LUẬN BÀN NHẬN ĐỊNH - 1 -
- Anh có định thực tập cho các em “Kiến tính” không? - Cháu đã đôi lần tự hỏi có nên không. Tuy nhiên, nhiều nghịch lý, lắm phản biện nổi lên nên chưa có ý nghĩ gì. Trước hết, thiển nghĩ, chúng ta đang đối diện với một thực tại trầm luân; dân chúng khổ cực chạy ăn từng bữa, muôn nhu cầu cấp thiết căn bản nhân sinh dồn ép mà lại khuyến khích “Kiến tính,” sẽ phát sinh nhận thức sai lầm về “Huyền đồng” theo quan điểm hữu vi, có lẽ chỉ mang tai hại cho người ta. Bác thử xét coi, “Huyền đồng” thuộc về nhận thức, tâm linh, nhưng với quan điểm hữu vi, tất nhiên sẽ bị hiểu là sống hòa hợp với tự nhiên, trở về cảnh ăn lông ở lỗ, thiếu hay bỏ quên ý chí tiến thủ, chẳng khác gì những tuyên truyền, khuyến khích hãy tự lo, hãy chỉ biết đến mình, ích kỷ, ai chết mặc ai, ta no đủ đã, với bất cứ thủ đoạn nào. Thêm nữa, qua nhãn quan hữu vi, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” cũng trở thành nguyên nhân hoặc lối khuyến khích chụp giựt cơ hội, sẽ tàn phá tâm đức. Đọc qua những hồi ký, nhận định về thực trạng xã hội nơi các quốc gia Cộng Sản, hoặc theo chủ thuyết Chủ Nghĩa Xã Hội, bác thấy các nền luân lý, đạo đức của các nước chẳng hạn, Trung Hoa, Iran, Bắc Hàn, Venezuela, Cuba, kinh tế càng ngày càng suy sụp, dân chúng lâm vào cảnh lầm than, đói rách, vô luân, vô đạo đức. Con người chẳng khác gì những con thú, chỉ biết lần mò kiếm gì bỏ bụng cho yên cái dạ dày luôn luôn thiếu thốn, đói khát. Dân chúng trở thành những đối tượng cho các quan chức moi tiền; thế nên, quan chức thì càng ngày càng đông tiền lắm bạc, mà dân chúng, ngược lại càng ngày càng tiến dần tới khố rách áo ôm. Không nhớ cháu đọc đâu đó, dân Venezuela phải vác cả bao bố tiền mới mua được ổ bánh mì trong khi ngày trước, Venezuela là một nước dầy đặc dầu khí, giầu có, nay thì sao. Thế nên, đối với hiện trạng này nơi đây, nếu trình bày, hoặc khuyến khích “Kiến tính,” lỡ bị hiểu theo nghĩa hữu vi, nhân sinh, cháu cảm thấy coi chừng đó chính là gieo rắc mối họa hại người, hại nước, chỉ vô tình tiếp tay cho quan chức làm nhụt nhuệ khí dân tộc, biến dân tộc thành nô lệ cho miếng cơm, manh áo theo thành ngữ đang được cổ võ, Cơm Áo Gạo Tiền. - Những điều anh vừa nói chỉ là nhận thức về sự hiểu biết sai lầm, thay vì suy nghĩ nơi hiện trạng tâm linh lại hiểu biết theo đường hướng hữu vi, nhân sinh mà thôi. - Bác nói đúng; thực tế minh chứng, biết bao người viết sách, đọc sách, rồi nào học giả này, tác giả kia đa số, nếu cháu không lầm, đều diễn giải, trình bày theo quan điểm hữu vi, thế tục, không thoát ra được. Quan điểm của họ, nhận định, suy diễn đều lệ thuộc lối nhìn nhân sinh chưa vượt lên được; họ vẫn còn bị nặng nề ảnh hưởng của những cặp kiếng mắt thịt, may ra chỉ một đôi câu, nếu không lầm, mới chạm tới tâm linh. - Diễn giải, suy luận là hành động hữu vi, đó là điều ắt có và đủ, không thế sao có sách vì sách vở thuộc vật chất. Anh không nhớ câu, “Một con khỉ nhìn vào cuốn sách không thể thấy vị thánh hiện lên” sao? Tất nhiên, sách vở phải dùng sự việc, sự kiện hữu vi để kiến tạo, nhưng nhận thức tùy thuộc độc giả. Nói cho đúng, tác giả cũng không thể nào biết được nhận thức của bất cứ độc giả nào sẽ phát sinh khi đọc sách của