← Quay lại trang sách

- 8 -

Không sợ xấu hổ vì sự dốt nát của mình, nói cho đúng, đã bao năm, tôi đã không biết cách đọc sách nên đã bị ấm ức với câu Phúc Âm nghịch thường, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta.” Thực ra, nếu bất cứ ai vẫn chưa biết cách nào áp dụng câu này nơi cuộc sống, có lẽ cũng chỉ dốt như tôi mà thôi; điều này có nghĩa, đã tiêu phí thời gian, tiêu phí mạng sống một cách ngu dốt như tôi để có cảm tưởng mình biết nhiều, hiểu lắm trong khi bị tác giả khinh bỉ từ bao năm trước, ít nhất hơn kém hai ngàn năm. Xin đừng vội cho tôi là nói ngoa; bởi có câu nói, “Một trăm năm sau khi chết cái hạnh phúc nhất cho bậc vĩ nhân là có được nhiều kẻ thù” (Stendhal; CCCTN. Tr. 390). Họ thuộc về bậc vĩ nhân vì họ nói lên cái dốt của mình nhưng chính mình đã chẳng nghĩ tới.

Nói có sách, mách có chứng; đã biết bao lần nghe được câu, “Ai có tai thì nghe,” hoặc, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng,” hay, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” tôi đã chẳng hiểu chi, không biết cách nào áp dụng những câu này nơi cuộc sống. Không nói chi xa vời, tôi tin, tôi nghĩ, tôi cho rằng mình có linh hồn, thử hỏi, linh hồn là gì, thế nào đối với một người? Nó hình dáng ra sao, mầu gì, liên hệ với thân xác và cuộc đời một người thế nào. Tin rằng mình có linh hồn nhưng không biết nó, không cảm nhận được nó thì tin có nghĩa gì?

Đọc sách lại càng tệ hại hơn bởi nếu tin vào sách thà đừng đọc sách, “Tận tín ư thư bất như vô thư,” (Mạnh Tử). Đọc sách mà không suy nghĩ từng câu xem phản ứng hoặc diễn trình tâm tưởng của mình như thế nào đối với câu đó, hợp hay không hợp, áp dụng vào cuộc sống thế nào, thì thà đừng đọc, chỉ giết thời giờ, giết cuộc đời mình một cách vô ích. Đọc để kiếm niềm vui, kiếm nụ cười, người đọc là kẻ đáng thương; không biết sống để làm gì; có thể nói, đọc mà không suy nghĩ, không nghiệm chứng để sao có thể áp dụng, thăng tiến nhận thức của mình chỉ là cách tự tử từ từ, thật uổng phí cuộc đời.

Tôi cảm thấy tiếc cho quãng đời son trẻ vì đã đọc sách chỉ để lấy kiến thức, không suy nghĩ, không kiếm cách áp dụng vào đời mình những điều nên, đáng học theo. Lý do cũng bởi nghĩ rằng, cho rằng mình hiểu, biết câu đó nói gì, nhưng thực ra chỉ hiểu phiếm diện theo nghĩa từ chương, hữu vi. Thí dụ, “Ai có tai thì nghe.” Tôi đã bị bật ngửa sau khi thực sự trả lời câu hỏi “Tôi là ai” trên giấy trắng mực đen bằng cách chia tờ giấy làm hai phần trái phải, với thực tâm, chân thành, một bên ghi xuống những sự tôi nghĩ, đã làm, tốt lành thánh thiện, và bên kia những gì không nên không phải tôi đã thực hiện. Ai không nghĩ mình biết rõ về chính mình, nhưng, bé cái lầm, mình mới thực sự lừa đảo mình hơn ai hết; mình không thực sự dám đối diện với chính mình. Vị nào bày ra câu hỏi “Tôi là ai,” có lẽ cười, bỡn cợt tôi đến trẹo quai hàm đã bao năm trước.

Có lẽ, tâm hồn tôi đã bị tôn giáo mê hoặc quá nặng; nói rằng mê hoặc thì cũng phần nào oan cho tôn giáo; mà nói rằng tại tôi quen thói ỷ lại chấp nhận những giáo điều được dạy dỗ như trong hệ thống gia đình thì cũng không sai. Tôn giáo nào không quảng bá những thánh nọ thần kia phù trợ, giúp sức, nên cầu khẩn, tin tưởng nơi họ đến nỗi in trí. Ngược lại, nếu tôi nhớ không lầm thì có câu kinh nào đó, “Chớ trông cậy quá lẽ kẻo khi sa ngã chẳng trở lại cho kíp.” Thế nên khi đọc bản thảo tới câu, “Ý định cứu giúp người, giải thoát người khỏi những lo âu phiền não vẫn chỉ là dục. Mà đã là bồ tát thì hoàn toàn đã diệt dục theo lý thuyết nhà Phật, sao còn có thể giúp ai giải thoát. Vì vậy, nếu nói rằng đức Thích Ca vì thấy con người trầm luân khốn khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, mà kiếm đường giải thoát cho họ, quả là sự bôi nhọ lớn lao tới danh phận của ngài; vì còn muốn giải thoát chính mình hay giải thoát cho người vẫn còn là dục,” tôi giật mình vì lý luận đơn sơ nhưng vững chắc của tác giả. Thế ra, bao lâu nay, niềm tin, sự tin tưởng của bao người đã rơi vào khoảng không, đã bị những thành phần thiếu suy nghĩ, nghiệm xét, lừa đảo. Suy nghĩ cho cùng, thực ra, họ không có ý lừa đảo mà chỉ vì tin theo sách vở theo nghĩa từ chương, hoặc những vị thầy trong chức vụ huấn luyện họ chẳng khác chi tôi đọc sách hiểu theo nghĩa đen, thiếu suy nghĩ, nghiệm chứng nên cứ bị bé cái lầm.

