- 6 -
Bảo Vân quan niệm Tục Ngữ, Ca Dao có trước thời kỳ Trung Hoa đô hộ và do những người bình dân diễn tả tư tưởng, tâm tình bằng những câu văn truyền miệng: "Riêng về mặt Văn học, Tổ tiên chúng ta đã học chữ Nho, viết chữ Nho, hấp thụ tư tưởng và học thuật của bọn người thống trị. Mãi tới đầu Thế kỷ thứ 13 (đời nhà Trần) mới có một số Nho sỹ Việt Nam, mô phỏng theo văn thơ chữ Hán mà sáng tác ra một số thi ca bằng chữ Nôm. Tuy vậy trước đó, những người bình dân đã đem tư tưởng, tâm tình của mình ra mà diễn tả bằng những câu văn vần rồi truyền miệng đi với nhau. Đó chính là hình thức đầu tiên của Tục Ngữ và Ca Dao. Trải qua năm, tháng, các câu đó được thêm bớt, sửa chữa, gọt giũa để rồi tới ngày nay, chúng ta đã có một kho tàng vô cùng quý giá trong nền Văn học Bình dân..." (Tục Ngữ Ca Dao và Dân Ca; tr. 3)”.
Nơi phần "Nhận Xét Chung về Ca Dao," Đào Vân Hội cũng cho rằng Ca Dao là sản phẩm của dân quê: "Ca dao tức là những câu hát thông thường của dân gian, là sản phẩm chung của dân tộc, truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ kia, là tiếng nói của tâm hồn nam nữ ở những nơi đồng lúa, rừng rú, núi đồi" (Phong Tục Miền Nam qua Mấy Vần Ca Dao; tr. 7). Nguyễn Tấn Long và Phan Canh có đồng quan điểm về văn học bình dân như tiếng nói phản ảnh của giới bình dân: "Trái ngược với văn học bác học, nền văn học bình dân phản ảnh tâm tư đại đa số quần chúng nghèo khổ, dốt nát, tiếng nói của họ là tiếng nói chung của lớp người cùng sống trong một hoàn cảnh, mà cũng là tiếng nói chân thành nhất của mỗi dân tộc trong sinh hoạt xã hội" (Thi Ca Bình Dân Việt Nam; tập 1; tr. 12).
Nguyễn Hữu Nghĩa, Diệu Tần, Minh Đạo, và Triều Khê trong những bài viết nơi Nguyệt San Làng Văn số 102 tháng 2 năm 1993; Toronto, Canada có những quan điểm hơi khác về Tục Ngữ, Ca Dao. Theo Nguyễn Hữu Nghĩa, "...bên cạnh đó, văn chương truyền khẩu lại rất phong phú, và là phương tiện phổ biến một phần các sáng tác của nhà nho..." (Làng Văn; số 102; "Sơ Thảo về Tục Ngữ, Ca Dao;" tr. 12). Diệu Tần cho rằng: "Không như văn chương bác học, văn thi sĩ thường chọn câu lựa chữ đẽo gọt lời ý rất chau chuốt; văn chương bình dân đơn giản, mộc mạc nhưng không thô tục." (Làng Văn; số 102; tr. 41). Nơi phần cuối bài viết khi đưa lên "cái khôn, cái nghịch ngợm dí dỏm của phái nam," Diệu Tần viết tiếp: "Tuy là tưởng tượng nhưng anh nông dân đã khéo dùng ngoa ngữ để biểu lộ tình thương yêu..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Những Chữ Tài Tình Trong Ca Dao;" tr. 43). Có thể nói Diệu Tần cũng đồng ý kiến Ca Dao phát xuất từ giới bình dân mặc dầu quan niệm "Ca dao là thơ là nhạc của đại chúng được gạn lọc qua nhiều văn thi nhạc sĩ khuyết danh" (tr. 41). So sánh một số câu Tục Ngữ, Phong Dao được phổ biến nơi miền Nam và miền Bắc Việt Nam, Minh Đạo xác quyết văn chương bình dân do người bình dân sáng tác: "Người bình dân miền Nam dùng nhiều câu, nhiều tiếng gốc Hán hơn người bình dân miền Bắc..