mình. Biết bao cuốn sách anh đọc; nếu tôi không lầm, bởi anh theo ban C nơi trung học, lại cố gắng cải thiện ngôn ngữ bằng cách đọc sách ngoại ngữ; nếu chỉ tính mỗi năm anh đọc cỡ trên dưới 20 cuốn sách thì ít nhất sáu năm tính từ đệ tứ cho hết hai năm đại học, vị chi 120 cuốn. Thử hỏi, nơi phương diện nhận thức, anh đã đạt được gì? Thế tại sao mấy cuốn Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Pháp Bảo Đàn Kinh, Kinh Thánh, Kinh Koran, Bhagavad Gìta, kiếm đâu chẳng có mà vẫn được coi là kinh điển. Tất nhiên, nhận thức không thể học, không thể dạy, không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ. Nhưng thức ngộ hay không tùy tâm trí độc giả. Cứ suy từ kinh nghiệm đọc sách của anh sẽ thấy, nhận thức phát sinh từ suy nghĩ nếu đọc mà không suy nghĩ sẽ chỉ có thể hiểu chứ không thể nào nhận thức. Thực tế minh chứng, con người tự bẩm sinh đã mang khả năng suy nghĩ; bởi vậy, cuộc sống mới thăng tiến. Tuy nhiên, bởi phải liên miên đối diện nhu cầu vật chất nhân sinh, người ta đã không để tâm đến hiện trạng tâm linh, nên không suy nghĩ, không để ý đến diễn tiến tâm trạng của mình nơi những trường hợp của sự việc, sự thể được ghi lại một cách ám định thế nào, do đó không nhận thức được. Như vậy, vấn đề lại là cách nào và thế nào khuyến khích, đánh động được tâm trí người ta lọt vào suy nghĩ tâm linh. Đó là lý do tại sao tôi nói thực tập cho các em “Kiến tính.” Tôi nói thực tập chứ không phải diễn giải, hoặc trình bày lý thuyết, giải thích, giải buồn, hoặc mua vui. - Tôi nghĩ, đến lúc này, anh cũng thừa nhận ra rất rõ ràng; đó là hiểu không phải nhận thức. Sự thể được gọi “hiểu biết” thuộc về hữu vi, nhân sinh, thế tục. Nhận thức thuộc về tâm tình, cảm nhận, cảm nghiệm; nhận thức thuộc về trạng thái nơi phương diện nào đó của tâm hồn. Chẳng hạn câu, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” là câu nói hữu vi chỉ về tính cách, trạng thái ăn ở, đối xử, lại mang ám định về tâm tình, tính cách, tâm linh. Như vậy, các kinh sách chứa đựng những câu nói như thành quả, kết quả về sự thể diễn tiến nơi tâm hồn, tâm cảm, cảm nhận, cảm nghiệm, và muốn biết sự thể diễn tiến ra sao cần nghiệm chứng, nghiệm xét. Điều hiển nhiên, đó là cho dù kinh sách hoặc các loại sách vở, tất cả đều là sản phẩm của con người. Kinh sách là kết quả, thành quả của nghiệm chứng, giúp độc giả thăng tiến nhận thức. Nhận thức lại là kết quả của suy nghĩ tâm linh, nên muốn nhận thức được những câu nói nơi kinh sách cần phải suy nghĩ, đặt mình vô các vị thế của câu nói, phân tích từng phần trạng thái hay phương diện nơi câu nói để cảm nhận; được gọi là nghiệm chứng hay nghiệm xét. Tuy nhiên, một thực thể hiển nhiên nơi mọi người, đã trãi qua bao thời đại, nhưng ít ai để ý. Thử hỏi, ai ngủ cũng mơ không nhiều thì ít. Khi mơ, đẫu đôi mắt thịt đang nhắm lại, không biết gì đến những chuyện gì đang xảy ra bên ngoài, ngay cả thân mình; thế mà thấy rõ ràng mọi sự trong giấc mơ. Vậy con mắt nào nhìn trong giấc mơ. Ai cũng có, nhưng được mấy ai để tâm tìm hiểu con mắt nhìn trong giấc mơ nơi mình không. Anh đã nhận ra con mắt nhìn trong giấc mơ là gì chưa; nó liên hệ đến anh hoặc cuộc đời của anh thế nào? Điều tôi muốn nói là phương cách