← Quay lại trang sách

- 7 -

Cái bản thảo với ba trang ghi chú tên sách được trích dẫn khiến tâm trí tôi bàng hoàng từng chập trong khi đọc. Dẫu diễn tiến câu truyện đầy mường tưởng (fiction) nhưng lại dùng những trích dẫn thực dụng nơi diễn trình suy nghĩ, suy tư để hướng dẫn độc giả thực tập, áp dụng nghiệm chứng, thực chứng, nghiệm xét, nơi hành trình nhận thức. Bản thảo xào xáo và thách đố tâm trí độc giả vật lộn với những công án, những thực nghiệm suy tư, suy nghĩ, phân định, đồng thời thách đố độc giả tự nghiệm chứng, nghiệm xét diễn tiến phản hồi nơi tâm trí hầu nhận biết diễn biến đang xảy ra nơi hành trình suy nghĩ của mình. Tôi hiểu được, chính sự phản hồi này nơi tâm trí được Huệ Năng gọi là kiến, nhận biết diễn biến trong diễn trình nhận thức “Tính,” cũng như khai phá tâm tư để giải đáp công án “Tôi là ai,” hầu nhận thức thực thể thực sự của mình là gì. Tác giả cũng có lý khi dùng ngôn ngữ và lý lẽ khi đặt vô miệng những tay bán trời không văn tự lúc rượu bia ngà ngà, nói năng bất chấp ngôn từ, thứ tự, luật lệ trên dưới, hoặc tôn ty trật tự. Ưng là nói, nói lấy được, không cần biết đến ai nghe hay không, chọc chạch, bới móc bất cứ gì, từ quan niệm, luân lý, nghi thức đạo đức, thờ phượng cho tới ý đồ cố ẩn dấu vô tình lỡ miệng bị phanh phui, hay bị gán ép với mục đích nào đó, nửa đùa, nửa thật trong lúc say xỉn. Nếu không để ý đến những lời ngang ngược, bất thường, được trích dẫn từ sách nào đó, mà đọc như đọc truyện, tập bản thảo chẳng khác gì sự diễn tả nồi cám heo, muôn thực phẩm thừa, người ăn chẳng hết, nhào nháo quăng vào và khuấy lên đổ vào máng. Dẫu theo đạo Công giáo, nhưng tôi giật mình vì câu nói, “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ” được trích từ Lâm Tế Lục; “không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Ah, nào khác gì thánh Phao lô khuyên nhủ, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3). Tại sao nhà Phật thì “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” trong khi Phao lô lại khuyên, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã,” mà lại còn“theo đức Kitô?” Dĩ nhiên, là người Công giáo, lại theo học trong chủng viện mấy lời Kinh Thánh nơi Tân Ước đương nhiên đã trở thành nền tảng đối chiếu nơi tâm trí. Nghĩ như thế, tôi lại tự hỏi, theo thánh Phaolô, “Theo đức Kitô” mang nghĩa gì, áp dụng thế nào trong suy nghĩ, suy tư nếu “Đừng để ai đánh bã?” Theo nhà Phật, dẫu cố ép mình giảm bớt tham sân si để được giải thoát, và dẫu muốn tạo phước để cầu giải thoát thì vẫn còn bị ràng buộc bởi chính ý định muốn được giải thoát. Kiến có nghĩa nhìn thấy, nhưng nơi văn tự hay ngôn từ nhà Phật, kiến tức là nhận ra, nhận thực được. Kiến tính thành phật là nhận thực ra tâm Phật đã ở nơi mọi người. Tính là Chân Như, Thượng Đế nội tại. Ah, đức Kitô cũng là Thiên Chúa nội tại, Atman, Đại Ngã nội tại, Thần Khí, Thánh Thần nơi câu, “Thân mình, thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em” (1Cor, 4:19). Theo đức Kitô là tự nghiệm, tự suy nghĩ mà thôi. Tuy nhiên, tôi tự hỏi, nếu tùy thuộc duyên sao lại đặt