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Vai Trò của các Tiếng, các Câu Gốc Hán trong Văn Chương Bình Dân VN;" tr. 45). Minh Đạo đưa ra nhận xét văn chương bình dân là thành lũy ngăn chận văn hóa Hán cho nên ngày nay chúng ta có ngôn ngữ Việt mà không phải học tiếng Tàu: "Trong gần 1000 năm đô hộ người Việt, văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng rất sâu đậm nơi triều đình và các tầng lớp sĩ phu, nhưng lại không thấm nổi xuống tầng lớp quần chúng. Cuối cùng người Trung Hoa bại cả về quân sự lẫn văn hóa. Nhờ thế ngày nay chúng ta mới có ngôn ngữ văn tự mà nói, mà viết, không cần phải học tiếng Tàu." (tr. 47-48). Trong khi Triều Khê lại quan niệm hơi khác qua bài viết "Cụ-Thể-Hóa và Kịch-Tính Trong Ca-Dao": "Trái với văn chương bác học, văn chương quần chúng là ca dao, không đủ từ ngữ trừu tượng để diễn tả ý tình, cho nên các tác giả khuyết danh của ca dao đã lấy những gì tả thực, có đủ kích thước ba chiều, để đưa vào những câu thơ bình dị." (Làng Văn; số 102; tr. 48). Tuy thế, qua bài viết, Triều Khê cho rằng hai đặc tính cụ thể hóa và kịch tính của Ca Dao có thể đã là nguồn phát xuất cho các bộ môn khác: "Thế mới biết, người Việt chẳng những đã giàu hồn thơ, mà ca-dao còn có kịch tính. Có lẽ chính vì hai đặc-tính này mà sau ca-dao, các bộ môn ca nhạc kịch bình dân như tuồng, chèo, hát bộ, cải-lương,... đã phát-triển mạnh và phổ-biến rất nhanh" (tr. 51).” (Trích từ Hương Hoa Dân Việt; Lã Mộng Thường; Xuân Thu; CA, USA; 1993; Tr. 5-8).
- Đọc Tục Ngữ, Ca Dao thấy phê ơi là phê, thế mà các vị ấy nhận định như vậy khiến cháu đặt vấn đề, tự mình suy nghĩ, vì nói điều gì, viết sự chi cần phải sao cho hợp lý, thuận tình. Thử hỏi bác, sao người dân quê khởi xướng được câu nói, “Khôn ngoan ở chốn nhà bay; dù che ngựa cưỡi, đến đây cũng hèn;” ai là người có đủ vị thế để nói lên câu ấy, thế nên, gặp được câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” cháu thấy tuyệt vời không bút giấy nào tả xiết. Chính gia tài Tục Ngữ, Thành Ngữ, Phong Dao, Ca Dao khuyến khích cháu suy tư nhiều hơn khi đọc sách. Tuy nhiên, đúng là “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị.” Đụng đến kinh sách Đông phương đầu óc cháu trở thành mù tối, bí cứng, không biết cách nào xoay xở. Thí dụ, cháu nghĩ bác biết bộ Kinh Thánh của Kytô giáo được phát xuất ở Trung Đông và đặc biệt nơi phần Tân Ước có những câu ngang ngược, kỳ cục; chẳng hạn, “Ai có tai thì nghe,” cháu đếm được tám lần (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Một câu ngờ nghệch như thế mà những tám lần được nhắc đi, nhắc lại nơi Phúc Âm nhất lãm. Đến khi vô tình đọc nơi cuốn nào chả biết, thuộc sách nhà Phật, hình như nơi kinh Kim Cang thì phải, lại gán nơi miệng Thích Ca câu, “Lời ta nói như chiếc bè,” và đồng thời cháu cũng phải ngỡ ngàng với câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.”
