← Quay lại trang sách

- 5 -

”Kẻ nói không biết,” không biết nói cách nào, hay nói ra không được, hoặc nói kiểu nào thì người nghe cũng không hiểu, không cảm nhận được. Cảm nhận, cảm nghiệm, người ta chỉ có thể cảm nhận hay cảm nghiệm nếu đã có kinh nghiệm, hoặc thực nghiệm sự việc tương tự. Cũng một vấn đề, sự việc xảy ra, không ai có cảm nhận, cảm nghiệm giống ai. Người nói bị cho là không biết bởi không thể diễn tả cho người khác cảm nghiệm được tâm tình, trạng thái như mình đã cảm nghiệm, đã trải qua. Người ăn được cay không thể hoặc giải thích vị giác tuyệt vời khi nhai miếng ớt thế nào cho người không ăn được cay. Thế nên, dù giải thích đến mấy thì người nghe cũng không cảm thấy cay trong miệng, cũng không bị phỏng lưỡi. “Kẻ nói không biết” nói về cảm nghiệm, nhận thức. Nhưng sao diễn giải cho hợp lý, hợp tình, thuận với suy tư.

Cỡ mười giờ đêm, ra bàn ăn định uống miếng nước vì hơi khát; có lẽ cơm tối tôi đã ăn hơi nhiều thịt kho, tôi thấy ông Tầm ngồi thinh lặng uống trà. Đêm rồi mà còn uống trà thì sao có thể ngủ, chẳng lẽ ông định thức trắng suy nghĩ việc gì.

- Đêm muộn rồi mà bác còn uống trà?

- Không sao, tôi quen rồi. Anh có chuyện gì mà thức khuya vậy?

- Cháu đang đọc cuốn Trang Tử Tinh Hoa, nhưng cứ bị câu “Người biết không nói; kẻ nói không biết” quấy rầy đầu óc, cố quên không được, đuổi đi không xong. Nó cứ như quỷ ám, ma đùa, luẩn quẩn suốt.

- Khi nào anh không suy nghĩ nữa thì mới có thể biết.

- Bác nói sao, không suy nghĩ thì sẽ hiểu.

- Tôi không nói hiểu, mà biết.

- Biết là thế nào?

- Biết thuộc về cảm nhận, cảm nghiệm, thực nghiệm, nhận thức, nghiệm chứng; trong cuốn Tân Ước, thánh Phao lô gọi là nghiệm xét. Anh ăn cơm chiều, anh biết anh no bụng, biết món cá chiên chấm mắm tỏi ớt tuyệt vời thế nào; anh nghiệm được bữa ăn ra sao thì đó là biết. Hiểu không phải là biết; hiểu thuộc về lý trí, không phải cảm nghiệm. Hiểu bữa ăn ngon không thể làm mình no bụng mà phải ăn. Ăn là thực chứng, nghiệm chứng, là biết mùi vị thực phẩm ra sao và ảnh hưởng mình thế nào.

- Giả sử có ai đó ghé qua đây vào lúc này mà vẫn chưa ăn tối, anh có thể giải thích, giảng thuyết về bữa ăn lúc chiều, giải thích món cá chiên chấm mắm ớt tỏi để người đó hiểu và no bụng được không?

- Người biết không thể nói; tôi lên tiếng.

- Thế còn người nghe anh giảng thuyết, giải thích về bữa ăn, họ thấy thế nào? Anh đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa chưa? Có nhớ câu trả lời của Tổ Huy Sơn cho Hương Nham không?

Tôi im lặng nhớ lại, nơi cuốn Phật Học Tin Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần có ghi, "Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi: ‘Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!’ thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho kỳ được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: ‘Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!’ Nhiều lần ông khất cầu tổ Huy Sơn nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, ‘Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!’” (PHTH; Tr. 80).