vấn đề kiến tính? Nếu có “Tính” để kiến mắc mớ chi nói đến duyên. Nếu duyên hội hợp tự nó vô chừng không lệ thuộc ý thức con người sao phải kiến tính bởi “Tính” đâu tùy thuộc duyên. Nhà Phật có tâm hay tính cũng là Chân Như nơi mỗi người, tại sao còn bày ra lý thuyết nhân duyên. Thân xác chỉ là hội hợp của tứ đại, chẳng lẽ duyên là cơ hội hay trường hợp của tâm tùy duyên hòa cùng tứ đại. Vậy định luật, sự sắp xếp nào để duyên tuân theo khiến ai cũng có hai mắt, một mũi, một miệng, hai tai đầy đặn đúng phương vị, muôn thứ, loài nào giống ấy, ngay cả cây cỏ, hoa lá. Phật học phát sinh từ Ấn Độ nên có lẽ lý thuyết phần tâm linh con người bắt nguồn từ Ấn học do đó lý thuyết tâm Chân Như chỉ khác tên và lối trình bày như nơi bản thảo được viết, “Như vậy, con người, các vật chung quanh, không khí, cây cối, là hiện thể của Chân Như, Quyền Lực Hiện Hữu… Tu chứng là hành trình đạt đến nhận thức này. Kiến tính là thời điểm thực sự đạt đến trạng thái này. Bởi thế, Phật học quan niệm mình không phải là mình mà chính là Chân Như hiện thể trong diễn trình biến chuyển. Nói cách khác, tất cả mọi sự, mọi vật, mọi ý niệm, ước muốn, toan tính, chỉ là những biến chuyển của Quyền Lực Hiện Hữu liên tục.” Như thế, “Cái Tâm,” “Cái Tính,” nào khác gì linh hồn, Thượng Đế nội tại, Atman. Nơi Lão học, “Tào như nước,” “Thượng thiện nhược thủy,” động từ của nó là gì? Bực thật, không biết chữ Nho, chẳng hiểu luật chữ Hán, Nhưng thử đặt mình trong câu văn, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.” Nếu đặt mình nơi vị thế thánh nhân nơi hành trình kiến tính, thì vạn vật là tất cả những mơ ước, tham vọng, ý nghĩ, giận, yêu, thương, ghét; bởi, “Thị dĩ thánh nhơn, xử vô vi chi sự; hành bất ngôn chi giáo, vạn vật tác yên nhi bất từ, sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành bất cư, phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.” “Vậy nên thánh nhân dùng vô vi mà xử sự, dùng bất ngôn mà dạy dỗ để cho vạn vật nên mà không cầu, sống mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công, thành công mà không ở lại, vì bởi không ở lại nên không bị bỏ đi.”Đây chính là diễn trình kiến tính. Tính, Tào, đã sẵn nơi mình, nhận biết, nhận thức, suy tưởng thì không “vô vi mà xử sự” thì là gì. Ối giào, dịch với diệt, luận với bình, lọ với chai! Thế tư tưởng, tham vọng, cái dục, ở đâu mà có? Bộ óc thuộc vật chất không thể nào kiến tạo hay phát sinh tư tưởng. Vậy bản năng, khả năng chốn nào dựa dẫm. Một khi linh hồn thoát ra khỏi xác được gọi là chết thì mọi hoạt động hữu vi, nhân sinh, và khả năng bản năng cũng như suy tưởng, suy tư, hoàn toàn mất hết. Như vậy, bản năng, tâm trí đều phát xuất, lệ thuộc linh hồn, cái tâm, cái tính, cái thượng đế nội tại. Đánh võ lệ thuộc phản ứng do tập luyện cộng với nhận định phát sinh quyết định phản ứng. Cái ý phát sinh từ linh hồn; ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Gốc của mọi hoạt động, ước muốn, ý nghĩ, tham vọng đều do linh hồn, cái tính, cái tâm, chủ động. Yoga, dùng cái ý, định tâm, dẫn hơi thở đào luyện thân xác thì cũng chính là ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông kinh mạch. Nhà Phật chỉ “Kiến Tính,” nhận biết, đối diện để nhận thức cái tính, cái linh hồn. Kiến tính cần định tâm. Hành thiền, tâm trí dồn về một mối suy tư trong khi làm việc. Nhà Ấn, mật tông Tây Tạng, mật tông Ấn, quán tưởng, dùng ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông kinh mạch phát sinh lắm chuyện. Phỏng đây là cách luyện tập nội lực? Thế tôi vừa chạy vừa dùng ý định vận chuyển hơi thở theo đốc mạch thì sao? Chạy và dùng tâm ý chuyển vận khí theo kinh mạch là áp dụng hành thiền, lúc nấu ăn hay trong khi ăn cũng hành thiển, trước khi ngủ cũng để tâm vận khí theo đường đốc mạch, nhưng không biết trong lúc ngủ có vận khí được chăng. Thực hiện như thế, bởi luôn luôn để tâm chuyển vận khí, tôi thực hành định tâm luôn luôn nên không để ý đến những chuyện xung quanh dẫu mắt vẫn nhìn thấy, tai vẫn nghe. Cũng phải cảm ơn tác giả bản thảo đã bày ra hay có chủ đích mượn cớ rượu bia say sưa cho thành viên nhóm nhậu phát biểu những điều khó nói, đôi khi bị coi như lãng nhách nhưng lại là những vấn đề then chốt cho hành giả thực tập hành thiền. Ít nhất, tôi đã nghiệm được định tâm trong khi các sách vở chỉ nhắc đến hay nói lên sự quan trọng của định tâm mà chẳng bao giờ đưa ra được phương pháp thực hành. Chẳng hạn, lục tổ Huệ Năng nêu lên, “Kiến Tính” với lý do, “Ngồi nhiều sinh bệnh;” Đạt Ma sư tổ phát minh Dịch Cân kinh, sau này Thiếu Lâm sửa đổi, bổ túc để có Thiếu Lâm Dịch Cân kinh, nhưng lại bị bó buộc nơi những thế tập luyện, vẫn không giải thích tại sao hay chứng minh sự phát triển, khai triển, các thế luyện tập đó tiến triển ra sao, chẳng khác gì các giáo điều nơi tôn giáo. Cả thời niên thiếu của tôi được hướng dẫn và dưỡng dục với những giáo điều tôn giáo, cứ như từ trời rơi xuống. Đọc sách vở, truyện hay biên khảo cũng thế, sách vở chỉ nói lên cái nhìn phiếm diện, rồi giỏi lắm thì trình bày một cách khách quan tâm tình của tác giả chứ không đào sâu, hoặc nói gì về hiện trạng của thực thể vấn đề, giúp độc giả một cách nào đó liên tưởng hoặc nhận biết thực trạng cảm nhận, hay diễn tiến nơi lòng mình, hầu nhận biết phản ứng nội tâm của mình ra sao. Thí dụ nơi sách Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh, phần “Cách Luyện Chưởng Phong,” lời khuyên được viết, “Làm lập đi lập lại như trên nhiều lần khi mỏi thì đổi tập tay trái.” Thử hỏi những cử điệu, thế luyện chưởng như vậy không có ý định, chuyển vận năng lực nơi thế đánh, nào khác chi một người máy đánh võ; và nếu để một người máy đánh chưởng như thế liên tục cả ngàn năm phỏng có phóng được chưởng nào khiến tắt nến được không? Ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Ý dẫn khí; khí dẫn năng lực phát huy thành chưởng phong. Tôi không luyện “Bàn Tay Xuyên Chuối” và chưởng phong vì lý do riêng nên miễn bàn sự diễn tiến, thành quả phát triển của chúng, nên chỉ dám nói đến sự quan trọng thiết yếu, hay ắt có và đủ chính là định tâm, dồn tâm ý dẫn khí nơi hành động thì mới đem lại kết quả tiến triển. Ai thực hành, sẽ biết. Từ sự nhận thức về định tâm nơi hành thiền, tôi nhận ra sự thiếu sót của mình, hay của bất cứ ai, khi đọc sách đạo học, nói cách khác, đọc các kinh sách căn bản của tôn giáo. Ít nhất, suốt hơn kém mười năm, đầu óc tôi bị ray rứt, khốn khổ với câu Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37). Tôi rất thương bố mẹ tôi; bởi chẳng những được bố mẹ ưu ái, cưng chiều. Cũng chỉ vì ốm yếu, mẹ tôi đã phải tiêu pha tiền để thuê thày dạy võ cho tôi dẫu gia đình tôi không khá giả gì, hầu tôi khỏi bị trẻ ở nhà trường bắt nạt. Mỗi khi nghĩ về lòng thương, lòng ưu ái của bố mẹ, tôi muốn khóc vì cảm nhận tình của bố mẹ đối với mình, với anh chị em tôi. Làm sao tôi có thể chấp nhận kính mến Chúa hơn yêu thương bố mẹ. Nơi nhà trường, các thày cô dạy giáo lý giảng dạy về lòng kính mến Chúa, hết lòng hết sức, thì cũng chẳng khác gì lặp lại những thành ngữ, phát biểu giống như như những chiếc máy thâu băng, phét lác. Thực tế chứng minh, họ dùng tiền lo cho con cái họ hơn là đóng góp cho nhà thờ, mua sắm, nuôi nấng con cái họ hơn tiền cho nhà thờ trong khi hùng hồn giảng thuyết về tin, về kính mến Chúa nơi những giờ giáo lý. Đồng thời tôi cũng dược dạy dỗ rằng, Phúc Âm là lời của Chúa. Lời của Chúa là lời hằng sống, lời để mà sống, để thực hiện, thực hành trong cuộc đời, theo quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục thay đổi, biến chuyển theo thời điểm khác biệt. Nơi tòa giảng, các linh mục cũng lặp đi lặp lại phải kính mến, thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, trên hết ngay cả gia đình, bố mẹ, anh chị em, phải hy sinh vì Chúa, lại phải yêu thương người khác như chính mình. Nói thực lòng, tôi yêu thương bố mẹ tôi vì tôi cảm nhận được lòng của bố mẹ tôi đối với tôi; chứ đối với anh chị em tôi, sao tôi có thể yêu thương họ như chính tôi, phương chi người ngoài. Cha thì quyền năng, nhưng không phải vất vả làm lụng như những người khác nên khuyên dạy phải đi lễ, đi nhà thờ, phải thế nọ, phải thế kia, phải tin vào Chúa dẫu chẳng biết Chúa là gì, phải sống tốt lành kẻo mất linh hồn cho dù không biết linh hồn của mình là chi, thế nào, nhưng chỉ sợ bị phạt. Chúa gì mà kỳ cục, tôi nghĩ. Đôi khi làm điều gì không nên, bố mẹ tôi chỉ răn dạy, đâu có đánh tôi. Thật khó cho tôi hiểu bị xuống hỏa ngục đời đời là thế nào, chỉ được dạy rằng kinh khiếp lắm, nào lửa sinh, lửa diêm, thiêu đốt liên lỉ. Lớn dần, tôi cảm nhận được lòng yêu thương của bố mẹ tôi bao nhiêu thì tôi lại thấy sự kính mến đối với Thiên Chúa mờ nhạt bấy nhiêu. Đọc Phúc Âm, đọc lời Chúa thì cứ cảm thấy vô lý, kỳ cục. Đang nói chuyện nọ lại xọ sang chuyện kia không thể sao hiểu nổi. Dẫu theo học nơi chủng viện, nhưng sao lời Chúa đối với tôi chỉ giống như những lời dạy cách ăn ở sao cho thuận với luân lý, đạo đức nơi nhà thờ. Các cha giảng thì cũng phân tích, giãi bày Phúc Âm theo lối sống được cho là tốt lành, được chấp nhận đứng đắn nơi xã hội. Tuy nhiên, tôi có cảm nghĩ mình bị coi là có lối sống hư hỏng, hoặc các cha đang dạy cho mình biết những điều chẳng ra gì. Kính mến Chúa là kính thế nào, phải làm