- Ai chả biết thế; chuyện đơn giản, bình thường như vậy đâu cần phải in vào kinh sách. Thế nhưng, khi đặt vấn đề tại sao phải dùng câu ngây thơ đó để nhắn nhủ, nó mới khơi ra ý định thâm trầm của câu nói. “Lời ta nói như chiếc bè, ngón tay ta không phải mặt trăng,” thách đố độc giả, hành giả tự mình tìm kiếm, theo dõi, chứ cái bè, ngón tay của ta, không phải là đích cho người đọc nhắm tới. Phúc Âm thì thâm trầm hơn, “Ai có tai thì nghe,” hiểu sao thì hiểu, biết được gì thì biết. Một hôm, chẳng hiểu sao cháu lại ngang ngang cò bứa đặt câu hỏi, tại sao lại nói “Ai có tai thì nghe;” chẳng lẽ có tai như không có tai, và cái tai có thể tự nó nghe được không? Mấy câu hỏi này cứ luẩn quẩn nơi tâm trí, và thế rồi cháu nghe tin đâu đó có người chết. Câu trả lời đến với cháu, tai hết nghe, và như vậy, tai chỉ là phương tiện cho cái gì nghe chẳng khác chi cái bút. Mình nói ai viết chứ không ai nói cái bút viết mặc dầu bút dùng để viết. Và từ nhận thức quá tầm thường này, cháu đặt vấn đề về cái gì dùng cái tai để nghe, cái đó liên hệ đến thân xác, cuộc đời cháu thế nào, cũng như hoạt động của cái đó ra sao, để rồi cháu chứng minh được một cộng một bằng ba. Ba là một và một cũng là ba, bất khả phân ly ngoại trừ chết.
- Một cộng một là ba nghĩa là sao?
- Thì cái hồn dùng cái tai để nghe, dùng cái mắt để nhìn, dùng cái miệng để nói, dùng bộ óc để truyền tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ.
- Anh không tin vào khoa học à?
- Các ông khoa học gia vẫn cứ vênh váo cho rằng tai nghe, miệng nói, mắt nhìn, óc suy nghĩ như mọi người, nhưng đã không thèm suy nghĩ; nên họ có biết cái hồn của họ là gì đâu. Bác thử nghĩ, các ông ấy nói óc suy nghĩ. Bộ óc thuộc về vật chất, mà vật chất thì không thể phát sinh tư tưởng, ý định, ước muốn. Nếu vật chất có thể suy nghĩ thì sao các ông ấy có thể ở trong nhà, hoặc coi chừng đêm đang ngủ bị hất tung ra khỏi giường. Thử hỏi, khi cái hồn rời khỏi cái xác, các ông ấy còn có thể, nghe, nói, nhìn, suy nghĩ được nữa không?
- Thế 1+1,
- Bình thường, ai chả biết 1+1=2; nhưng, bác thấy đó, nếu cái xác không, chỉ đem chôn; nếu chỉ hồn không, thì ai biết đấy là đâu. Tuy nhiên, khi hồn nhập vào xác lại phát sinh ra ước muốn, tham vọng, yêu thương, ham hố, tựu trung gọi là tâm trí. Như thế, một cộng một không ít nhất bằng ba thì bằng gì. Nó cũng chính là cái đạo âm dương nhất nguyên, hai nửa âm dương trong một vòng tròn, tăng trưởng đối nghịch nhưng không hề tách rời nhau, cũng chính là tâm điểm của dịch, của mọi sự biến chuyển. Cháu không ngờ, cái câu, “Ai có tai thì nghe,” lại thách đố người ta suy nghĩ, suy tư thâm trầm đến như thế. Chính lúc nãy khi bác phân tích, phân cốc “biết và hiểu” cháu mới nhận ra “Kẻ nói không biết” là thế nào, thì thấy nó lại liên hệ ám định với câu ca dao, “Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Người dân quê chân lấm tay bùn, suốt ngày mặt bán cho đất, lưng bán cho trời dưới ánh nắng gay gắt, thì sao có thể phát sinh câu nói đối nhau từng cặp chữ chát chúa như thế. Giả sử lúc này, bác hay cháu thấy con ba ba đầu ngòi thì chỉ một phản ứng ắt có và đủ, và đó là bắt chú ta về làm thịt, xào nấu uống rượu chứ hứng thú nào mà nghĩ đến người nói thế nọ, kẻ tuyên truyền thế kia. Có lần khi nghĩ tới câu này, cháu đặt mình vô trường hợp vô tình thấy chú ba ba nơi đầu ngòi nên giả sử phân tích phản ứng sẽ ra sao, chợt thấy hứng thú với ý nghĩ, “Đầu ngòi thấy con ba ba, bắt về làm thịt tha hồ nhậu chơi,”chẳng có giờ nào mà nói đến người này, kẻ kia chút nào. Cháu cũng là sinh viên, sinh hòn rồi chứ bộ mà chỉ có thể phản ứng như thế phương chi đối với dân quê thì sao. Đúng là “Kẻ nói không biết.”