nào, phải đặt vấn đề nơi phương diện chi, để nhận biết hoặc giải đáp hiện trạng con mắt nhìn trong giấc mơ. Các nhà khoa học chỉ có thể phân tích và giải đáp những hợp chất, sự vật, sự việc hữu vi; nếu xét về thực thể hoặc tâm linh, coi chừng họ cũng chỉ giống như các thày bói mù rờ voi mà thôi; bởi họ đã quá quen, quá lệ thuộc suy nghĩ hữu vi như mọi người. Thử hỏi, đã có vị khoa học gia nào chứng minh được 1+1=1, trong khi thực thể liên hệ hồn và xác của một người ai dám nói là hai? Lý luận rằng hồn và xác là hai thực thể riêng biệt thì có tách hồn và xác của một người riêng ra mà người đó còn có thể sống được không? Tuy nhiên, có câu nói, tôi không nhớ được châm ngôn của nước hay dân tộc nào, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người có đủ cơm ăn, áo mặc thì họ suy nghĩ,” nhưng suy nghĩ nơi phương diện, trạng thái nào lại là một vấn đề. Điều này có thể chứng thực được nơi trạng thái đọc sách của anh đã bao lâu nay và mấy ngày vừa qua. - Nhưng… - Tôi hiểu anh muốn nói nhưng về điểm gì khi dân chúng đang phải đối diện với thực trạng nhân sinh khó khăn, khốn khổ. Có lẽ anh chưa có cơ hội đọc được mấy câu thơ, tôi không nhớ được của tác giả nào, “Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền Nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang Nhớ duyên dáng ngây thơ mà xảo quyệt.” - Dù tác giả là người miền Nam, cay đắng viết lên đặc tính con gái Bắc, nhưng nhìn vào lịch sử dân tộc Việt, cả ngàn năm qua mấy lần bị bắc thuộc và thử hỏi những thời điểm xa xưa ấy, dân tộc mình đâu có súng ống, xe hơi không; sao 13, 14 lần chiến đấu chống phương bắc vẫn thắng. Những thời hai bà Trưng, Quan Trung, Lê Lợi, bộ dân chúng có gan hùm ăn thay cơm hay sao mà vẫn xua đuổi được bắc phương. Thử nhớ lại coi, lần bắc thuộc lâu dài nhất là 700 năm, tụi Tàu có đồng hóa được người Việt mình chăng hay bị đồng hóa ngược lại; những con dân bắc thuộc có muốn trở về quê hương sinh quán của họ không, hay chôn chân, chôn cuộc đời nơi đất Việt? Người Việt coi bộ yếu hèn đấy, nhưng phía sau nét ngoan hiền, khiêm nhường, ngây thơ là cả một sự bất khuất, kiên cường nếu không muốn nói là cao ngạo. Có câu nói, “Cầu mong không bằng vận may; vận may không bằng tốt số; tốt số cũng thua ý trời.” Tôi không hiểu được “Đất có tuần; dân có vận” ra sao; do đó càng không hiểu được thân phận con dân Việt sẽ thế nào, nhưng phải làm gì để nâng cao nhận thức của con người thì đó là điều ắt có và đủ cho dân tộc vươn lên. - Bởi thế, làm sao áp dụng, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” nơi hiện tình thực tại mới là điều thiết yếu. Mình chưa thức ngộ mà e ngại người khác hiểu lầm là thế nào? Tôi cảm nhận được nỗi thống khổ dằn vặt nơi tâm tư anh. Bộ anh tưởng tôi là cục đá hay sao mà không biết. Thử hỏi, vì cớ gì, cô Lan, em gái người bạn, thắm thiết đợi chờ anh ngỏ lời mà anh lại bỏ đi. Bố mẹ cô cũng đã giáo toa chia cho cô hai mẫu tây rãy chuối, thế mà anh cũng trốn lánh. Mấy hôm trước, hai nàng con gái mới gặp đã chấm điểm anh, mà ngay tên của các nàng anh cũng không cần biết. Có phải vì anh sợ bị chui vào cái lồng hôn nhân, rồi rơi vào tròng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời kiếm miếng cơm manh