói lên thái độ tâm trí của người nghiệm chứng, suy nghĩ, chứng nghiệm những điều tác giả tâm huyết viết ra trong cuộc đời mình để nâng cao, phát triển nhận thức. “Tận tín ư thư bất như vô thư,” khuyên những ai đọc sách chỉ hiểu theo nghĩa từ chương, hữu vi, thiếu kiểm nghiệm. Hèn chi nhà Phật ghi lại lời khuyên của Thích Ca, “Chớ vội tin những lời ta nói. Vội tin những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Thực ra, khi đã thực chứng hoặc nghiệm chứng rõ ràng thì có gì mà phải tin. Đọc sách, tin hay không thì ích lợi hoặc thiệt hại gì chẳng biết, mới chỉ một câu nơi đầu cuốn Lão Tử Tinh Hoa đã đủ làm cái đầu tôi quay quay suốt cả tuần lễ. Tin làm sao với câu nói ngang ngược, “Kẻ nói không biết?” Đã không biết sao có thể nói! Chứng cái gì, nghiệm cái gì nếu không biết! Tới lúc đụng đến cuốn Đạo Đức Kinh, tôi mới tá hỏa. Nơi mục, “Những bản dịch sách của Lão Tử,” cụ Nguyễn Duy Cần viết, “Một học giả người Âu có khuyên ta cách đọc sách Lão Tử như vầy, quan trọng nhất không phải những gì trong sách ấy nói với mình, mà là những gì trong sách ấy đã khêu gợi được nơi lòng mình” (Đạo Đức Kinh; Quyển 1; ND Cần; Xuân Thu; TX, USA; năm?; Tr. 13). Đồng thời nói về bản dịch, cụ thêm, “Vì vậy, chú giải của các học giả Trung Hoa, Nhật Bản từ xưa đến nay rất nhiều mà phần đông không giống nhau; mỗi nhà mỗi hiểu một cách. Các bản dịch của các học giả Âu châu cũng rất nhiều, riêng bản dịch bằng Pháp văn, theo H. Maspéro, có trên 60 bản, nhưng không bản nào giống bản nào cả. Mỗi người mỗi dịch theo sự hiểu biết của mình” (ĐĐK;Tr. 14). Hèn chi có câu nói, “Dịch là diệt.” Không hiểu diệt ngôn từ hay diệt ý? Khổ nỗi, tôi lại không biết chút gì về chữ Nho, chữ Hán. Nhưng, “Những gì trong sách ấy đã khêu gợi được nơi lòng mình” là thế nào? Lúc đang đói, sách diễn tả về một món ăn tuyệt vời, chỉ làm đói thêm, đói chảy nước miếng. Gợi được nơi lòng mình. “Người biết không nói; kẻ nói không biết” gợi nơi lòng mình điều chi? Gợi nơi lòng mình trong trường hợp nào, trạng thái nào khiến người biết không nói; kẻ nói không biết? Tại sao biết lại không nói? Tâm trạng nào bị cho là nói mà không biết? Ah, khi đang đói, nghe giải thích về sự bổ ích, hương vị tuyệt vời của món ăn nào đó chỉ làm phiền hà đến tâm trạng của người nghe. Người nói càng nói thì càng chỉ khiến người nghe khùng lên vì đói; bởi những lời giải thích không thể làm giảm cơn đói. Những lời giải thích về thực phẩm vô bổ, không giúp ích gì để giảm bớt cảm giác đói bụng của người nghe. Người nói biết điều mình nói nhưng không cảm nhận được cái đói của người nghe. Vậy là sao, nói điều mình không biết! Kẻ nói không biết. Chứ sao lại “Người biết không nói?” Câu ngang ngược này vẫn cứ làm phiền tâm trí, khiến tôi suy nghĩ lung tung, mà càng suy nghĩ thì chỉ càng rối thêm. “Nên chỉ đọc một cuốn sách!” Mới chỉ một câu đã muốn khùng lên rồi, sao dám nói chi đến một cuốn. Xưa nay, nay xưa, nào có bao giờ đầu óc tôi bị rối tung như thế này đâu. Mà không hiểu sao, cái câu nghịch thường, không nói, không biết này, cứ như quỷ ám, ma đùa, miên man làm phiền, hết đeo đẳng ban ngày, lại