- Vậy anh nghĩ thế nào về Tục Ngữ, Ca Dao?
- Cháu nhận thấy những câu Vè, Phong Dao, Thành Ngữ, Tục Ngữ, Ca Dao, phải là sản phẩm của các bậc trí giả, thức ngộ tuyệt vời từ ngàn xưa tức cảnh sinh tình nên hứng khởi cảm ứng viết thành những câu nói lồng trong thể thức thơ văn. Những câu này mangý nghĩa ám định nơi những trường hợp độc lập nào đó nên dễ nhớ, thuận miệng phát biểu nơi ngôn ngữ Việt, nên được truyền bá rộng rãi nơi dân chúng. Bác thử nghĩ, nơi một xó rừng, một hốc bà tó nào đó, có anh dân quê và chị lầng nhầng nào đó hợp ý, thuận tình lên tiếng đối đáp dưới ánh nắng gay gắt, mồ hôi nước mắt đầm đìa thì lấy gì mà ghi chép lại. sao có thể phổ biến, và năng lực cảm ứng nào có thể phát sinh những câu đối đáp hoặc câu vè tuyệt vời lại mang đầy sắc thái văn chương như vậy? Đúng là mấy ông học giả chứ không phải học thiệt, chẳng khác gì các nhà khoa học, khoa môi múa mép tầm bậy, thiếu nhận thức, nghiệm xét.
- Thật là thú vị, hèn chi anh học ban C. Thế sau này anh có theo ban Văn Khoa ở đại học không?
- Cháu ghi danh theo học hàm thụ bên Văn khoa trong thời gian đi nghĩa quân.
- Tại sao đi nghĩa quân trong khi anh có tú tài hai?
- Có gì đâu bác, vào năm 1972, cháu đã xong tú tài I, ngay cái mùa hè đỏ lửa đó, sĩ quan vừa tập tễnh ra đơn vị thì đã được phủ tấm cờ vàng kèm thêm danh hiệu “Tổ quốc ghi ơn,” cháu bị rơi vào lệnh động viên, lại muốn học cho xong tú tài II nên giấu biệt văn bằng, và bỏ nhà vô miền Vũng Tàu tham gia nghĩa quân vì có bà chị họ lập gia đình sinh sống ở đó. Thế rồi nhờ khả năng sinh ngữ, làm thêm công việc dịch công văn, giấy tờ từ Anh sang Việt nên cũng vương giả lại được ưu đãi thì đi sĩ quan làm chi cho mau được phủ cờ trở về. Đại khái cũng chỉ là sợ chết non mà thôi, nhưng đúng ra chẳng những sợ chết mà còn e bố mẹ cháu đau lòng. Và thế rồi đang dang dở năm thứ hai Văn khoa, 30 tháng tư ập tới nên giờ đang ở đây.
- Anh có thể minh chứng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của các bậc thức giả không.
- Khó gì đâu bác, cháu theo Văn khoa ban Hán Việt, tất nhiên phải học tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, thường được gọi là truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Trong vè có câu, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” đó là vế cuối của hai câu kết nơi truyện Kiều, “Thiện căn ở tại lòng ta; chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Thử hỏi bác, là dân quê, không biết ngay cả ký cái tên của mình thì làm sao biết được thế nào là chữ tâm, thế nào là chữ tài. Hơn nữa, câu nói ám định về tâm thức so sánh với khả năng học vấn, tài năng, thì ngoài công việc đồng áng, cuốc đất vạt khoai, khai mương, xẻ rãnh, sao có cơ hội dầu chỉ nghĩ tới tài, phương chi tâm. Thế mà một số nhà học giả, học thiệt, dám cả gan cho rằng những câu nói thuận miệng, mang đầy tính chất bình dân, văn vẻ ấy là sản phẩm của những người không biết chữ nhất bẻ đôi là gì thì có bực sôi máu lên không. Đúng là trí thức với trí ngủ, chán mớ đời, tôi thở dài. Bác có nhớ đã một thời giai thoại “Chicken soup” không?