“Kẻ nói không biết,” tôi thầm nghĩ, cái biết của tổ Huy Sơn không phải là cái biết của Hương Nham, nhưng sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Thấy tôi im lặng suy tư, ông lên tiếng,

- Thử đặt mình vào những vị thế của người giải thích bữa ăn và vị thế của người đang đói bụng vì chưa ăn cơm chiều, rồi đưa ra nhận định về đối phương, anh sẽ biết. Đoạn ông tiếp,

- Sáng nay đi chợ về thấy anh có sắc mặt vui nhưng lại mang nét trầm tĩnh, ngưng đọng; có chuyện gì đặc biệt hay sao?

- Bác biết coi tướng diện?

- Tôi muốn học cho biết nhưng không ngộ được.

- Thế sao không thấy bác chơi đàn sáo chi mà rành về âm nhạc vậy?

- Âm nhạc mang tính chất toán học, nên chỉ cần để ý nghiệm chứng mấy nguyên tắc thì đâu có gì để nói. Điều đáng nói nơi âm nhạc lại là tính chất cảm ứng của con người. Có điều, nhạc sĩ viết bản nhạc do cảm ứng với nghiệm chứng hay thực chứng nơi mình, nhưng diễn xuất, trình bày lại lệ thuộc ca sĩ và môi trường, thời điểm cũng như người hòa âm, phối khí. Tuy nhiên, nhà hòa âm, phối khí lại tùy thuộc tầng lớp khán thính giả. Có những bản nhạc dùng chuyển âm tuyệt vời nhưng nếu bị rơi vào trường hợp “Đàn gẩy tai trâu,” thì có hay, có giỏi cho mấy cũng bị trâu nó húc cho.

- Bác nói thế nghĩa là sao?

- Anh có biết luật chuyển âm không?

- Cháu nghe mấy người quen chơi nhạc nói chuyển âm theo công thức 1 – 4 – 5, nhưng không biết áp dụng thế nào vào hòa âm bản nhạc.

- Nghe những bản nhạc đang hiện hành, người ta thường chơi 1,3,4,5; tuy nhiên, nếu đánh hợp âm 1 rồi 3 thì âm thanh sẽ bị trùng hợp, âm thanh không nổi lên được. Thế nên, phải dùng nguyên tắc 1,2,4,5.

- Nghĩa là sao, hợp âm 2 đến hợp âm 4 không phải là 3 sao mà không hòa âm 1,3, lại dùng 2,4.

- Cho dù cố ý chăng nữa, không có bất cứ bản nhạc nào được viết theo trình tự hòa âm 1,3,4,5, hoặc 1,2,4,5. Tôi thử hỏi, nếu bản nhạc Đô trưởng thì 2,4,5 đối với Đô trưởng là những hợp âm nào?

- 2 là Rê, 4 là Fa, và 5 là Sol.

- Rê gì, trưởng hay thứ hay 7 hoặc 9?

- Rê thứ vì nơi bản nhạc Đô trưởng không có thăng hay giảm.

- Vậy anh thấy có bản nhạc nào mà hợp âm theo thứ tự Đô trưởng, Rê thứ, Fa trưởng, Sol trưởng bao giờ chưa? Như thế, cần đặt lại vấn đề chuyển âm một bản nhạc. Trở lại sáng nay, anh có chuyện gì vui nhưng hình như khó nói?

- Nào có chi đâu bác. Trên đường chạy tới chợ, cháu gặp lại cô bé bán cá. Hình như cô ta để ý cháu. Thì bác cũng thừa biết tính cách thanh niên mà, cháu ăn nói đò đưa mấy câu. Lúc cháu nói không có tiền mua cá, lại cũng không muốn mua chịu, vì mua chịu cũng sẽ không có tiền trả, cô ta muốn cho cháu mấy con cá rô về chiên, nhưng cháu chối từ nên thấy tội cho cô ta.

- Tội cho cô ta là sao?