Càng đọc, tôi càng thấy mấy anh chàng to mồm lúc say sưa, đấm đá lung tung với cái miệng, chọc chạch niềm tin kẻ nọ, bêu riếu điều lỡ miệng của kẻ kia trong nhóm, chẳng khác gì nêu lên những câu hỏi nghịch luận thách đố tôi phải suy nghĩ. Tới khi ấy, tôi mới nhận ra các tác giả kinh sách quá tuyệt vời, nói đấy, nhưng thách đố, kích thích người đọc suy nghĩ, nghiệm xét, và nếu ai đọc mà không suy nghĩ, tưởng là chỉ có thế thì chẳng khác chi kẻ chết; kẻ chết đâu suy nghĩ gì. Viết đến đây, tôi chợt hiểu được câu Phúc Âm, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” (Lc. 9:60). Tôi như kẻ chết đã bao lâu nay giờ mới biết. Nếu không để tâm nghiệm xét, độc giả đều cho rằng tác giả bản thảo (Không biết đã được in chưa) viết truyện lăng nhăng mua vui độc giả.

Như vậy, những kinh nọ, kinh kia nơi sách vở đạo học đều là kết quả nghiệm chứng, nghiệm xét của những tác giả trước tác, được viết ra làm phương tiện hay cơ hội cho độc giả suy nghĩ hầu thăng tiến nhận thức. Dĩ nhiên, nhận thức không thể học được, không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ chẳng khác chi ăn uống. Ai ăn người ấy no bụng, ai uống người ấy hết khát; không ai ăn dùm hay uống dùm được cho ai thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho ai. Cũng chính nhận biết sự thể không cưỡng cầu được như thế, tôi cũng hiểu được tại sao Phúc Âm cứ lặp đi lặp lại câu, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con” (Mt. 9:22; 15:28; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 8:48; 17:19), mà không có câu nào nói Chúa chữa, Chúa cứu, như thiên hạ huênh hoang truyền bá. Quả thật mất lòng, phỏng họ không nghiệm xét Phúc Âm như thánh Phao lô đề nghị, hay không được dạy dỗ cần nghiệm chứng, hoặc có thể được dạy nhưng coi thưởng bởi, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra đần độn” (Mt. 13:15). Quả thật, tôi đã bị coi là đần độn suốt cả cuộc đời thanh xuân cũng chỉ vì không suy nghĩ.

Suy nghĩ thế nào, theo chiều hướng chi, bằng cách nào để thăng tiến nhận thức. Nhận thức đã không học được thì cũng như cảm nghiệm, thực chứng. Hai người nhai hai trái ớt tương đương vừa bất (hái) từ một cây, mỗi người cảm nhận, thực chứng, và sẽ có những phản ứng khác nhau. Cùng một sự việc xảy ra, mỗi người có cảm nhận khác với những người khác tùy thuộc kinh nghiệm, nhận thức riêng của họ. Cũng một ngôn từ, cũng một lời nói đến tai hai người sẽ gây phản ứng, cảm nghĩ khác nhau. Ah, hèn chi Huệ Thi bỡn cợt, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Hoàng Xuân Việt chưa nghiệm được sự thể này nên ghi chú, “Không ai hiểu câu này nói gì.” Như vậy, những câu nói nơi các sách đạo học bày tỏ cảm nhận, phản ứng của người trong cuộc, không thể diễn tả bằng lời. Hương Nham của nhà Phật ngộ thế nào, ra sao, chỉ Hương Nham biết, dù được kể ra, cũng không ai có thể biết. Nhưng phương pháp suy nghĩ, cách nào suy tư để có thể nhận thức, cảm nhận, cảm nghiệm, những câu nói ngang ngang, ngửa ngửa, nghịch thường nơi sách vở đạo học?