áo chỉ biết lo cho vợ con? Người ta đầy đầy chan chan ra đấy, bộ chỉ mình anh là đàn ông nơi đất nước này sao? Suy nghĩ, suy nghĩ, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Anh biết, “Kiến tính” đòi hỏi định tâm và “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” không tin ai hết, không để ai lừa dụ, là thế nào chăng? Nơi Kinh Thánh của anh thì nào, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi.” Và rồi, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta.” Anh có nghiệm được các câu này nói gì và áp dụng vào thực tại theo ước mộng của mình thế nào không? Tôi nghĩ, anh cần suy tư thâm trầm với câu nơi Đạo Đức Kinh, “Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Riêng tôi, tôi nghĩ, nên đổi lại câu nói thành, “Không làm gì là làm tất cả.” Anh hiểu sao thì hiểu. - Nhưng thưa bác, có lẽ bác còn nhớ câu bác nói, “Một người có thể theo đuổi để thực hiện giấc mộng của mình, đó chính là một việc vô cùng hạnh phúc;” dẫu biết rằng hạnh phúc chỉ là trạng thái đuổi bắt ước vọng của mình nơi tiến trình theo đuổi, thì đâu có gì ngoại tại đáng được để ý tới. Theo cháu thấy, đôi khi niềm hạnh phúc của người này có thể là sự khổ ải, gò bó cho người khác, hoặc niềm mơ năm nào lại trở thành cay đắng hôm nay. Cái kiếp người này, mục đích còn chưa biết, đành chấp nhận sống cho qua thì sao có thể nhẫn tâm kéo người khác vô vòng đày đọa. Cuộc đời thiếu gì cảnh, “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt; cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.” Càng yêu ai chỉ càng làm cho người ấy đớn đau, càng gây khốn khó cho mình. Ai không thích hay không muốn mình có số đào hoa, nhưng kẻ nào được sinh ra với số đào hoa mới thực sự cảm nhận được khốn khổ vì nó, như vậy, thì đành gồng mình chấp nhận mà thôi; bởi nghiệp, vận, hay duyên thì nào khác gì cá đã ở trong lờ. Thời gian cũng chỉ là giai đoạn đợi chờ lên thớt. Đức Phật, đức Chúa nào có cứu được ai nếu người đó không muốn được cứu, mà được cứu khỏi điều gì phỏng có biết chăng. Nhìn lại cuộc đời mình, “Tam thập như lập,” nhưng cuối cùng thì “vào đời tay trắng, ra đi cũng trắng tay,” nên, thiển nghĩ, sống cho vui vẻ, an định, an hưởng niềm hạnh phúc đuổi bắt ước mơ còn đòi gì hơn. Dẫu nhà Phật cho rằng, ước mơ hay ý định cũng chỉ là dục; vậy diệt dục thì là gì? Phỏng diệt dục là nhắm mắt đưa chân học theo loài khỉ cho giống mọi người dẫu lòng mình khác hẳn (Trang Tử)? Trái ớt chín đỏ đầy vẻ ngon ngọt, hấp dẫn, nhưng ngon với ai chứ đối với cháu, nó cay lắm không dám đụng đến; cho dù nó được phơi bày đầy vẻ mời gọi trên bàn. Đâu phải cứ “Yêu ai, thì yêu cả đường đi; ghét ai, ghét cả tông chi, họ hàng.” Cuộc đời này, ai thì cháu không biết, nhưng nếu sống mà như chết thì đâu còn sinh thú gì để tiếp tục. Chẳng lẽ ra ngoài trời nắng không đội mũ, nón, rồi cứ kêu than sao không có mây mà hết nóng nực được chăng. Cháu nghĩ, coi chừng xỉu chết giữa đường, nên thà kiếm mũ hay nón mà đội, lỡ vận chết ập đến thì cũng không phải ăn năn vì đã không ai giúp mình. - Nói chung, những gì anh vừa nêu lên chính là nhận thức đối diện với thực thể biến chuyển của cuộc đời. Xét thế, lại cần phân định cho rõ ràng đâu là giá trị của một người, tạisao được