- Lần đầu tiên đạp xe đi chợ mua của cô ta mấy con cá rô, theo giá chợ thì phải gần hai đồng, nói qua, nói lại, cô ta lấy cháu chỉ một đồng. Lần này gặp lại, cô ta hình như giả đò vô tình, lần thứ hai, hỏi vợ cháu đâu mà cháu phải đi chợ, rồi thẩm vấn luôn về nơi chốn gia đình của cháu nữa. Cháu giả đò lãng đãng thân thiện nhưng lòng e ngại cô ta có cảm tình sâu đậm với mình rồi sẽ bị thất vọng sau này nên dứt khoát không nhận cá và bỏ chạy.

- Có sao đâu, nghe anh kể tôi đâu cảm thấy gì. Thế cô ấy có nói chi về tâm tình của cô ta với anh không?

Ông Tầm buông một câu làm tôi giật mình. Lời nói của tổ Huy Sơn, “Cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả.” Nói như không biết, không thể khiến người nghe cảm nhận được tâm tình của mình. “Kẻ nói không biết. Kẻ nói không biết.” Tôi lặng người ngỡ ngàng với sự nhận biết câu nói ngang ngược. Vui, tôi thực sự cảm thấy vui. Thấy tôi ngồi im, ông Tầm lên tiếng,

- Kẻ nói không biết. Hiểu chứ, biết chứ.

Tôi gật đầu, thinh lặng. Làm sao mà nói để ông cảm nhận được trạng thái của tôi khi gặp cô bé sáng nay. Mới gặp qua lần thứ hai đã dám cho cá, tôi biết nàng thích tôi, muốn làm quen rồi thân thiết, nhưng tôi không dám quen thân với nàng vì sẽ khiến nàng đau khổ sau này. Tôi cảm thương cho nàng đã lỡ thích tôi. Ôi cái số đào hoa tai hại, số con mèo vừa mù, vừa tịt mũi. Cho dù có nói đến thế nào chăng nữa, ông Tầm cũng không thể cảm nhận được tâm tình của tôi. “Kẻ nói không biết.”

Vài phút sau, ông lên tiếng khuấy động màn đêm thinh lặng dưới ánh đèn mờ,

- Anh cảm thấy thích hay yêu hoặc thương cô nàng?

- Cháu cảm thương cô ta nhiều hơn; cô ta là một cô bé đơn thuần, chân quê, cháu không muốn cô ta bị tổn thương tâm tưởng sau này. Cháu biết mình có số đào hoa, đào hoa một cách lạ lùng, lại có hình dáng hợp nhãn phái nữ, nhưng chưa hề bao giờ có ý nghĩ hay ước muốn có một người nữ bên cạnh để cùng nhau xây dựng một gia đình. Cháu quen biết khá nhiều con gái và biết mình có sức hút tự nhiên với các nàng, nhưng có lẽ bởi được dưỡng dục dưới mái trường Công giáo, nói đúng ra, nơi tiểu chủng viện, nên quan niệm luân lý Công giáo ảnh hưởng, nếu không muốn nói là điều hành nhận thức cũng như giới hạn lối sống, liên hệ của mình hầu như nơi mọi phương diện. Cháu hiểu được bản năng tự nhiên của con người là đàn ông cần, thích, đàn bà và tương tự, đàn bà cần và thích đàn ông, nhưng lại cảm thấy cuộc đời buồn chán, ngày ngày sáng đi làm, chiều về ăn, ngủ, rồi lại sáng đi làm. Cuộc đời như thế quả là đáng nản, chẳng chi hưng phấn. Hơn nữa, cháu cảm nhận hình như có điều gì lôi kéo cháu nên cứ lỳ ra kiếm cách sống qua ngày và chờ đợi, chờ đợi điều gì xảy đến cháu cũng không biết. Nói cho đúng, cho đến lúc này, cháu cũng không biết mục đích cuộc đời của mình là gì dẫu đã nhiều lần tự hỏi. Thế nên, thái độ của cháu đối với cuộc đời chính là một sự thách đố, đồng thời muốn kiếm tìm sự khao khát nào đó mơ mơ màng màng lôi kéo tâm tư.