còn khuấy động cả ban đêm, chẳng những khi nấu ăn, tưới rau, mà ngay cả lúc đọc sách cũng không tha khuấy động. Phỏng tôi bị tổ trác? Câu nói khích động tôi suy nghĩ nhưng kiến thức đã chẳng giúp ích gì. Nghiệm chứng, thực chứng là thế nào. Trường hợp, trạng thái nào được gọi là “Kẻ nói không biết.” Không biết thì sao có thể nói. Nơi chương 25 lại còn được viết, “Đi xa là trở về.” Đi đâu là xa nhất, trở về là trở về đâu? Cái gì đi, cái gì trở về? Nơi Công giáo có quan niệm “Trở về với Chúa,” cái hồn trở về, cái xác đem chôn. Như vậy, đi xa nhất là chết, chẳng bao giờ còn có thể gặp lại, và cái hồn trở về với nguyên bản. Câu nói nơi Đạo Đức Kinh, nửa nói về hữu vi, nửa nói về tâm linh. Ah, hèn chi các vị học giả Đông, Tây, kim, cổ, hiểu khác nhau nên dịch khác nhau. Các vị ấy chỉ dịch theo tri thức, kiến thức hữu vi, thiếu nghiệm chứng, nên bỏ quên phần tâm linh. “Kiến tính thành phật.” Kiến, hành động hữu vi; Tính, thực thể tâm linh, linh hồn. Kiến là thị kiến, là gặp gỡ, là đối diện, nhận thức. Linh hồn, Tính, là gì? Cho đến nay chưa sách vở nào có thể nói tới; những nhà khoa học cũng hình như cố giả đò lãng quên để rồi cũng như mọi người chấp nhận có linh hồn, nhưng chẳng thể nói được gì về nó, chẳng thể minh chứng linh hồn là gì, hình dáng, màu sắc ra sao, nặng nhẹ thế nào. Phỏng những tác giả, dịch giả viết về “Tính” họ đã kiến chưa? Nếu đã kiến thì viết làm chi? Viết để giúp người khác ngộ. Còn giúp, còn muốn giúp thì vẫn là dục; mà vị phật thì không muốn, không ước chẳng khác gì nơi Đạo Đức Kinh, “Thiên địa bất nhân, Dĩ vạn vật vi sô cẩu; Thánh nhân bất nhân, Dĩ bách tính vi sô cẩu.” (ĐĐK; chương 5); đất, trời, không hề tư vị ai; cấy rau vào lúc nắng thì mất ăn; phơi lúa ngay khi trời đang mưa thì thiệt luôn cả giống; dốt đành rán mà chịu. Ah, cái Đạo, được gọi là trời, đất này ngang ngang, ngửa ngửa, giống như Thiên Chúa nơi Thánh Kinh, chẳng khác chi phật nơi nhà Phật, không tư vị ai, chẳng giúp đỡ ai. Kinh Kim Cang có nói, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" (Kim Cang Giảng Luận; Tr. 241). Nơi Kinh Thánh Tân Ước được viết, “Vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Thế sao các vị rao giảng, truyền bá nơi tôn giáo lại cứ hùng hồn khuyên nhủ, cầu nguyện, cầu xin, khấn hứa. Không đúng, khấn chứ không hứa, bởi nếu đã hứa thì phải tuân giữ lời hứa. Tại sao câu, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” được cụ Nguyễn Duy Cần dịch là, “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh.” Nơi cuộc đời, ai dám cả gan tung hô bất cứ ai là thượng thiện. Thượng thiện là bậc thiện trên hết mọi sự thiện là Thượng Đế, là Tào, là Ông Xanh, là Thiên Chúa, là Chân Như. Thế nên, “Thượng thiện nhược thủy” nên được dịch là, Tào như nước hiện diện mọi nơi, nuôi dưỡng vạn vật. Ngay như dịch “Tào” thành “Đạo” để rồi lại dịch thành “The Way,” và nơi ngôn ngữ Việt lại được chuyển nghĩa Đạo thành đường. Ôi, dịch hay diệt tùy thuộc nhận thức của dịch giả. Nước là căn bản sự sống; không khí cũng chứa nước; đá lạnh ứa nước; đốt củi cũng ứa nước; như vậy câu Tào như nước thường đã bị hiểu