Tại sao câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng,” câu nói quá thường tình, đứa trẻ lên ba cũng biết sao được nhiều học giả, tác giả nhắc nhở đến nơi kinh sách cả ngàn năm trước. Lý do gì câu nói, “Ai có tai thì nghe,” những tám lần được nhắc lại nơi Phúc Âm? Ai không hiểu được những câu này? Tại sao không nói tai cần nghe, hay nên để tâm, chú ý nghe những gì mà chỉ khơi khơi buông câu nói, “Ai có tai thì nghe?” Tại sao phải đặt vấn đề, “Nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng” đang khi chỉ mặt trăng?” Câu nói chỉ về thái độ, tâm trạng, điểm đích, chiều hướng. Mặt trăng mới là đích điểm cho người nhìn chú ý tới chứ không phải ngón tay. Ah, thiên hạ thường để tâm hướng về người nói, người rao giảng chứ không cần biết điều gì được rao giảng, được nói. “Ai có tai thì nghe,” không nói về cái tai nhưng nói về điều được nói tới. Cái tai tự nó không nghe được, nó chỉ là phương tiện cho cái hồn nghe. Thế nên, câu nói thách đố tìm hiểu về cái hồn, thách đố độc giả đặt vấn đề cái gì nghe. “Ngón tay ta không phải là mặt trăng,” ngón tay chỉ mặt trăng mà không để ý nhìn về mặt trăng lại cứ chú tâm về người nói như thế nào; mà điều cần biết là mặt trăng chứ không phải ngón tay hay người chỉ thì biết được điều chi. Thích Ca chỉ đường lối nên thực hiện thế nào để được giải thoát, thì không theo mà cứ nghĩ, cứ cho rằng Thích Ca giải thoát cho con người khỏi vòng sinh, bệnh, lão, tử. Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời thì không cần biết Tin Mừng là gì, lại cứ tuyên xưng Chúa đến chịu chết vì tội lỗi thiên hạ.

Làm sao, tôi phải thực nghiệm thế nào để có thể giải đáp, nhận thức những câu nói kỳ cục nơi sách vở đạo học, và phỏng những sự nhận thức này đem lại ích lợi gì mà ông Tầm đề nghị tôi đọc hết đống sách này. Phúc Âm thì không có gì mới đối với tôi, nhưng điều lạ, hình như đòi hỏi tôi phải tìm cho ra cách suy nghĩ, suy tư; đại khái tôi cần đặt mình nơi vị thế nào để nghiệm được những câu nói kỳ cục, đang được hỏi thế này, câu trả lời lại có kết luận nghịch thường, không đâu vào đâu. Bản thảo diễn tả cảnh rượu chè be bét, ăn nói tào lao thiên tướng, nhưng cũng giúp cho tôi hiểu và áp dụng định tâm vào vận chuyển khí huyết; kết quả ra sao, nào ai biết vì mới thử được một tuần lễ. Và tôi quyết định để một buổi sáng thư giãn, không suy nghĩ cho tâm hồn thảnh thơi.

Làm sao cho tâm trí ngừng suy nghĩ trong khi nỗi thao thức kiếm tìm phương cách suy tư cứ lởn vởn áp sát tâm tư. Hơn nữa, càng không làm gì, càng thảnh thơi thì đầu óc càng lộn lạo oánh nhau với lý này, lẽ kia cố tâm tìm cho ra, hoặc giải đáp vấn đề nào đó. Bởi vậy, sau khi ăn sáng, tôi chạy bộ ra chợ mua đồ nấu ăn cho bữa trưa. Mười lăm phút vừa chạy vừa vận chuyển khí huyết theo đường đốc mạch của Dịch Cân Kinh, tôi có gần hai tiếng lăng quăng nơi chợ. Mua thực phẩm sớm rồikè kè đem chúng theo hơi phiền, thấy quán cà phê có gần chục khách đang rôm rả nói chuyện, tôi ghé vô. Nơi quán, có bốn tay mặc đồ xanh, đeo băng đỏ bên cánh tay trái tụ nhau tại một bàn; ba người đàn ông trung niên có vẻ dân buôn bán thoải mái chuyện trò nơi góc phải gần quầy tính tiền. Còn lại ba người ăn bận lam lũ có lẽ thuộc loại dân phu xe chở mướn cho các hàng quán.

- Chú dùng đồ chi, cô thâu ngân rời ghế đến bàn tôi vừa ngồi xuống hỏi.

Tôi buột miệng nói, “Cho tôi cái nồi ngồi trên cái cốc,” theo thói quen diễu, dễ học khó chừa, mỗi khi ghé qua Sài gòn, nếu thấy nơi quán xá hay chợ trời có những anh bộ đội mới vào trong Nam hoặc công an từ miền Bắc mới được sai phái vô, mới chợt nhận ra bị hớ vì nơi miền khỉ ho, cò gáy này chưa có bộ đội hoặc ông an được sai phái tới mà chỉ là những người theo cái gọi là “Giải phóng miền nam” của địa phương trước thời 75. Có điều, tôi nói giọng Bắc nên sự thể vô tình biến tôi trở thành đối tượng được đặc biệt chú ý. Một vài cặp mắt hướng về phía tôi, nhưng dẫu vừa chợt tỉnh, nhận ra mình lỡ lời không đúng nơi, tôi giả vờ như dân Bắc mới vào Nam nên tiếp tục lên giọng.

- Cô vừa nói đồ là cái đồ chi?

- Quán em có bánh cuốn chả lụa, cháo lòng heo, cháo gà cho buổi sớm.

Cô này gọi tôi là chú, xưng em, dáng người son sẻ, khá hấp dẫn, tuổi chừng hơn hai mươi, có lẽ chưa chồng. Lùi vô phía trong quầy tính tiền, có người đàn bà trung niên đang sắp xếp ly, đĩa, muỗm, đũa, mới được rửa, vừa nghe thấy tôi nói, “Cái nồi ngồi trên cái cốc,” chợt quay ra nhìn, hình như mang vẻ có cảm nghĩ hơi lạ. Tôi cố tình làm ra vẻ dân “Bắc kỳ rốn” mới vào trong Nam, hỏi tiếp,

- Ở đây có phở không? Cháo ăn chán thấy mẹ.