- Riêng về phương diện tình cảm với cô bé này, dĩ nhiên, với tâm lý thanh niên, như bác đã từng trãi qua, ai không thấy hưng phấn khi quen biết hoặc thân thiết với nàng nào đó hợp với mình nơi phương diện nào đó. Có điều, đối với các nàng, dẫu nhiều khi lãng đãng nói năng ám định thân thiết, cháu chỉ coi các nàng như những em gái nên không muốn chìm sâu vào cảm tình trai gái yêu đương, hoặc bất cứ gì tổn hại đến tâm tưởng của họ. Cũng có thể thái độ tránh tình, tình theo nên cháu trở thành cuốn hút hơn đối với các nàng chăng. Nếu đó là sự thực hiển nhiên, thì cũng là phận số, dẫu cháu không có chút ý định tán tỉnh nhăng cuội làm phiền bất cứ ai.

- Có bao giờ anh nhận thức được cảnh giới cao nhất của tình yêu đó là không dám đối mặt với người mình yêu không?

- Cháu tự kiểm chứng tâm tình của mình với câu nói, “Cuộc sống không có tình yêu giống như một hoang mạc,” nhưng hình như tình yêu của cháu không được dành cho một người đàn bà mà lòng cứ cảm thấy phiền hà khi thấy người người lầm than kiếm sống. Cháu muốn làm một cái gì may ra có thể cho họ có cuộc đời khấm khá hơn. Thực ra, sinh mệnh con người thì ngắn ngủi, nay cháu đã hơn kém 30 nào biết nói chi hơn, và điều khó khăn nhất là cháu chưa xác định được mục đích cuộc đời của mình. Sống để mà sống quả là nhàm chán.

- Tình yêu là thứ không thể nào quên được, nhưng vẫn có thể bỏ được. Còn tình yêu thực sự thì không cần nhớ đến, nhưng lúc nào cũng sống với nó, cho nên không có vấn đề quên hay từ bỏ. Thế anh có cảm thấy lo lắng gì không?

- Nếu có lo lắng gì thì cháu không theo bác tới đây. Như bác đã biết, hình như cháu đã nói, cỡ sáu tháng hay một năm sau cháu mới quyết định ở lại hay ra đi sao! Nói đúng ra, lo lắng chính là điều vô bổ đối với cháu. Tính toán, nhận định, và quyết định, mới là vấn đề. Do đó, cháu thách đố với cuộc sống, dám thử bất cứ gì nếu không làm phiền hà tới người khác; bởi cháu không muốn phải ăn năn vì những gì mình đã không dám thử.

- Thế anh nghĩ thế nào về tiền bạc, tài sản?

- Cuộc đời mới quan trọng; đã có thởi gian suốt sáu tháng, sáng nhịn, trưa rình mò ăn chực, tối uống nước lạnh đi ngủ mà vẫn còn sống thì tiền bạc chi là con ở chứ không thể là điểm đích cháu kiếm tìm; bởi cháu cũng nhận thức được kẻ nào cho rằng tiềm bạc làm được mọi sự thì họ cũng dám làm tất cả, kể cả muối mặt làm mọi sự để có tiền. Đối với cháu, làm gì thì làm sao cho hợp thời hợp cảnh, miễn sao lương tâm không cắn rứt hoặc phải hối hận. Thành công hay thất bại, chuyện phải đến tất nhiên xảy ra, cố tránh cũng chẳng thoát. Abraham Lincoln có câu nói, “Đừng buồn vì bụi hoa hồng có gai mà hãy vui vì trong bụi gai có hoa hồng,” quả thực sâu sắc. Qua mấy năm nay, cháu học được khá nhiều bài học sống động và nhận biết rõ trường đời là cơ hội nên cần mở rộng lòng để đón nhận.