sai nên cũng thường dẫn đến nhận thức không chín chắn. Nếu hiểu câu Tào như nước mang nghĩa Thượng Đế ở khắp mọi nơi, thì Thượng Đế chính là quyền lực hiện hữu nơi mình, nơi vạn vật. Riêng câu, “Phù duy bất tranh, cố vô ưu,” được dịch là, “Vì không tranh, nên không sao lầm lỗi” (ĐĐK; Tr. 50). “Vô ưu” sao lại dịch là không lầm lỗi. Nhiều tác giả cho rằng Đạo Đức Kinh là sách dạy cho con người sống theo chân, thiện, nhẫn, nhưng tại sao từ ngàn đời đã có câu, “Làm bạn với vua như chơi với hổ?” Cuộc đời này thiếu gì trường hợp rơi vào cảnh bị làm chốt thí. Tranh đua cũng phiền, không tranh cũng chẳng yên, chẳng khác gì về già, cố tránh, không muốn bệnh cũng chẳng thoát. Nếu cho rằng, “Phù duy bất tranh” mà thoát được bệnh, lão, tử, bất chấp Tào như nước đục, dơ, thì còn có lý hơn là “Không sao lầm lỗi.” Sao đầu óc tôi suy nghĩ lung tung thế này, đã không thấy gì sáng sủa hơn mà lại cứ rối như mớ bòng bong. Tác giả viết thế nào là chuyện của họ, mắc mớ chi đến mình; bởi mình có phải là nhà phê bình đâu. Tôi tự hỏi, thầm diễu với chính mình, vì cho rằng tôi là thứ học thiệt chứ không phải học giả. Nhưng trong lòng, tôi cũng phải thậm phục quý tác giả, dịch giả, phê bình, giải nghĩa gia. Bởi cho dù họ đưa ra hoặc nêu lên những vấn đề gì, phù hợp với suy nghĩ của mình hay không, hoặc mình chưa hiểu tới, họ cũng đã tốn công sức, năng lực, và kiên nhẫn trình bày. Đúng hay sai, hợp hay không hợp đều là phương tiện hay cơ hội cho tôi suy nghĩ để thăng tiến thêm nhận thức; thế nên, cần và phải tâm cảm ghi ơn họ. Mục đích đọc sách của tôi theo như ông Tầm đề nghị, đó là nghiệm chứng những gì có thể nơi sách trình bày. Thiển nghĩ, loại sách này, chẳng hạn, Đạo Đức Kinh, đã bao ngàn năm thống trị tâm não con người, và mới chỉ một câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” mà tôi vẫn còn ngắc ngứ, coi chừng sống để dạ, chết đem đi, thì dám nói chi tới cả cuốn sách, hơn nữa, còn cả lố sách đang đợi chờ. Hừ, xưa nay, tôi nghĩ mình cũng ngon lành lắm; thế mà mới chỉ có một câu, cả tuần vẫn như gà nuốt dây thung, muốn nuốt vô, nuốt chẳng được, muốn nhả ra, chỉ thêm tắc họng. Từ nay, chừa cao ngạo. Người ta nói, “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị;” nơi trường hợp của tôi, chỉ một câu nói ngang ngược đã hạ tôi đo ván. “Người biết không nói; người biết không nói.” Lơ mơ phảng phất, tôi cảm nhận hình như Đạo Đức Kinh nói về sự thể nào đó nơi tôi, nhưng thường được tác giả cho rằng những câu nói ám định về sự thể nào đó, của Tào (Đạo), của thánh nhân, thánh trí, hay của bậc hiền giả trị nước, hoặc nên có thái độ với đời. Qua những bàn luận, nghị luận, tác giả dùng nhận định của những vị danh nhân khác để phù trợ quan điểm của mình về đối tượng là Đạo (Tào). Chẳng hạn, cho rằng câu, “Thượng thiện nhược thủy” nói về “Bậc thượng thiện giống như nước” và thế là tác giả phân tích, phân cốc tính chất của nước để áp đặt vào đặc tính nên có của bậc thánh trí, “Tánh của nước là yếu mềm, gặp chỗ trống thiếu thì chảy vào, gặp chỗ đầy dư thì chảy ra, lánh cao mà tìm thấp, ngày đêm chảy mãi không ngừng để lấp đầy những