sinh ra, có cuộc sống; mục đích cuộc đời của một người là gì. Chưa nhận ra giá trị của cuộc sống thì sao có thể đặt vấn đề nhận biết mục đích cuộc đời của mình. Đồng ý rằng, mỗi người đều có cuộc đời, nhưng được sinh ra không ai giống ai, và cuộc sống không có mục đích chẳng khác gì tiêu hao công sức một cách vô ích như mũi tên được bắn đi vô định hướng, và như vậy, cuộc đời không mục đích, nếu chỉ chấp nhận được sinh ra để sống thì cứ sống, để rồi miệt mài, tốn công sức, chạy theo những ý thích nhất thời, chắc chắn chết khó nhắm mắt; và trong những ngày gần cuối kiếp nhân sinh phải đối diện với muôn nỗi ăn năn, khắc khoải nuối tiếc vì đã vô tình lãng phí những cơ hội nhận ra giá trị cuộc sống của mình. Tâm tình này đay nghiến không biết bao người nơi cõi nhân sinh; do đó, chỉ đành chấp nhận sống để dạ, chết mang theo, quả là đáng thương cho kiếp người, bởi vì thiếu nhận thức. Thực tại này quả hợp với câu, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Ngu dốt vì đã thiếu suy nghĩ; nói cho đúng, không dám đối diện với niềm khát khao bẩm sinh nơi mình. - Có điều, anh còn trẻ; sở dĩ tôi nói hơi nhiều vì một sự thể đắng cay cho kiếp người, dẫu muốn cũng không thể được; đó là cuộc đời này không có loại thuốc nào chữa để chữa lành sự hối hận. Dĩ nhiên, thuở ban đầu, người ta chỉ mơ ước điều mình chưa có và càng không có cái gì thì lại càng khát vọng nó. Nhưng như anh đã biết, đôi khi ước mơ thời non trẻ ngày xưa, đang trở thành gánh nặng nếu không muốn nói là án phạt cho ngày hôm nay. Tôi không muốn chúng ta phải ăn năn bởi đã thiếu suy nghĩ; vì ăn năn, hối hận là vết thương sát phạt tâm tưởng luôn đè nặng gây áp lực ưu tư không thể lành lặn do sai lầm; mà sai lầm nào đã không đi vào quá khứ. Tất nhiên, quá khứ thì đã chết, không thể sửa chữa hay đụng tới, nhưng vết thương lại luôn sống động, luôn dằn vặt tâm tư. Nói cho đúng, sự thể này chỉ xảy đến với những tâm hồn ngay chính, chân thành. Anh đã dám thực sự chân thành đối diện chính mình để nhận ra thiếu sót nơi cách đọc sách hơn mười năm trước tất nhiên cảm nhận được những gì tôi nói. Đồng ý rằng, không ai tránh thoát được lầm lỗi; vì “Ai nên khôn không khốn một lần;” thế nên, để ngăn ngừa hoặc tránh phần nào sự tiêu phí cuộc đời kiến tạo nỗi ăn năn, hối hận sau này, chúng ta cần suy nghĩ chín chắn, thâm trầm hơn để nhận ra mục đích cuộc đời của mình là gì, cần phải thực hiện thế nào hầu biết giá trị cuộc sống thay vì lây lất tiêu hao tháng ngày một cách vô ý thức. - Bởi vậy, thay vì đắm chìm trong đám mây thực tại đang miên tục biến chuyển, thay đổi muôn chiều khiến tâm trí rối rắm như rợ vào rừng khó bề cân nhắc, chọn lựa, chúng ta cần phân tích, nhận định sự thể cuộc sống hầu tìm ra điểm khởi đầu cho suy tư. Dĩ nhiên, hành trình suy tư này khó thì không khó nhưng dễ thì cũng chẳng dễ dàng chi, như anh đã trình bày; bất quá, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn, bình tâm xét lại mà thôi. Thử đặt vấn đề một cách thực tiễn, lý do gì hoặc nguyên nhân nào đã khiến anh cảm thấy hối tiếc thời gian hơn mười năm đọc sách? Có phải đã vì anh không suy nghĩ nên đọc sách với tâm trạng thế nào, hoặc phương cách thực nghiệm nào khi đọc sách hầu nâng cao