- Thế anh có nhớ tới cô Lan ở Thanh Sơn, Gia Kiệm không?

- Cháu phải tự cảm ơn mình vì đã không một lần lãng đãng ăn nói đò đưa với cô ta nên không gì tiếc nuối, ăn năn hay ân hận. Có duyên thì gặp, không nợ thảnh thơi. Bác thử nghĩ, cuộc sống hôn nhân đâu giống như hạnh phúc mình mơ tưởng, mà trên răng dưới dép như cháu, khi chén bát đụng nhau sao có thể chấp nhận được dẫu chỉ lời nói nhẹ khinh khi. Có lẽ tự ái nơi cháu quá cao.

- Anh đọc được mấy cuốn sách rồi?

- Mới có mấy cuốn à. Thoạt tiên khi nhận sách từ bác, cháu nghĩ chỉ nội một tuần là xong hết, nhưng ngay từ tối hôm đầu tiên lúc vừa lật mấy trang đầu cuốn Lão Tử Tinh Hoa, đụng câu, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri; biết, không nói; nói, không biết,” cháu sửa lại là “Người biết không nói; kẻ nói không biết;” đã khiến đầu óc cháu lùng bùng. Cũng cảm ơn bác đã phân tích biết và hiểu lúc nãy. Hình như, cháu cần thêm thời gian để xem xét sự liên hệ của tư tưởng đạo học Đông Phương với Phúc Âm. Cháu đã đọc bộ sách Life and Teaching of the Masters of the Far East bằng Anh ngữ đã khá lâu, nhưng ngày đó đọc chỉ để cho hiểu giống như đọc những sách khác. Nói cho đúng, cả bộ sách đó cháu chỉ nhận được một điểm đó là tác giả dùng sinh vật để minh chứng có một quyền lực, năng lực tối thương đang hoạt động nơi mọi sự, được gọi là sự sống, sự hiện hữu. Sự thể này trùng hợp với câu Phúc Âm “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.” Bộ sách dùng tài liệu biên khảo sắp xếp thành sự việc được coi là hành trình đối diện các vị chân nhân mang nặng ảnh hưởng nơi lý thuyết rao giảng Kytô giáo, nặng phần tâm linh theo kiểu “fiction” Tây phương, phần nào khuyến khích nhận thức thực thể con người áp đặt trên đối tượng. Mấy cuốn khác nơi các bản Việt ngữ cũng thế, giảng giải sách đạo học, tâm linh dưới quan điểm hữu vi, nhân sinh. Thiển nghĩ, khuyến khích hay thách đố độc giả suy nghĩ, suy tư để nâng cao nhận thức hầu thức ngộ thì tốt hơn. Nhưng biết nói sao hơn, tác giả chưa ngộ thì chẳng khác gì “Kẻ nói không biết” mà thôi.

- Nhận thức của anh quả thật là thú vị. Anh có thể nói lý do nào dẫn đến nhận thức và cách đọc sách của anh được không?

- Có gì lạ đâu thưa bác, vì cháu thích đọc sách bởi muốn thăng tiến nơi tiếng Anh và tiếng Pháp. Riết rồi những quan niệm, nhận định, hay lý thuyết, chủ thuyết thâm nhập vào đầu cháu, nên khi nói chuyện với bạn bè cùng lớp, vô tình cháu xổ ra những điều khác lạ hoặc đối nghịch với quan điểm của họ đến nỗi họ đặt danh hiệu cho cháu là óc thối. Ở tuổi mới lớn mà, tâm trí còn đang mở rộng để thâu thập. bất cứ những gì thấy thuận lý, hợp tình là được in trí và thuận theo. Chẳng hạn, theo luân lý, đạo đức, chúng ta chi chấp nhận một vợ, một chồng trong khi quan niệm, “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng,” cứ nhan nhản nơi văn chương và trở thành thành ngữ trong cuộc sống dân gian. Đồng ý rằng, trong cuộc sống sự thể đa thê hoặc vợ nọ con kia không thiếu nơi đất nước Việt Nam; đàng khác, trên thế giới cũng có những phong tục đa phu, nhưng trong giới bạn học tuổi thanh thiếu niên chỉ toàn là nam, đang độ phương cương phát triển do đó cố níu kéo phần ưa thích về cho mình dẫu chỉ là lời nói cho qua. Hơn nữa, thói quen tạo thành tập quán lâu dần tạo quan niệm, chiều hướng, cháu thấy không nên, do đó lên tiếng điều chỉnh, và vì khác quan điểm nếu không nói là đối nghịch nên bị cho là đầu bùn.