- Dạ thưa không. Cháo lòng heo ở đây ăn hết xẩy, chú dùng thử sẽ biết, không nơi đâu có thể địch lại được. Chú nhìn coi, ai đến đây cũng gọi món này hoặc cháo gà. Vừa nói, cô vừa đưa tay hướng về phía những người đang ngồi trong quán; nơi đó, đa số là những tô, muỗm, và đũa trên bàn, cùng với những ly cà phê đang uống dở. Chú ở Bắc mới dzô Nam phải “hôn?” Người miền Nam chỉ dân Sài gòn mới ăn phở sáng. Dân miệt Tây dùng cháo sớm mai, nhẹ bụng lại dễ xơi. Chú dùng cháo lòng nghen, thử cho biết; coi chừng thử rồi từ “mơi” ghiền cho coi.

Cô bé này ăn nói hấp dẫn, dễ thương, lại chứng tỏ hiểu biết nhiều, đồng thời pha lẫn khả năng quảng cáo chuyên nghiệp. Chỉ mấy câu nói đã phân biệt được đặc tính của dân Sài gòn và dân tỉnh lẻ miền Tây, rồi nào là quảng bá cho món cháo lòng heo, nào là hỏi dò gốc gác của khách, lại khuyến dụ khách ăn thử. Có lẽ cô bé này cũng được ăn học nên cho đến nay vẫn chưa kiếm được người xứng đôi vừa lứa làm chồng nơi miền quê này chăng. Nghĩ thế, tôi mở lời hứa hão, đò đưa,

- Thôi để lần sau thử nghiện xem sao, cô làm ơn cho tôi một cà phê phin là được. Thế sao cháo của quán cô tuyệt vời như vậy mà cô vẫn giữ được vẻ thanh bai, hấp dẫn như thế. Cái miệng của tôi dẻo chưa? Tôi định nói, sao cô không mập như những người bán quán khác, nhưng, lần đầu, dùng cách đơn sơ, chất phác nịnh đầm rõ ràng, trắng trợn, mang vẻ thật thà, chân thành, mộc mạc, thấy sao nói vậy; quả là táo bạo, chừng như cá chưa kịp câu đã vội đớp.

Thì tướng mạo tôi cũng không đến nỗi tệ, cao ráo, sạch nước cản, lại có niềm tự tin mình thuộc dân sinh viên, sinh hòn, võ vẽ đâu thua kém ai mà chỉ có hơn. Đàng khác, với tuổi thanh niên quen thói ba hoa phóng đãng, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ nơi trường hợp độc thân, cao ngạo quen thói thì nào tôi đâu cần kiêng nể chi ai. Có lẽ mấy người khách dùng sáng tại đây đã biết gia cảnh hoặc thân thế, vị thế của cô ra sao nơi miệt tỉnh lẻ này; nên không ai có thái độ bất thường nào khác, cùng lắm chỉ có người đưa mắt liếc thoáng qua tôi rồi tiếp tục uống cà phê hay ăn cháo. Tôi thấy vậy nên yên tâm đò đưa với cô bé. Thực ra, lòng tôi không ngán bất cứ ai nơi quán nên thả lỏng tâm tình tán hươu, tán vượn một cách thoải mái, nhưng cũng phải canh chừng chiếc miệng vì cảm thấy hình như cô bé này thuộc loại người được học hành ít nhất cũng hơn kém bậc trung học. Vả lại, bị nhiều lần, khi nói chuyện với bạn bè, tôi đã vô tình phát biểuý nghĩ, nhận định, điều thực sự đang xảy đến nơi tâm trí đôi lúc trái ngược với quan niệm bình thường do đó trở nên bất thường và bị coi là thế nọ, thế kia, óc bùn.

- Anh nên thử cho biết; không thử cho biết lại nghĩ rằng em nói láo.

- Tôi nào lạ gì cháo lòng, không tin cô thử ghé qua Bà Điểm, Hàng Xanh, Hố Nai, Gia Kiệm, hoặc Túc Trưng, Bàu Cá, đâu thiếu gì nơi bán cháo lòng. Nơi quán bà Tân ở Gia Kiệm còn có nem thính Bắc kỳ hoặc bê thui và cháo lòng, rượu đế Long An, cũng như bách nhật nếp than hay đế đậu nành.

- Sao anh biết nhiều thứ, nhiều nơi dzậy, bộ anh là Bắc kỳ 54 sao?

- Dĩ nhiên, không vậy sao có thể trôi lạc đến đây. Thế sao cô biết dân Sài gòn thích ăn phở buổi sáng?

- Em đi học ở Sài gòn mà; năm 75 sau khi thi tú tài hai, làm ăn khó khăn nên em trở về đây buôn bán với mẹ.

- Sao cô không tiếp tục học đại học mà ngưng ngang?

- Ba em còn đang ở trong trại cải tạo, đâu ai giúp mẹ em lo hàng quán và thăm nuôi ba.

- Ông là sĩ quan ở binh chủng nào?

- Sao anh biết ông là sĩ quan?