gì trống trên mặt đất. Nó là tượng trưng thực hiện luật quân bình của trời đất” (Tr. 68). Giời! Sao không nói tánh của nước bao gồm cả sự độc ác; khi trời nóng đổ lửa thì trốn biệt, chẳng biết thương xót cho sự khổ ải dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời mà đổ mưa khiến người và vật thoải mái, cho phù hợp với câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Ah, đặt vấn đề như thế, tôi lại thấy mình rơi vào bẫy bình luận, phê bình, nhận định, bình giải của tác giả. Nhưng cũng chính thái độ hung hăng con bọ xít này khiến tôi hiểu được câu Phúc Âm nghịch thường, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10: 37). Trong khi suy nghĩ, nghiệm xét, bất cứ tư tưởng, nhận định nào xía vô, chẳng nên dõi theo kẻo lạc đường. Điều chính yếu phải là nhận biết diễn tiến nhận thức nơi mình, nhận biết tâm trạng mình đóng vai trò nào nơi sự thể đang được nhắc tới. Xin cảm ơn lời bình chú về nước của tác giả, và cũng cảm ơn lầm lỗi chẳng nên có khi đọc sách nơi mình. Nơi phần “Tựa” của cuốn Trang Tử Tinh Hoa, câu đầu tiên, cụ Nguyễn Duy Cần phát biểu, “Văn minh mà thiên hạ ngày nay đang tôn sùng và theo đuổi là một thứ Văn Minh lượng, lấy sự ‘tiến bộ’ làm lý tưởng; còn văn minh của Trang Tử chủ trương là một thứ văn minh phẩm, lấy sự tận thiện làm lý tưởng” (TTTH; ND Cần; Đại Nam; Glendale, CA, USA; năm?; Tr. XI). Thế mà nơi trang 86, cụ nêu lên nhận định, “Quan niệm của ông (Trang Tử) về vũ trụ như thế nào? Theo Trang Tử, có một cái Chân lý tuyệt đối, vô hạn, toàn mãn, tức là cái sống chung của trời đất; cái sống ấy gọi là Đạo. Bất kỳ là vật nào trong trời đất đều có cái Đạo ấy ở trong gọi là Tánh. Hay nói một cách khác, Tánh ấy cùng với Đạo là một thể. ‘Thiên địa dữ ngã tịnh sinh; nhi vạn vật dĩ ngã vi nhất” (TTTH; Tr. 86). Quan niệm này gợi lại nơi tâm trí tôi câu Phúc Âm, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6). Trong khi nơi “Lời Nói Đầu,” cụ Nguyễn Duy Cần nhắc nhở, “Đọc Trang Tử cũng như đọc Lão Tử, ‘điều quan trọng không phải ở những gì các sách ấy nói với ta, mà là ở những gì các sách ấy đã khêu gợi được nơi ta” (TTTH; Tr. XVII). Nói như vậy, cụ ND Cần vô tình đã rơi vào trường hợp, "Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Thử hỏi, tại sao không để cho “Những gì các sách ấy đã khêu gợi được nơi ta” hoạt động, khêu gợi, mà lại giải thích, giải nghĩa theo quan điểm, nhận định cá nhân của mình. Quái, tôi lại rơi vào cái tật hung hăng con bọ xít phê bình, nhận định! Hãy tha thứ cho cái lỗi lầm xí xọn nơi tôi. Có điều, theo cuốn Trang Tử Nam Hoa Kinh, “Trang Châu, thường gọi là Trang Tử, ‘sống trong khoảng 369-298 trước Tây lịch kỷ nguyên;’” không hiểu quan niệm, nhận thức về Đạo có ảnh hưởng gì tới quan điểm, nhận thức nơi Phúc Âm về Thiên Chúa chăng. Sở dĩ nơi tâm trí của tôi nêu lên câu hỏi này vì đã bao năm, ngay từ thời còn nhỏ đã được theo học dưới giáo dục của Công giáo, con đẻ của Phúc Âm. Sáng sớm hôm nay, sau khi đi bài quyền, tôi chạy bộ ra chợ thay vì đi xe đạp. Chạy bộ để hòa hợp nhịp chạy với nhịp thở, trong khi từ từ hít vô, chạy 15 bước và thở ra