- Hơn nữa, có những điều mới nghĩ ra, cháu tưởng là mình có được ý tưởng mới, còn đang suy tới, tính lui sao cho hợp lý, hợp tình và sao có thể áp dụng trong cuộc sống; thì đùng một cái, nơi cuốn sách nào đó mượn từ thư viện, nó đã chình ình nằm đó cả trăm năm. Càng đọc, càng thấy nhiều điều chưa biết nên càng thích đọc. Đọc sách vừa tăng thêm kiến thức vừa trau giồi ngoại ngữ. Tuy nhiên, đọc nơi sách Anh, sách Pháp, tác giả dùng lý luận nối kết thực nghiệm đoạn phân tích, diễn dịch rồi tổng hợp kiến tạo tri thức mới theo đường lối trình bày kỹ thuật thực nghiệm, khiến độc giả ít nhất có cảm tưởng hiểu được một cách rành mạch. Cháu nói, tưởng hiểu được rành mạch, chứ không chỉ cách cho độc giả làm sao có thể cảm nghiệm, cảm nhận thực sự sự thể đó như thế nào nơi mình. Thí dụ nơi bộ Life and Teaching of the Masters of the Far East, tác giả Baird Thomas Spalding, mà cuốn đầu tiên được Nguyên Phong dịch thành Hành Trình về Phương Đông, tác giả nêu lên sự kiện những con nhệch (lươn biển) được sinh sản tại đảo Bermuda chưa kịp lớn đã cắm đầu cắm cổ bơi về sinh quán của cha mẹ chúng rồi đưa lên vấn đề, “Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn?” Tác giả chỉ nêu lên sự kiện cho độc giả chiêm ngưỡng chứ không nói gì về sự liên hệ của quyền lực hướng dẫn những con nhệch bé bỏng ấy với độc giả. Sách Tây phương trình bày sự kiện như một quảng bá tư tưởng, quan niệm, nhận thức mà thôi.

- Nhưng, nếu đã quen đọc sách Tây phương, khi đối diện với sách Đông phương, thế là bù trớt. Những năm tháng trước, cháu thích đọc sách Anh, sách Pháp hơn vì đọc những sách dịch từ các kinh theo lối đọc sách Tây phương, cháu không thể nào hiểu được họ nói gì. Cháu học nơi tiểu chủng viện Công giáo, tham dự lễ nghi Công giáo và nghe các cha giảng giải Phúc Âm nhiều khi không chấp nhận được. Ngày xưa, khi còn học lớp đệ lục, đệ ngũ (lớp 7, 8) cháu có ý định đi tu làm linh mục. Qua sự giao tiếp tìm hiểu mỗi khi có dịp gặp các vị tu sĩ, linh mục, hỏi ra mới được trả lời là đi tu để cứu rỗi các linh hồn. Không dám hỏi thẳng, cháu tự tìm hiểu linh hồn là gì; linh hồn của cháu thế nào, liên hệ đối với cuộc đời, xác thân cháu ra sao thì không sách nào viết về sự minh chứng con người có linh hồn; chỉ có giáo lý nói linh hồn là tính thiêng liêng. Nơi nhà thờ, nhà trường, những lớp học giáo lý, cũng không ai đá động đến tính chất của linh hồn, chưa bao giờ cháu đọc được nơi sách vở hay nghe được bất cứ ai minh chứng con người có linh hồn. Thế là cháu bỏ ý định đi tu. Đi tu để cứu linh hồn người khác trong khi không biết linh hồn mình là cái gì thì cứu chi, chẳng khác gì “Kẻ nói không biết.” Mà đúng thật, họ nói điều họ không biết.