- Thì sĩ quan mới còn ở trại cải tạo. Những cấp bậc từ chuẩn úy trở xuống đâu ai phải ở trại cải tạo đâu.

- Thế sao anh không phải đi cải tạo?

- Tôi đâu thuộc loại sĩ quan. Năm 72 tôi vừa xong tú tài hai thì lệnh động viên xảy đến, và vì muốn lấy cử nhân văn khoa và luật khoa nên tôi gia nhập nghĩa quân để tiếp tục học, thì 75 tan hàng, rã nghé, có học thêm cũng chẳng làm gì được nơi xã hội này, và thế là ngày ngày chạy ăn từng bữa cho qua kiếp người. Thử hỏi, cử nhân văn chương thì làm được chi bây giờ trong khi người người phải lo từng miếng cơm, manh áo. Luật sư, kiến trúc sư ai thuê nơi xã hội hợp tác xã, bao cấp. Cô không nhớ Trần Tế Xương đã than sao, “Biết thế ngày xưa đi làm quách, chẳng ký không thông cũng cậu bồi.” Cô còn “Bồi bàn lắm khi buồn ngơ ngẩn,” phương chi tôi, thì cũng đành rơi vào cảnh, “Tứ cố vô thân chán chửa đời.” Cô hãy còn hơn tôi, còn có công việc cho quên ngày tháng cũ; riêng tôi, đối diện với “mộng ước xa xôi đã lỡ rồi,” nào có chi mà nói.

- Trúng đài, đúng là dân văn khoa, hèn chi khác người.

- Có chi mà khác, thời thế, thế thời phải thế mà thôi.

Bà trung niên thấy con gái tiếp tục nói chuyện, bưng cà phê ra cho tôi. Cô gái lên tiếng,

- Đây là mẹ em, chủ cái quán này. Má à, anh này là dân 54 giống ba đó. Thứ mà má hay nói Bắc kỳ dẻo miệng…

- Chào cậu; thế cậu về đây có việc chi.

- Cháu mới về đây được hai tuần, đang định kiếm công việc làm sống qua ngày, nhưng chưa biết tính sao.

- Thế gia đình cậu ở mãi đâu lận? Định về đây mần thì mần thứ chi?

- “Phi thương bất phú,” cháu đang tìm kiếm có thứ gì mang về Sài gòn buôn bán được không, chẳng hạn như trái cây hoặc rau quả.

- Lúc này, gạo còn không có mà ăn, phải ăn bo bo thì lấy tiền đâu mà mua rau quả. Hơn nữa, từ đây tới Sài gòn nào xa xôi gì, người ta thường dùng xe máy hoặc đi xe đò mang rau quả lên Sài gòn. Tôi nghĩ, buôn rau quả, trái cây không thuận đâu. Chi bằng mở quán ăn hay tiệm bán thực phẩm, cá khô, mắm muối, mới có tiền dzô ngay.

- Ở đây đâu có bao nhiêu dân cư mà mở thêm quán ăn!

- Nếu mở quán ăn thì mở nhỏ thôi, miễn sao sống qua ngày, mà mở nơi khu gần chùa Bà Đen. Tín đồ thập phương nhiều nơi thường về cúng bái, xin xâm, lễ hội. Nếu phát triển, sau này mở lớn thêm, và nếu thất bại thì cũng không đến nỗi nào. Thực ra, vấn đề làm ăn đều lệ thuộc phận số; bởi vậy, chỉ nên giới hạn trong tầm tay với. Nếu vung tay quá trán, và không tìm hiểu cũng như nhận định cho kỹ, coi chừng, “Chưa buôn vốn vẫn còn dài, buôn thì vốn đã theo ai mất rồi.”

- Sao bác nói năng văn chương quá vậy, tôi hỏi.

- Nhờ ba em đó, má em học từ ba em, ông bắc kỳ dẻo miệng, má em thường nói vậy, nghe riết rồi cũng quen.

- Sao cô gọi là ba mà không gọi là tía như tiếng địa phương?

- Ngày còn nhỏ, em gọi là tía, nhưng từ khi đi Sài gòn học, nói chuyện với bạn bè, nghe qua lại rồi nói theo luôn.

Có người gọi tính tiền, cô gái bỏ đi và bà mẹ cũng trở về bếp. Còn gần tiếng đồng hồ, tôi đi rảo qua các cửa tiệm quanh chợ. Ghé tiệm thuốc bắc, hỏi thử xem ai có mẻ xin một ít về gây giống, và được ông cho biết, chỉ cần, “Cho một chén cơm nguội và một ít nước đường vào một lọ thủy tinh sạch, rồi đậy thật kín. Sau hơn một tuần là có mẻ để sử dụng.” Thế thì dễ rồi, tôi sẽ thử, và nếu được, chỉ một tuần sau có gỏi nhậu. Vườn nhà có đủ mọi thứ lá thơm, rau, húng, ngò gai, lá mơ. Có cây vọng cách nơi góc vườn cạnh chân đồi. Ah, còn thiếu cây đinh lăng; ghé qua vườn bán cây kiểng, tôi mua chậu đinh lăng; trả tiền, hẹn sau khi mua đồ trở lại lấy. Trưa nay ăn món gì, tôi thầm tính, giả cầy nấu với bột me, ăn với bún, nhúng rau cải xanh. Cũng nhanh thôi, rau nhà có sẵn, riềng, hành tỏi không thiếu. Tới tiệm hàng xén, mua gói me chua, đoạn vô chợ mua cái chân giò, trở về vườn bán cây kiểng lấy cây đinh lăng. Thấy tôi ôm cây đinh lăng về tới, ông Tầm hỏi,

- Anh kiếm cây đinh lăng về làm gì vậy?