- Tôi biết chứ, tôi biết luôn cả gốc gác và biến thể của bài thơ “Hà Nội Tức Cảnh” của thi sĩ Dương Khuê nữa. Số là Dương Khuê, tiến sĩ, làm quan thời nhà Nguyễn. Bài thơ của ông ấy được viết là,
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Tiếng chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”
Ở Hà Nội có ngõ Thọ Xương và làng Thọ Khương. Nhưng nơi Huế lại có chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương và làng Thọ Xương nơi bờ bên kia. Thế rồi sau này trên báo Nam Phong lại có mấy câu thơ,
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”
- Nói cho đúng, tôi cũng đồng ý với nhận định của anh, Tục Ngữ, Ca Dao gốc gác là những lời văn thơ của các bậc thức giả được truyền bá trong dân gian đôi khi bị hay được chuyển dịch hay đổi chữ, hoặc danh địa cho hợp với địa phương hay ý nghĩa ám định nào đó. Chẳng hạn câu tục ngữ, “Dâu ông ném tằm bà,” câu nói chỉ về sự bày tỏ ý tình lại bị nói thành, “Râu ông cắm cằm bà,” mang nghĩa tréo ngoe nơi cuộc sống. Tìm hiểu và thâm trầm nhận định chín chắn, chúng ta mới thấy đặc tính linh hoạt, sắc sảo, cũng như sức sống lạ kỳ nơi giòng giống dân Việt. Đọc lịch sử anh nhận biết, từ bao đời trước, Trung Hoa xâm chiếm mấy lần tổng cộng hơn kém 1008 năm đô hộ và cố đồng hóa dân Việt nhưng kết quả thế nào? Thời kỳ đô hộ dài nhất là hơn 700 năm, từ năm 111 trước Công nguyên tới năm 602 sau Công nguyên, họ có đồng hóa được mình không hay lại bị mình đồng hóa ngược lại nơi văn học. Mình đọc được chữ Hán Nho của họ, họ có đọc và hiểu chữ Nôm của mình không. Anh thấy rõ, tiếng Việt của mình bây giờ, mấy dân tộc láng giềng mơ tưởng và cố gắng bỏ công sức suy nghĩ kiếm cách nọ, kiểu kia, hầu thay thế chữ lăng quăng khó sử dụng, rườm rà ngô khoai, phát âm chồng chéo, bằng chữ Latinh mà có được đâu. Thử hỏi, nếu anh sống ở Trung Hoa, Đại Hàn, Đài Loan, Nhật Bản, hay Lào, Căm Bốt, Thái Lan, biết được tiếng nói của họ thì phải bao lâu mới viết được? Trong khi tiếng Việt mình, nếu đã biết nói, tôi bảo đảm với anh, chỉ nội tối đa hai tuần, mỗi tuần 10 tiếng học đánh vần, ghép chữ, là có thể đọc truyện, đọc sách ngôn ngữ Việt được. Nhưng, đất có tuần; dân có vận; không biết Trời định cho dân Việt mình rơi vào vận hạn này những bao lâu nữa; tiếng than hòa lẫn mồ hôi, nước mắt bốc hơi vượt quá cả ngàn tầng trời, nào biết sao hơn. Anh chưa nhận rõ thao thức nơi anh, nhưng tôi nhận biết qua gần hai năm dẫu vô tình theo dõi. Đâu phải vô lý mà tôi rủ anh về đây; tất nhiên, anh cũng biết ý định của tôi là không tự nhiên rước anh về làm của nợ đâu. Nhưng mệnh trời, đành chấp nhận đánh bạc với ông Xanh theo bước chân của tiền nhân dân Việt. Còn thành quả ra sao, tôi không dám nghĩ tới, chỉ biết làm những gì mình cho là phải và trong tầm tay với mà thôi. Có điều, tôi thành thật yêu cầu anh kiên nhẫn, chịu đựng trong thời gian đọc sách ít hôm. Mình sẽ nói chuyện sau. Thôi, cũng đã muộn rồi, chúng ta đi nghỉ.