cũng mười lăm bước đến khi hết hơi. Ngày đầu, tôi chạy giới hạn 10 bước, sau ba ngày tăng lên, áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết đến đả thông kinh mạch, đồng thời áp dụng nguyên tắc hành thiền do lục tổ Huệ Năng đề xướng. Mới đầu, rất khó định tâm, nhưng riết rồi, cặp mắt trở thành phương tiện nhận biết diễn biến đang xảy ra trên đường cho đôi chân tiếp tục chạy và tâm trí để ý đếm nhịp bước đồng thời điều chỉnh cho hòa hợp nhịp thở. Nói cho đúng, bên ngoài, người ta chỉ thấy tôi lao đi như chiếc máy, tưởng tôi đang cố gắng tập thể dục; đâu ai biết được tôi chạy nhưng tâm trí định nơi nhịp chạy sao cho hợp với nhịp thở. Cách chạy cũng không giống kiểu chạy bình thường. Mấy đầu ngón chân gần chạm đất thì khớp nơi mắt cá, đầu gối, eo hông, toàn bộ thân xác tôi nhịp nhàng trong thế nhún của một cây cung thuận chiều và đúng thời điểm dồn xuống thành thế bật, dùng đất làm điểm tựa để bung đi. Mới đầu, cử động của hai cánh tay còn ảnh hưởng đến thế chạy, nhưng sau này, khi đã thuần thục, hai cánh tay tự do hoạt động theo ý mình muốn. Nói cho đúng, gọi là chạy nhưng chỉ là nghiêng thân để lướt đi trên mặt đất, nhịp nhàng theo phản xạ toàn bộ của cơ thể. Từ nhà tới chợ chỉ hơn hai cây số, tôi chạy mất cỡ mười lăm phút. Tôi không thăng hoa chút nào; bởi nếu đi bộ theo kiểu hướng đạo, bước những bước dài một đoạn rồi chạy xắp xắp một đoạn, thì mỗi giờ đi được bốn cây số; nghĩa là mười lăm phút sẽ đi được một cây số. Đàng này chạy theo kiểu búng người của tôi, hơn hai cây số, nói mười lăm phút là quá khiêm nhượng. Tôi muốn chạy nhanh hơn nhưng có lẽ phải kiếm đường khác bởi không muốn bị bất cứ ai chú ý, do mới đến đây hơn kém mười ngày, dẫu thường có mặt ở chợ để mua thực phẩm trong những buổi sáng sớm. Có lẽ tốt nhất là dậy sớm hơn nửa tiếng, còn nếu không, tới gần chợ cần chạy chậm lại, hoặc gặp chốn đông người đành đi bộ. Mới thoáng nghĩ như thế khi vừa ngang qua ngã rẽ, chợt tôi nghe tiếng gọi từ một đường nhỏ nối liền đường lớn gần chợ, - Chú gì ơi. Tưởng có chuyện gì tôi ngừng chạy, đồng thời quay nhìn thì thấy cô bán cá rô lần trước đang cho xe đạp chậm lại lên tiếng hỏi, - Chú chạy đi đâu mà vội thế? - Tôi ra chợ mua đồ nấu ăn mà. - Thế sao chú chạy như bị ma đuổi dzậy? - Có chứ, có con me đảo ngược. Tôi giở giọng láu cá. - Con me nào mà đảo ngược? Có lẽ nàng nghĩ tôi nói giọng bị ảnh hưởng dân miền Trung, nên nói ma thành me. - Con me đảo ngược không là em thì là ai ở đây! - Chời, cái chú này, dzậy mà cũng nói. - Thế cô gọi tôi chuyện chi? - Em thấy chú chạy vội vã như có chuyện gì gấp rút nên lên tiếng gọi mà. Thế xe đạp đâu mà chú hổng đi? Lần trước, hơn tuần rồi mua cá, nàng xưng “Tui” mà lúc này đã đổi thành em, nghe dễ thương ghê nơi! Máu “Galăng” nổi dậy, tôi nói, - Tôi chạy thể dục mà; xe để ở nhà; chẳng lẽ vừa chạy vừa dắt theo xe. - Thế mà em cứ tưởng có chuyện chi gấp gáp khiến chú chạy thục mạng. - Hôm nay, cô có chi bán vậy? - Em có mấy con trê, hai con lươn và ít con rô. Chú mua cá trê hông? Nàng rời khỏi xe đạp, định mở hom chiếc giỏ đặt lọt vô chiếc thau sắt cũ đã phai màu sơn dùng