- Cháu mua về để ăn gỏi, nhưng bác có biết trồng và phân bón thế nào để nó phát triển nhanh không?

- Nhanh là thế nào, cỡ bao lâu?

- Cỡ tám đến mười ngày. Cháu muốn ăn gỏi cá rô phi với dấm mẻ bắc kỳ. Cháu đã biết cách làm mẻ, cỡ một tuần là có mẻ để nấu giấm ăn gỏi cá rô phi.

- Thế anh muốn uống rượu gì khi ăn gỏi?

- Bộ bác thừa tiền để uống rượu ngoại à?

- Vậy anh nghĩ tôi nuôi cá rô phi để làm chi? Anh nghĩ chỉ mình anh biết ăn gỏi dấm mẻ theo kiểu Bắc kỳ ư?

- Vậy bác định uống rượu gì?

- Rượu đậu nành! Ngạc nhiên hả, để đến lúc đó rồi sẽ biết. Nếu tôi không lầm thì hôm nay anh làm quen thêm được người đẹp mới phải không?

- Bác nói đúng, nhưng cháu vẫn chưa biết tên.

- Sao không hỏi, cô bé xinh xắn và có học thức đấy chứ?

- Cháu lỡ miệng chọc bộ đội nhưng không có bộ đội ở đó, quê quá, cháu kiếm cớ lãng đãng nói chuyện với cô bé thâu ngân; ai ngờ nàng chính là con bà chủ quán. Nói cho đúng, có lẽ tại cháu không có chút ý nghĩ, mơ ước, hay ý định, chiều hướng gì về có một gia đình nên chẳng cần biết gì thêm chăng. Mục đích sáng nay của cháu là kiếm dịp cho đầu óc thảnh thơi, không muốn suy nghĩ gì. Thực ra, nếu có ý định lập gia đình, có lẽ Lan, em của Ba như bác biết là sự lựa chọn tốt nhất. Nhưng…

- Được rồi, để tôi gây mẻ, nấu rượu đậu nành. Còn cây đinh lăng này thì trồng khôngkhó chi, miễn là không nơi đọng nước, đất xốp, có độ ẩm trung bình với phân chuồng. Thôi, tôi sẽ trồng cây; anh đi nấu ăn; mà hôm nay anh định ăn món gì vậy?

- Hôm nay nhân nghĩ đến giấm mẻ, cháu nhớ đến món giả cầy ăn với bún. Chưa có mẻ nên đành nấu với me vậy, nhúng rau cải xanh. Có lẽ mai, cháu sẽ ghé vô tiệm thuốc bắc cân lấy một vài thang lao tâm lao lực về ngâm, lỡ đôi khi có món khoái khẩu nhâm nhi cho cuộc đời thêm thi vị. Cũng đã lâu rồi, cháu chưa có cơ hội quên trời quên đất, quên cả thân mình.

- Cũng tốt thôi, trưa nay mình sẽ dùng rượu ngâm thuốc chống tê bại của đại tá hải quân Hồ Tấn Quyền cho thông máu. Tôi ngâm đã sáu tháng rồi.

- Bác để nơi nào mà cháu không thấy?

- Tại anh không có con mắt gián điệp.

- Bác nói con mắt gián điệp là sao?

- Nói chuyện với người ta cả tiếng đồng hồ mà không thèm biết tên. Tôi phải đi mua rượu để pha thêm cho dễ uống, rồi mình thử quên trời đất một buổi xem có thảnh thơi hơn không.

Ngày tháng vụt trôi, mới đó mà đã ba tuần, cái bản thảo khiến đầu óc tôi quay mòng mòng nhưng cũng giúp tâm trí lối nhìn mở rộng, chẳng những chân thành chấp nhận chính mình thực sự thế nào, giới hạn ra sao, mà còn nhìn sự việc, sự thể cuộc đời với nhãn quan nhẹ nhàng, thuận theo. Dĩ nhiên, trời nóng thì mặc đồ mát và rán chịu đựng nếu có thể; còn không, đành ở trong bóng râm cho dễ thở. Tối nay trong lúc uống trà sau khi ăn cơm, ông Tầm bỗng hỏi,

- Anh đã nhận ra con mắt nhìn trong giấc mơ của mình và đã biết cách áp dụng nó chưa?

- Nhận ra thì được, cách sử dụng thì chưa.

- Tôi không hỏi cách sử dụng, tôi muốn nói đến áp dụng.

- Bác nói áp dụng là sao?

- Con mắt nhìn trong giấc mơ chỉ có thể xuất hiện khi lòng mình thực sự định tâm. Nơi trạng thái ấy mình mới nhận biết mình nơi vị thế nào của sự việc hay sự thể để nhận ra ẩn ý được gọi là nhận thức.