Kinh Viên Giác, Kim Cang Đại Định, hai cuốn này thuộc Kim Cang Đại Thừa. Có lẽ hai tác giả không biết “Kiến tính thành phật” nên còn giải thích, giải nghĩa, đảnh lễ, phải tu hạnh, phải lắm thứ, nào chứng, nào đắc. Thế là quên luôn cái duyên. Thử hỏi, nhận thức không thể học, chẳng thể dạy, không thể cầu, thì nếu không có duyên lại càng luẩn quẩn vô minh. Nếu cứ theo pháp mà hành thì sao mà định. Thế rồi, ngay đầu sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Duy Cần trích lời Dịch Kinh, “Sách không hết lời, lời không hếtý,” và thêm một đoạn của Trang Tử, “Có nơm là vì cá; đặng cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ; đặng thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý; đặng ý hãy quên lời. Ta tìm đâu đặng người biết quên lời, hầu cùng nhau đàm luận.” Đã “Đặng ý hãy quên lời,” mà cụ ND Cần còn giải thích, giải nghĩa chi cho mệt. Dịch hay diệt thì cứ để độc giả tự nhiên quên lời dẫu đặng ý hay không. Xem ra, cái duyên của nhà Phật không còn chỗ đứng. Vì nếu cứ cố gắng tu tập mà có thể kiến tính thì đâu cần duyên. Đàng khác, nếu đã “Kiến tính thành phật” rồi thì đâu cần các pháp của Viên Giác hay Kim Cang cho dù đại định hay tiểu định, Đại thừa, hay Tiểu thừa.
Tôi tự hỏi, vậy họ viết để làm gì. Theo Lão Tử, “Trong khi Khổng thì người trị nước phải hành theo đạo hữu vi, nghĩa là chữ Lễ, tác Nhạc và ‘làm’ rất nhiều… còn bậc trị nước theo Lão, trái lại, càng ‘làm ít’ càng hay, và ‘không làm gì cả’ lại càng tốt hơn. Là vì, theo Lão, việc đời đa đoan, việc người mà rối rắm chẳng phải vì những việc người ta đã lo cho đời quá ít, mà chính vì những việc mà người ta đã lo cho đời quá nhiều” (Lão Tử Tinh Hoa; ND Cần; Tr. 62-63). Bậc trị nước là chính tôi với cuộc sống, với những tập luyện, mới mơ ước, tham vọng; chẳng khác gì kẻ đứng giữa ngã ba, ngã bốn, ngã năm, nào Phật, nào Ấn, nào Lão, lại còn cái gốc Phúc Âm nơi mình nữa. Ối giào! Nào kinh Viên Giác, kinh Kim Cang, kinh Đại Niết Bàn, kinh Lăng Già Tâm Ấn, kinh Nam Hoa, Đạo Đức kinh, Kinh Thánh, kinh Badgavad Gìta… muôn thứ kinh; kinh nào cũng tuyệt vời; kinh nào cũng giúp con người thăng tiến. Lại còn mấy cuốn Đông Phương Huyền Bí, Xứ Phật Huyền Bí, Ai Cập Huyền Bí, Tây Tạng Huyền Bí; rồi mật tông, đường tông, thêm cả ba trang ghi danh sách biên khảo nơi tập bản thảo; coi chừng, “Lắm thày nhiều ma; đông cha con khó lấy chồng” thì chỉ khổ thêm, chỉ càng rối rắm như rợ vô rừng, hay đâu, tốt đâu chẳng thấy, lỡ thành nồi cám heo thì phiền.