chứa cá để bán, trong lúc miệng nói. - Không đâu, trưa nay tôi định ăn bò lúc lắc hoặc nem thính Bắc kỳ cùng với canh rau mùng tơi nấu tôm khô, làm cho mau. Cá trê mà kho thì chiều hoặc mai mới ăn được. - Hay chú lấy mấy con rô về chiên, chấm mắm ớt tỏi cho phê, em để rẻ cho chú mà. Chẳng lẽ lại sinh chuyện giao tình sao, tôi nghĩ, mà cô nàng càng lúc càng trở nên thân mật với tôi hơn. Với ý nghĩ đó, tôi ỡm ờ, - Tôi không có tiền mua cá đâu, chỉ có ít đồng mua rau và thịt. Cô có bán chịu không, nhưng dẫu có bán chịu, tôi cũng không có tiền trả; bởi ngày nào được tính theo ngày nấy. Thôi đi, cá rô chiên chấm mắm ớt tỏi đúng là tuyệt vời, nhưng cái túi của tôi không cho phép. - Thế vợ chú đâu mà chú cứ phải đi chợ dzậy? Ah, cô bé này bắt mánh tôi lần thứ hai, hèn chi cứ cố nhì nhằng. Cô bé cứ đẩy sôi máu thanh niên trong người, tôi thầm nghĩ, có nên gieo cho nàng chút niềm vui chăng. Tuy nhiên, hạnh phúc nào không kèm theo đau khổ, niềm vui càng lớn thì nỗi thất vọng càng to; đời người cái chi không phải trả giá. Tôi đâu có chút ý định nào lập gia đình nên nếu giả đò ỡm ờ với cô ta chỉ tội thêm cho nàng mà chớ. Nhưng cái máu lãng đãng cứ hùng hục trỗi dậy khiến tôi cảm thấy khó mà dứt khoát với lòng. Thanh niên gặp em gái thuận mắt, ai mà không muốn xáp lại. Nơi trường hợp của tôi, cứ như mỡ để miệng mèo, cố làm như con mèo mù vẫn cảm thấy mùi hương. Ai da, vận số đưa đẩy nhưng tôi cảm thấy không có dịp may để đạt vận số dẫu tràn đầy cơ hội. Hình như ý tưởng nào nổi lên trong tâm trí; có vợ chỉ đạt được dịp may một lần, nhưng mất tất cả những dịp may với các nàng khác. Tuy nhiên, sự đời là thế, dẫu mất tất cả dịp may với những nàng khác, vẫn còn hơn không có dịp may nào. Lập gia đình, được cả đàng nọ lẫn đàng kia, nhưng có ở trong chăn mới biết chăn có rận; cuộc đời nào có gì bỗng nhiên từ trời rơi xuống; chuyện gì cũng có giá của nó. Hạnh phúc chỉ là niềm vui đuổi bắt, và khi bắt được rồi, niềm vui chẳng được bao lâu; mà tâm tưởng đối diện với thực tại khổ ải thì kéo dài tới muôn đời, cho tới khi từ giã kiếp sống coi chừng vẫn bị đeo theo. Những ý nghĩ thoáng qua trong tâm trí khiến tôi thấy cảm thương cho cô bé mới lớn này, nên lã giã, - Lần trước mua cá, tôi đã nói rồi, tôi đâu có vợ, nghèo quá mà, nhất là vào thời buổi này, chạy ăn từng bữa cũng sút mồ hôi thì còn nói chi đến vợ, đến đèo bồng. Dẫu miếng ăn sống qua ngày cho chính bản thân còn chưa lo được thì lấy vợ rồi cho nó đi ăn mày nghe sao được. - Thế gia đình, ba má chú đâu mà không dzìa với họ? - Chời, tôi thầm nghĩ, cô em này điều tra lý lịch tôi kỹ quá, chẳng lẽ “khớp con ngựa ô,” nên chấm điểm tôi rồi chăng. Tôi thở dài, nhẹ nhàng nói, ra bộ tâm sự, nhà tôi đông anh em lắm, gia cảnh lại cũng chẳng khấm khá chi. Có được hơn mẫu đất thì ngày ngày cúi mặt xuống đất, lưng bán cho trời. Tôi có về nhà chỉ thêm gánh nặng trong thời buổi gạo châu củi quế này mà thôi, nên lang thang kiếm sống cho qua. Thôi, cô ra chợ kẻo trễ bán không được giá. Tôi cũng phải về lo vài chuyện cho xong. - Hay chú lấy mấy con rô về chiên ăn, em không tính tiền đâu. Nàng rút bao