- Bác có thể nêu lên một thí dụ được không?

- Hãy nói cho tôi biết, câu nói nào làm phiền tâm trí anh nhất, nó như đóng băng sự suy nghĩ của anh.

- Đó là câu nói nơi Đạo Đức Kinh, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” được cụ Nguyễn Duy Cần dịch là, “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh.”

- Đó là sự hiểu biết, nhận địn của cụ Nguyễn Duy Cần, không phải của anh.

- Cháu đâu biết chữ nho nên…

- Thế anh không nhớ câu nơi Trang học, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời” rồi ư? Tôi cũng không biết gì về chữ nho, chữ hán, nhưng chỉ biết nguyên tắc ắt có và đủ để đọc mấy sách đạo học, và đó là những câu nói ngang ngang, bất thường đều là kết quả của những nghiệm chứng. Tác giả buông câu nói không đầu, không đuôi, hoặc có đầu thì đầu nói về chuyện này nhưng đuôi nói chuyện gì xảy ra nơi chính tâm tư người đọc; nói cho đúng, về chính trạng thái tâm tư, tâm hồn của anh; điều đã xảy đến nơi tâm tư của tác giả. Thí dụ, nơi cuốn Trang Tử và Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu nói của Huệ Thi, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Nên để ý, trong tâm tư làm gì có lửa, nhưng tại sao lại nói “Tại vì mình cảm thấy nó nóng?” Có phải lửa đây được dùng để chỉ về điều gì khiến mình cảm thấy bực điên lên không? Được ý quên lời là thế, sấm đàng đông, động đàng tây là thế. Đặt mình vào vị thế nào đó của câu nói, suy nghĩ, đặt vấn đề sự việc, sự thể nơi trường hợp, trạng thái nào hầu biết được nhận thức của mình ra sao. Bây giờ, tự đặt anh vô câu nói, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” anh có thể phân tích diễn biến, diễn trình suy nghĩ được không?”

- Thượng thiện nhược thủy, tôi lẩm bẩm lặp lại. Tôi đã thực hiện đặt mình nơi vị thế nào đó của câu nói nhưng vẫn cảm thấy áy náy bởi vì cho rằng thượng thiện chỉ được dành cho Thiên Chúa; thế nên lên tiếng hỏi lại,

- Nếu đặt mình nơi vị thế thượng thiện thì phỏng có là phạm thượng không, thưa bác.

- Trong suy nghĩ, tư tưởng, vấn đề xảy đến hoặc liên tưởng tới không đúng sai, phải trái chi hết, chúng hiện hữu chứ không đụng chạm đến thần thánh nào hay bất cứ ai. Chẳng hạn câu nói, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương.” Anh thử nghĩ xem, anh nên đứng nơi vị thế nào. Thượng Đế là toàn hảo, tuyệt hảo; quỷ vương là dối trá, đốn mạt. Mọi câu nói nghịch thường đều nói về chính mình, thì anh nhận thức được gì nơi câu nói này? Không phải là chính anh sao? Anh có những điều tốt lành, thánh thiện; đồng thời anh cũng có những điều đốn mạt chính mình cũng không chấp nhận nổi. Thượng Đế cũng là anh; quỷ vương cũng là anh thì có phạm thượng không?

- Cảm ơn bác, cháu đã hiểu.

- Anh đã đọc xong cuốn Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh; thế anh đã có thể áp dụng nguyên tắc vận khí của Taekwondo vào hành thiền chưa?

- Cháu không hiểu bác muốn nói áp dụng thế nào.

- Anh có biết tại sao tôi nói đi chợ không đi xe đạp chứ?

- Cháu chạy thay vì đi bộ. Trong khi chạy, cháu dẫn khí theo đốc mạch, chưa dám thử ngược lại theo nhâm mạch, đồng thời điều hòa nhịp thở vô hay ra mỗi chiều mười bước mới được hai tuần, thấy có điều gì khác lạ đôi chút nơi bản thân.

- Anh liều nhưng áp dụng kiến tính giỏi hơn tôi có thể nghĩ tới.

- Nghĩa là sao, thưa bác.

- Sở dĩ tôi muốn anh đi bộ với chủ đích anh có thể ngộ ra được thế nào là hành thiền. Thực ra, trước khi biết được hành thiền cần phải biết định tâm, không lệ thuộc giải thích nơi sách vở, nghĩa là không tin ai hết, không lệ thuộc quan niệm, lý thuyết nào để rồi áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí khi đi bộ. Đàng này, anh áp dụng vào chạy bộ và hòa hợp với nhịp chạy. Tôi nghĩ, qua hai tuần, anh đã có thể chạy 15 bước mỗi nhịp thở ra hay hít vô. Anh đã thử chưa?

- Chưa, bởi cháu e người ta sẽ chú ý.

- Anh luyện võ có thấy khác chút nào không?

- Hình như dễ dàng và nhanh hơn trước, nhưng chưa thực sự áp dụng hành thiền vô khi luyện vì còn phải chú ý tới thế đánh để phát huy biến thể.