sao, phải đi nhà thờ, phải đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện thế nào, được gì, không biết, không hiểu. Có lời giải thích, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Không biết Chúa là gì, mông lung, cứ bày tỏ hy vọng, ước muốn rồi tưởng tượng được nghe, được nhận lời dù có được chuyện gì xảy ra hay không. Cầu thì cầu, chỉ nghe hay đọc nơi sách vở thấy ai được ơn nọ, phúc kia, chứ tôi thì không; Chúa có bao giờ nghe lời tôi cầu đâu; Ngài chưa làm cho tôi bất cứ chuyện gì. Bảo rằng Chúa ban cho gia đình tôi thuận hòa, an bình. Nếu bố mẹ tôi không chịu khó, làm lụng cực khổ để có cơm ăn áo mặc thì sao có thuận hòa, sao có an bình. Tôi thấy, cầu thì cầu, cầu cho an bình tâm tưởng, cầu để có hy vọng theo đuổi mà thôi. Dĩ nhiên, tôi chăm học cho đẹp lòng bố mẹ bởi chẳng biết cách nào làm hài lòng bố mẹ hơn. Hơn nữa, học giỏi nơi chủng viện được các cha giáo cưng chiều, khen thưởng nên tôi thấy mình tốt lành, sáng giá, thích học, và càng cố gắng học hơn. Ai không thế, nếu mình khá về môn học nào thì thích ông thày ấy và lại chăm chỉ học môn ấy. Nơi chủng viện đa số theo học ban C, tôi lại thích đọc sách. Đọc sách biết thêm nhiều thứ mới, lại thăng tiến khả năng sinh ngữ. Hơn nữa, nơi thư việc của chủng viện, đa số sách được viết về Phúc Âm, về giáo lý Công giáo nhưng không có được sách nào thực tiễn minh chứng con người có linh hồn, minh chứng về Thiên Chúa để mình có thể rờ thấy được, chỉ tin, tin, và tin, chẳng khác gì huyền thoại khiến tôi cứ ấm ức, làm thế nào, phải thực hành những gì để có thể kính mến Chúa hơn yêu cha mẹ. Lòng thì luôn luôn ấm ức bởi không biết cách nào để thực hiện kính mến Chúa hết lòng hết sức, hơn cả yêu cha mẹ, ngoại trừ sống tốt lành, siêng năng đi lễ, đi nhà thờ. Sách tây, sách ta đọc được thì chẳng có gì hơn lời các cha giảng về luân lý, đạo đức nhân sinh. Lớn dần, tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thêm phần tiến triển, tôi tìm đọc sách ngoại quốc, thuộc các loại triết lý, tư tưởng mới; biết thì biết, hiểu thì hiểu nhưng tất cả, chẳng ăn nhập gì tới cuộc sống của mình, có chăng chỉ đem lại cho tôi cảm nghĩ mình biết nhiều thứ nên đôi khi nói chuyện, những tư tưởng, lý thuyết nào đó ăn nhập sâu nơi tâm trí vô tình thoát khỏi cửa miệng, đối nghịch hoặc phá ngang quan niệm hay luân lý nơi giới hạn cuộc sống bình thường, có người đã cho rằng tôi có óc bùn. Cho tới thời gian đọc một số sách đạo học, đặc biệt nơi cuốn thứ nhất của bộ, Life and Teaching of the Masters of the Far East, khi đọc tới phần những con nhệch mới lớn đã tự bơi về nguyên quán của bố mẹ chúng, tôi chợt tỉnh, những gì được viết nơi sách vở là để khêu gợi nơi tâm trí tôi sự nhận thức, nhận biết điều gì đó tác giả không viết ra. Từ đó tôi kiếm những sách viết về Phật, Lão, Ấn, Điểm Đạo Ai Cập, mật tông Tây Tạng, mật tông Ấn v.v… Thực ra, đọc thì đọc kể như đọc để biết, để thỏa mãn biết thêm, nhưng cứ thấy ngang ngang thế nào ấy. Đến khi đọc tới bản thảo, gặp mấy lời ăn nói bán trời không văn tự, tôi mới nghiệm được nên đọc và suy nghĩ thế nào.