nylon mỏng đựng cá. - Không được, tôi dứt khoát. Tôi không muốn ăn cướp hoặc ăn xin. Theo như lần trước, tôi biết, cá này là do tía cô đặt lờ, công lao, mồ hôi, sức lực của ông đổi lấy. Cô không được đem cho tầm bậy tầm bạ như thế. - Em… em…, giời, thái độ em tình ghê nơi. - Em ún gì, mau lo đi bán hàng kẻo trễ. Tôi quay ngoắt chạy ra chợ. Thầm nghĩ, cái số đào hoa của mình chỉ khiến lòng thêm đau lòng. Thanh niên mà, nhưng sao tôi chưa bao giờ cảm thấy cần một người đàn bà bên cạnh dẫu thời đi học, đi lính nghĩa quân và cả bây giờ. Dĩ nhiên, đàn ông thích đàn bà, và đàn bà thích đàn ông là chuyện cần có, phải có, và nên có. Nhưng, cái ước mơ gì đó nơi tôi quá mạnh cho dù chẳng biết nó ra sao, là gì, chỉ cảm thấy tôi phải làm gì. Nhớ lại thái độ cô nàng thật cuốn hút và đễ thương khi muốn cho tôi cá và bị thẳng thắn chối từ. Ah, nàng thích tôi, nàng biết nàng thích tôi nhưng không nói lên được. “Người biết không nói.” Ưh, người biết nhưng không thể nói, không nói ra được. Câu nói nơi Lão học này chỉ về trạng thái, tâm trạng chứ không nói gì tới thái độ hữu vi, nhân sinh. Hèn chi biết bao người, nghiệm chứng nó theo nhãn quan hữu vi đã chẳng bao giờ nhận thức được. Lòng tôi như mở hội. Thế còn, “Kẻ nói không biết.” “Vì vậy, trở ngại lớn lao nhất trên con đường giác ngộ và giải thoát là tập quán tư tưởng, tức là lối suy nghĩ, hay phê phán theo một khuôn khổ hệ thống nào” (TTTH; Tr. 197), nghĩa là sao? Suy nghĩ theo khuôn khổ, thế nào là suy nghĩ không theo khuôn khổ? “Tiếng hát hay, không sao lọt được vào tai bọn dân quê: hát líu lo, bậy bạ vậy thôi mà chúng nao nức vui mừng. Thế nên, lời nói cao không thể vào được nơi lòng thế nhân. Lời hay không thể nói ra được là vì lời thô rất nhiều, và đầy lấp cả thiên hạ, và đã được bè đảng ủng hộ, phụ họa” (TTTH; Tr. 213). Suy nghĩ theo một khuôn khổ, hệ thống; lời cao không thể vào được nơi lòng thế nhân. Lời hay không thể nói ra được, là sao? Thế nào là tiếng hát hay, thế nào là lời cao? Có nhận định về âm nhạc, “Nghe thấy hay thì nó hay, không có âm nhạc dở.” Tiếng hát hay rung động cõi lòng! Không, lời hát đánh động lòng người chứ không phải tiếng hát. Lời hát đi vào lòng người. Lời nói cao, thế nào là lời cao hay thấp? Cao thấp của lời nói tùy thuộc ý nghĩa, sự thể lời nói chứa đựng, không phải tùy thuộc ngôn từ. Ngôn từ văn hoa hay không chứ không có cao thấp. “Kẻ nói không biết” cao, thấp nơi tính chất, ý nghĩa, trạng thái nào. Tiếng hát hay không lọt vào tai thế nhân; lời hát đi vào lòng người. Kẻ nói không biết sao có thể lọt vào lòng người. Kẻ nói không biết, hay bị cho là không biết? Tiếng hát hay không lọt tai thế nhân nên bị cho là hát dở. Người nói điều không quen sẽ bị cho là ngang, là khùng. Kẻ nói không biết. Suy nghĩ tới lui, tôi chợt nhớ vào năm 1965, tin Apolo đưa người Mỹ lên mặt trăng tràn ngập trên báo chí và ra rả nhắc đi nhắc lại nơi đài phát thanh được nghe qua radio. Có một bà cố (mẹ của một linh mục) cứ lẩm bẩm, dám vượt quyền Thiên Chúa. Ah, đức Giêsu bị kết án là phạm thượng vì dám xưng mình là con Thiên Chúa. Tại sao những