- Mới đầu, chỉ có thể dồn năng lực vô từng thế đánh tới giai đoạn khí công đạt tới mực độ nào đó mới tự nhiên phát huy được. Tôi nghĩ, nội trong một tuần nữa, anh sẽ nhận ra nhiều điều bổ ích khi đọc tới phần Ấn học, mật tông Ấn. Nếu có lớp dạy võ, anh có đồng ý làm võ sư không?

- Đó cũng là điều tốt thôi, lại có nhiều giờ luyện hơn nữa. Nhưng việc nhà…

- Cảm ơn anh đã có lòng chiếu cố. Tuy nhiên, xưa nay anh chưa về đây, tôi vẫn tự xử được mà. Có điều, dàn xếp để anh dạy võ, nhưng tôi không dạy đâu. Nếu cần, tôi sẽ bàn luận và giải quyết trong vòng bí mật.

Một tuần sau, tôi được dàn xếp để trở nên võ sư của lớp luyện võ. Lớp luyện võ chỉ có 7 người. Tôi không muốn dạy nhiều người cùng một lúc bởi muốn theo dõi kỹ lưỡng sự tiến bộ của từng người, đồng thời muốn biết rõ tâm tính cũng như ước mơ của họ. Hy vọng có người tiếp tục có thể thực hiện gì, hầu giải tỏa bớt nỗi khốn khổ của dân chúng. Hơn nữa, với nhận xét và suy nghĩ của tôi, chỉ có 10 bài quyền cho cấp đai đen nếu học viên biết áp dụng nguyên tắc luyện khí vào vận khí phát triển nội công, tất nhiên sự thăng tiến chắc chắn sẽ vượt bực. Suốt 12 năm, kể từ thời tôi học lới tư đến nay bởi đã không biết thế nào là vận khí áp dụng vào luyện võ, dầu đã cố gắng vượt bực nhưng tiến bộ chẳng khác gì con rùa lê lết trong vũng bùn.

Một tuần từ khi nghe ông Tầm có ý định muốn tôi dạy võ, tôi đã tiêu tốn khá thời gian suy nghĩ phương pháp và lịch trình giảng dạy cũng như tập luyện chẳng những của chính tôi mà còn sao có thể áp dụng cho những học viên. Làm cách nào, thực tập ra sao để mấy người trẻ nhận ra nguyên tắc luyện khí và áp dụng vận khí để thực hành “Hành thiền” trong đời sống hằng ngày. Suy nghĩ đến đây, tôi mới nhận ra chính mình đã không để ý thực hiện nó. Cũng phải cám ơn mấy cuốn sách, nhất là tập bản thảo ông Tầm đã khuyến khích tôi đọc. Và thế là, sau một ngày suy nghĩ, tôi áp dụng vận khí nơi hành thiền, chỉ sáu ngày trước khi lớp luyện võ được khai sinh, tôi đã có sẵn một lý thuyết thực nghiệm hầu giúp học viên nhận thực được phương cách ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch áp dụng nơi hành thiền.

Nghĩ thì nghĩ như thế, nhưng với những đầu óc non trẻ của học viên, tôi lại phải đối diện với mớ ngôn từ hoàn toàn khác lạ nơi cuộc sống. “Ý là gì; khí là gì; ý dẫn khí là thế nào; thực tập ra sao để nhận ra ý dẫn khí. Kinh mạch là gì, trung tâm kinh mạch, huyệt đạo ở đâu. Huyệt đạo là gì v.v… Thiền là gì; thực thể là gì; chưa biết kiến tính là thế nào sao biết hành thiền. Rồi nào quán tưởng, định tâm, sao mà lắm thứ thế. Người ta nói không thể “Dạy thằng yếu đánh vật,” thế sao có môn “Nhu đạo” của Nhật? Không suy nghĩ nhiều, cứ để từ từ từng bước, đến đâu suy nghĩ đến đó, căn gốc, thực hành chưa có gì thì lấy chi mà đòi dàn trận diễn tiến.

Bài học đầu tiên phải thế nào, luyện tập ra sao, nói năng, giới hạn hiểu biết của học viên nơi trình độ nào, không thể theo phương thức “Monkey see, monkey đo” như nơi sách tiếng Anh dùng để chỉ sự việc học theo không hiểu biết. Tôi không phản đối lối học xưa, nhưng thật khó chấp nhận thành ngữ, “Bọn ngu xuẩn hữu ích.” Tôi thích và thường lẩm bẩm bài hát, “Không phải là lúc” của Nguyễn Đức Quang, “Không phải là lúc cứ ngồi đặt vấn đề nữa rồi, phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới. Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau, nghi ngờ nhau, khích bác nhau cho cay cho sâu, cho thật đau. Không phài là lúc cứ ngồi mà cãi suông, Không tin nơi nhau, thế ta định nhờ ai dẫn đầu?” Những lời hát đơn sơ, bình dân, nhưng thâm thúy, cay đắng, nói lên sự thiếu nhận thức nơi con người. Đồng ý rằng, “Công bình bác ái không phải là phép tiên, đem ra rêu rao bốn năm ngày là ta có liền,” nhưng làm theo kiểu “Monkey see, monkey đo” thì tiến bộ thế nào, sáng kiến ở đâu? Thiếu suy nghĩ, không phát triển nhận thức thì suốt đời chỉ “Trâu chậm uống nước đục.”