nhận thức chăng? Bình thường, ai cũng thế, chỉ đọc mong kiếm tìm kiến thức để rồi cứ nghĩ biết nhiều kiến thức là cách nâng cao giá trị đời người; vì kiến thức là những kinh nghiệm, sự hiểu biết không phải tốn công sức trả giá, đồng thời giúp con người có thái độ đối diện với cuộc đời chính xác hơn để đạt được chủ ý hay mưu đồ nào đó của mình. Sự thể này hoàn toàn đúng và hữu ích, nhưng chỉ hữu ích một phần trong giới hạn nhân sinh, nơi cuộc sống thế tục. Thử hỏi, giá trị một đời người phỏng chỉ là sự hơn thua danh giá, tiếng tăm, bằng cấp nọ kia, vị thế, chức vụ, nhà cao cửa rộng, quần áo lụa là hợp thời, hợp cảnh, hay xe sang mắc mỏ, hoặc đông tiền, nhiều của để rồi cuối cùng, ai cũng như ai, vào đời đơn độc, ra đi lạnh lùng, tay trắng trở lại trắng tay; trong khi lòng ôm theo nỗi hối hận, ăn năn, luôn đè nặng tâm tư chẳng thể dứt bỏ? Như vậy, giá trị đời người lại chính nơi nỗi lòng, tâm tư, chứ không phải bất cứ gì thuộc thế giới nhân sinh này; dẫu những sự kiện, sự việc, hoạt động, một người đã thực hiện ghi lại những dấu ấn khó thể tàn phai nơi tâm trí. - Thế cái nỗi lòng, cái tâm tư từ đâu phát sinh. Nỗi lòng, tâm tư là gì nơi một người? Muốn biết nó, chúng ta phải đối diện với chính mình, với con người thực của mình. Mình thực sự là gì? Chỉ là vẻ bên ngoài? Thế tại sao có câu nói, “Hơn nhau tấm áo, manh quần; nếu đem lột trần, ai cũng như ai?” Tôi không nghĩ ai cũng như ai nếu đem lột trần; vì đó chỉ là cái nhìn phiến diện; cái mà không ai có thể biết ngoại trừ chính người đó mới được gọi là giá trị của đời người. Chính cái giá trị này được gọi là nỗi lòng, được gọi là tâm tư. Người ta chỉ có thể nhận biết giá trị của một người khác qua lối sống, tư cách dưới nhãn quan luân lý, đạo đức nhân sinh tùy thời, tùy nơi, nhưng giá trị đích thực của người đó lại tùy thuộc nhận thức. Chính sự nhận thức của một người kiến tạo nên nỗi lòng, tâm tư người đó. Điều này có nghĩa, nhận thức của một người phân định giá trị làm người của họ, chứ không phải tấm áo, manh quần, hoặc ngoại hình thân xác, hay tiền của, hoặc vị thế nơi xã hội. Bởi vậy, muốn nhận ra giá trị đời người, lại cần biết mình thực sự thế nào, là ai, thực thể sự sống nơi mình là gì? - Nói cho đúng, không sách vở nào, không một ai có thể nói lên, hay dạy cho mình nhận biết mình thực sự thế nào, ra sao, là ai, lý do, “Nước nóng lạnh, người uống tự biết,” như nhà Phật đã nói. Cho dù người thân nhất, ngay như chính mình, vẫn thực ra luôn luôn “Đồng sàng dị mộng.” Con người thường mộng tưởng về chính mình, cho rằng, nghĩ rằng mình thế nọ thế kia, nhưng, tất cả đều là thiên vị, đều là thăng hoa, đều là tự lừa đảo, hầu an tâm theo đuổi ước vọng hay mưu đồ nào đó. Đâu phải đơn giản mà câu nói của Blaise Pascal, “Người ta đâu phải là thánh, chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú,” lại có thể đứng vững qua bao nhiêu năm giữa bao biến chuyển, thăng tiến của cuộc đời. Khi anh nói về phương pháp đối diện chính mình bằng cách thực sự chân thành viết xuống tất cả những gì xảy đến và phản ứng cũng như nhận biết nơi mình trên giấy trắng mực đen, tôi nghĩ anh đã nghiệm được câu, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương.” Đồng ý rằng, những câu