- Rồi có dịp đọc những cuốn sách viết về thành ngữ, tục ngữ, ca dao, phong dao của dân Việt, giời, một số tác giả viết những bài khảo luận và nhận định đều cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân, vô học, chân lấm tay bùn, tối ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Ngay như Nguyễn Tấn Long và Phan Canh cũng thế, họ cho rằng, “Các nhà nho học cũng đã dùng chữ nôm ghi nhận những mẫu tâm tư của lớp bình dân qua các bài khảo lục.” (Thi Ca Bình Dân VN; I. Nhân Sinh Quan; Xuân Thu; CA, USA; năm? Tr.14).

- Anh nói sao, Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân?

- Cháu đang muốn nói về một số tác giả các bài khảo luận, nhận định, một số tác giả cho rằng Tục Ngữ Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân VN; chẳng hạn,

“Minh Hương trong cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội dùng Tục Ngữ, Ca Dao với mục đích "tìm về nguồn cội" (tr. 9) "Giới thiệu... cái độc đáo, cái cao đẹp, cái thâm thúy và cả muôn vàn kinh nghiệm xác thực quí báu chứa đựng trong những bài thơ nhỏ một bộ phận của nền văn chương truyền miệng" (tr. 7). Minh Hương cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao, nền thi ca truyền miệng đã có từ thời lập quốc: "Như chúng ta đã biết, văn chương truyền khẩu đã xuất hiện rất sớm, vào cái thuở bình minh của dân tộc mới thành hình..." (tr. 8). Tác giả cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội đưa ra nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao là một phần văn chương bình dân (tr. 9) hay văn chương đại chúng (tr. 8) "do tập thể sáng tác, bổ xung, sửa chữa và phổ biến liên tục." Nền văn chương này "đã góp phần đánh ngã được chánh sách đồng hóa thâm độc của người ngoài và đã kiên quyết bảo tồn được nền văn hóa dân tộc" (tr. 9). Mặc dầu tên gọi "văn chương dân gian," tác giả nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao "là bộ bách khoa bình dân truyền miệng. Trong khi góp nhặt, phân tích, xếp loại và tìm hiểu những câu thơ truyền miệng ấy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy nền Văn chương dân gian đã đề cập gần đủ các ngành, các khoa: Y Dược, Sinh lý, Canh nông, Nghề nghiệp, Thiên văn, Vạn vật, Kinh tế, Di truyền, Tâm lý, Phân tâm v.v..." Theo Minh Hương, Tục Ngữ, Ca Dao phát xuất từ giới bình dân: "Người bình dân thường gần gũi với thiên nhiên, tháo vát với công việc lao động hằng ngày, không bị tiêm nhiễm sâu sắc một giáo lý, một tư tưởng nào trong sách vở nên họ rất đổi thực tế trong tư tưởng và trong cả hành động nữa. Sống thì đơn sơ, nói năng thì bình dị nên văn chương đối với họ cũng phải 'Văn hay chẳng lọ đặt dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay.' Thật thế, họ có thì giờ đâu mà 'con cà, con kê, con dê, con ngỗng' họ chỉ 'ăn một đọi, nói một lời.' Nói như thế, văn của họ đâu có phải cộc cằn, lúng túng, trái lại họ rất sành sỏi trong việc lựa chọn chi tiết thích thú để lôi cuốn người nghe. Nhiều khi họ lại táo bạo dùng nhiều hình thức mỹ từ để câu thơ trôi chảy một cách duyên dáng ý nhị hơn" (tr. 253).