Suy đi, tính lại, nghĩ tới, nghĩ lui, so sánh thiệt hơn, cuối cùng tôi quyết định thử sự đơn giản nhất, “Kiến Tính thành phật,” yếu chỉ của Huệ Năng. Lục tổ Huệ Năng không biết dù ngay cả chữ ký tên của mình mà có thể là lục tổ. Thế thì sao ngài có thể đọc bất cứ sách vở nào, bỗng hốt nhiên chứng ngộ khi nghe được câu, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Kiến tính chỉ cần ưng vô sở trụ; hèn chi nhà Lão, càng làm ít càng tốt, càng không làm gì lại càng tốt hơn. Ha ha… ít nhất, tôi đã nhận ra được hai nhà Phật và Lão đồng quan điểm. Vậy còn nhà Ấn, và Kinh Thánh thì sao? Chúa của tôi đâu khác chi Brahma nơi Ấn. Các nhà Đông phương gọi linh hồn là Thượng Đế nội tại thì cũng đồng nhận thức với Atman, Thượng Đế hành động, hoạt động nơi mỗi người. Tính của nhà Phật, Tào nơi nhà Lão, Thiên Chúa của Kinh Thánh, Brahma bên Ấn học, cũng chỉ là một nơi mình mà cụ Nguyễn Duy Cần gọi “Thực Tại Siêu Việt” ở mỗi người.
Những cuốn sách tuyệt vời đến độ không thể nào áp dụng những sự việc được trình bày nơi tâm não. Thì sách nào không tuyệt vời bởi do tâm huyết của tác giả nặn trí, bóp óc viết ra, dẫu chỉ là phóng tác, tưởng tượng. Ah, hèn chi nhà Lão khuyên, “Càng làm ít càng tốt, càng không làm gì lại càng tốt hơn.” Thế sao lục tổ Huệ Năng lại bảo phải kiến tính? Cái sự “làm” nơi nhà Lão chỉ về những động tác hữu vi; trong khi “kiến” của tổ Huệ Năng là tâm tưởng nhận biết, tìm tòi. Chao ôi, mỗi đấng mỗi kiểu, mỗi thày mỗi hay, khiến cho kẻ lần mò lạc lối. Lúc thì cái tâm như hoang ngựa, khi thì đồng bản thể với Chân Như, nào quán tưởng, nào ma chướng, nào pháp, nào định, nào hành tỏi, nào thiền tông, mật với đường, rối tung lên. Câu thơ nào đó của Trần Tế Xương nổi lên ỡm ờ trong tâm trí, “Biết thế ngày xưa đi làm quách; chẳng ký không thông cũng cậu bồi.” “Cái học nhà Nho” của Tú Xương thời ấy “đã hỏng rồi,” vậy cái đọc sách của tôi sẽ đi tới đâu? Càng đọc càng rối, càng chẳng biết phải thế nào, phải suy nghĩ làm sao.
“Kiến Tính” chính là nhận thức mà nhận thức không thể cầu, chỉ có thể ngộ. Vậy ngộ làm sao nếu chẳng có duyên, há không làm chi chờ ngộ tới, ngộ mà không tới, hỏng một đời. Hừ, học võ không luyện tập sao biết đánh; đánh võ vô quyền múa huênh hoang! Muốn kiến tính, muốn nhận thức phải suy nghĩ, không suy nghĩ sao có thể ngộ. Cơ hội chỉ tới với những ai kiên trì nỗ lực trong những điều kiện mình đang cố gắng theo đuổi. Tôi đang theo đuổi gì, đã sẵn có những gì nơi bản thân? Thì ít nhất gần đệ tứ đẳng huyền đai, tiếp tục luyện võ thăng cấp rồi sẽ tính; tôi tự nhủ. Hơn nữa, còn ít sách nên đọc may ra biết thêm được gì.
Cuốn Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh có “Sơ đồ chuyển pháp luân ‘Hườn Tinh Bổ Não,’” đâu thể so sánh với chuyển vận khí huyết lúc chạy của tôi. Vận chuyển khí huyết bao gồm ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Ah, không là hành thiền thì là thứ chỉ. Không, không thiền, vì thiền thuộc về tâm tưởng, tôi thực hành pháp luân; có điều tôi dẫn khí thuận chiều đốc mạch, chưa bao giờ thực hành nghịch chiều nhâm mạch. Phỏng thử vận hành dẫn khí nghịch chiều khi chạy có hậu quả tai hại chi không, tôi thầm hỏi, và quyết định thử, bởi cùng lắm, nếu đau lưng, mỏi cổ tôi đã có cách giải, “Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở, từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông” (MBVN; Tr. 230).