nói, kinh sách, hoặc lý thuyết, quan điểm đều là sản phẩm của con người, không có bất cứ gì tự trời rơi xuống dẫu được gán cho là thần này, thánh kia dạy bảo thế nọ, khuyên răn thế khác. Thực ra, không có con người, sẽ chẳng có thần, chẳng có phật gì ráo trọi; bởi không có con người thì có gì mà nói, có gì mà suy, và vì thế sao có thể nhận biết. - Bởi vậy, căn bản, gốc gác, điểm khởi đầu cho bất cứ suy tư, suy nghĩ nào, đều bắt nguồn từ sự nhận biết chính mình, và phải tự nơi mình. Tất cả những gì cho dù khôn ngoan, thông thái bên ngoài, đều chỉ là phương tiện hay cơ hội. Và tất nhiên, nhận biết sự thể này hay không đều tùy thuộc tâm hồn mình có đủ can đảm đối diện với chính mình hay không. - Bác nói can đảm đối diện với chính mình là sao? - Có gì mà quan trọng hóa thế. Anh đã thực hiện nhưng có lẽ không để ý. Thử hỏi, được mấy người nơi cuộc đời này, nói cho đúng, được mấy người từ ngàn xưa tới nay dám đặt bút, thực lòng chân thành viết xuống tất cả những gì mình cảm nhận về chính mình, tốt cũng như xấu, hay ho, tốt lành cũng như chẳng ra gì. Dám thực sự nhận biết mình thế nào bằng cách trực diện, dĩ nhiên cần sự can đảm cùng cực. Dân tộc Nga có câu chuyện huyền thoại, “Số là có một con rồng lần đầu tiên nhìn bóng của nó phản chiếu trên mặt nước, thấy xấu xí quá, nó kinh hoảng chết ngay lập tức” (Chấp Nhận Cuộc Đời; Luise Rinser; NH Lê dịch; Tr.102). Tác giả dùng hình ảnh con rồng trong truyện huyền thoại mà còn phải kinh hoàng chết ngay lập tức thì phỏng có ai đọc mà đủ can đảm dám thử; nếu ai dám thử không phải là họ can đảm tuyệt vời ư? Nói cho đúng, đối diện với sự việc, sự thể cuộc đời, cùng lắm thì bị hoảng hốt rồi cũng qua, nhưng đối diện chính mình cần năng lực can đảm, hay được gọi là dũng cảm. Thử duyệt qua tâm trạng của anh thì biết, nếu anh chưa nhận ra con người mình thực sự đốn mạt, ma mãnh, đểu cáng thế nào, sao có thể nhận biết lòng độ lượng, tha thứ, và tuyệt đối thương xót của Thiên Chúa, nếu nói theo quan niệm Công giáo nơi anh. Thử đặt anh nơi vị thế của Thiên Chúa xem sẽ có phản ứng thế nào đối với sự thể được gọi là anh, có phải là muốn vật chết chính mình ngay lập tức không? Thế sao anh vẫn còn đang sống. Vậy Thiên Chúa của anh là gì, thế nào, liên hệ với cuộc đời, thân xác anh ra sao? - Anh cũng như mọi người đều tin rằng mình có linh hồn vậy linh hồn anh thế nào dẫu đã nghiệm được mọi phần tử cơ thể của anh, cũng như con người, thân xác, và cuộc đời của anh chỉ là phương tiện cho cái hồn hoạt động. Có phải vì cần trả lời những câu hỏi như thế này, anh lại cần đọc sách, cần suy nghĩ, để tìm câu giải đáp không. Nhưng đọc sách nào nếu không phải là những kinh sách đạo học. Chắc chắn rằng anh sẽ không thể có được câu trả lời nào cho thỏa đáng nơi sách vở tôn giáo; bởi tôn giáo chỉ là tổ chức nhân sinh, con đẻ của nhận thức đạo học, và vì tôn giáo giải thích, giải nghĩa đạo học dưới nhãn quan luân lý, đạo đức hữu vi, với mục đích quảng bá, chiêu dụ tín đồ, dựa trên cảm nhận e ngại trả giá cho những lầm lỗi, thiếu sót của con người dưới nhãn quan luân lý, đạo đức. Nói cho đúng, sở dĩ anh không thể tìm thấy những câu trả lời nơi sách vở tôn giáo bởi chúng là sản phẩm của những tác giả thiếu nghiệm