câu, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (Khởi Nguyên, 1:27), “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em.” (1Cor. 3:16), lại được ít nhắc đến nơi diễn trình rao giảng của Kytô giáo? Có thể, người ta coi đó là những thành ngữ nói cho qua hầu nâng cao giá trị con người chứ không phải thực thể sự việc, sự kiện. Câu nói về tâm linh, về bản thể, bản chất của con người nhưng không được để tâm nhận biết, nhận thức. Câu nói cũng như không, bị cho là nói như không nói. Cả buổi chiều, đọc cuốn Trang Tử Tinh Hoa mà đầu óc tôi cứ bị câu, “Kẻ nói không biết” quấy rầy, khiến suy nghĩ, lý luận lung tung. Thôi thì làm bạn với rau cỏ cho thanh thản tâm trí, tôi lấy đôi thùng gánh nước tưới rau. Nhìn những luống rau mơn mởn, xanh tươi khoe sắc dưới ánh chiều vương, tôi tự hỏi chiều nay nên nấu món gì. Bữa trưa đã ăn nem thính Bắc kỳ với canh mùng tơi nấu tôm khô và nước luộc thịt. Chiều nay, cơm với thịt kho và món rau trộn, nếu cần, câu lấy hai con rô phi đem chiên chấm mắm ớt tỏi, thế là thịnh soạn chán. Mai có nên ăn gỏi không, tôi tự hỏi. Ăn gỏi cá cần dấm mẻ, kiếm đâu ra mẻ nơi miền này. Dân Bắc kỳ rốn như tôi mà ăn gỏi với nước chấm me hoặc mắm tôm đánh với chanh và ớt thì chẳng khác gì như đấm vào miệng. Tôi thầm nghĩ, sao mình khó tính thế! Tiền nhân dân Việt để lại câu, “Đi nước Lào, ăn mắm ngóe,” hay, “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.” Phỏng tôi có quá cố chấp trong vấn đề ăn uống chăng. Thử hỏi ông Tầm xem kiếm đâu ra mẻ, hoặc mai đi chợ kiếm quanh ai có mẻ xin một ít về gây giống. Ah, hỏi ông tiệm thuốc bắc, ông ấy là dân Bắc di cư năm 54, hoặc mua ít men rượu về gây giống, vài ngày là có mẻ. Lấy xẻng, bới đám cỏ bên cạnh rạch dẫn nước trào ra chảy xuống ao khi ang đã đầy, bắt được mấy con giun, vô nhà bếp kiếm cần câu, tôi thấy có tấm chài nhỏ treo bên cạnh một chiếc cần câu tre. Thế ra ông Tầm cũng biết quăng chài; tôi thì không. Lấy chiếc cần câu mắc mồi, vừa quăng xuống, tôi đã giật được một con rô phi khá nhỉnh, cũng gần nửa ký. Con cá béo mọng, óng ánh dưới nắng buổi chiều. Đủ rồi, tôi thầm tính, bữa cơm chiều có rau trộn, thịt kho, và cá chiên, tuyệt. Chiên hay nấu, hoặc nấu cà chua ăn với rau diếp, tha hồ vương giả. Danh ngôn của người Do thái có câu, “Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.” Tìm hiểu, tìm hiểu bằng cách nào, “Kẻ nói không biết.” Chính người nói đã không biết thì tìm ở đâu? Thế mà sao nó cứ ám ảnh tôi. Phiền, tôi nghĩ, vất quách nó đi, không nghĩ đến nó nữa. Thực lòng, tôi không muốn nghĩ đến câu nói kỳ cục này chút nào, nhưng cứ bị nó làm phiền, quấy rối. Nơi trang 195 của cuốn Trang Tử Tinh Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần viết, “Cho nên mới nói: bề ngoài của họ thì có vẻ hòa nhã với mọi người, mà kỳ thực, lòng họ cách xa với thế nhân.” Nghĩa là sao, người biết không nói; thế còn kẻ nói không biết? “Tiếng hát hay, không sao lọt được vào tai bọn dân quê;” lời nói cao xa người dân quê nghe không lọt tai, bị cho là không biết; kẻ nói không biết hay người nghe không biết? Người nghe không thể cảm nhận nên cho rằng kẻ nói không biết!