chứng; nói theo thánh Phao lô nơi Kytô giáo của anh, đó là thiếu nghiệm xét. Thử đặt câu hỏi đơn giản, phỏng những bậc rao giảng nơi Kytô giáo có biết nghiệm xét là gì, có biết áp dụng nghiệm xét vào suy nghĩ, suy tư lời Kinh Thánh ra sao không? Thí dụ, làm sao áp dụng câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta” trong cuộc đời một người? Phỏng đức Giêsu đến, hay được sai đến để dạy người ta bất hiếu sao? Phỏng đã có vị nào trong Kytô giáo trình luận án về câu Kinh Thánh này hợp lý, hợp tình để có thể áp dụng, hay chân thành thực hiện trong cuộc đời một người mà có thể kiến tạo nên nỗi an bình như đã được hứa ban chăng? Suy nghĩ, suy nghĩ cách nào chắc anh đã rõ, nhưng làm sao có thể giãi bày lý do tiếc nuối mười mấy năm uổng công sức và tiền bạc đọc sách? Phỏng nguyên nhân có phải chỉ là phương cách đọc sách, phương cách suy nghĩ, suy tư? Dĩ nhiên, mọi sự nơi cuộc sống đều chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến nhận thức; nói cách khác, tất cả đều là cơ hội để con người nhận biết thực thể hiện hữu của mình là gì, nhưng sao đã bao ngàn năm con người vẫn còn lận đận, vẫn còn ngụp lặn trong vòng vô minh, nếu nói theo nhà Phật, vẫn chưa nhận biết thực thể mình thế nào. - Bởi thế, tôi đề nghị anh bỏ thêm thời giờ suy nghĩ và so sánh những câu phát biểu nơi mấy cuốn sách đạo học với nhau, may ra sẽ rất ích lợi cho sự vận khí phát triển nội lực. Thực ra, nói về thăng tiến nội lực thì còn tùy thuộc thực hiện vận hành khí huyết; tuy nhiên, nếu để tâm suy nghĩ, áp dụng câu nói, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời,” anh sẽ thấy lắm điều ngạc nhiên. Thí dụ, anh thấy được những câu nào nơi các đạo học tương đương với câu, “Gặp phật, giết phật; gặp tổ, giết tổ?” - Sao bác nghĩ ra lắm phép, nhiều trò thế? - Không thế mà tôi dám rủ anh về đây à? Có lẽ anh hơn tôi về khả năng ứng phó và chấp nhận cuộc đời, cũng như phân biệt lợi ích, đồng thời dám thử bất cứ gì, ngay cả thái độ thách đố cuộc sống hầu tìm ra giá trị con người trong lẽ sinh tồn. Những tính chất này đòi hỏi cũng như chứng tỏ một năng lực tiềm ẩn khá cao. Tuy nhiên, gần hai năm trời, dẫu vô tình, nhưng cứ phảng phất gặp anh, tôi cảm thấy hình như chúng ta có duyên phận gì đó; nhất là khi hỏi anh có muốn đi với tôi, anh dám nhận lời không đắn đo khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, dẫu được anh cho biết ý định thử sáu tháng hay một năm. Thế rồi, nội trong ba tuần, qua những trang sách đạo học, anh đã nhận ra vận khí, điều kiện căn gốc thăng tiến của võ học. Anh biết tôi phải mất bao lâu không? Hơn kém 30 mươi năm. Đâu phải đơn giản mà tôi thừa giờ nói chuyện phân tích cơ cấu của âm nhạc với anh đâu. Đối với tôi, như anh thấy, tôi không sử dụng bất cứ nhạc khí nào, ngoại trừ cây guitar. Dẫu có ít lần tôi thử tự tập đánh trống, thổi sáo, thổi harmonica, hay piano nhưng chỉ thử cho biết mà thôi. Sở dĩ không chơi nhạc nhưng có thể đào sâu vào âm nhạc chỉ vì tôi thường đặt câu hỏi tại sao để tự tìm hiểu và trả lời, đồng thời nếu có cơ hội thử, thử bất cứ điều gì hầu kiếm cho ra nguyên tắc. Tuy nhiên, cũng chính vì hiếu kỳ, muốn thỏa mãn hiểu biết bất cứ thắc mắc nào nên đã mấy lần gần tẩu hỏa nhập ma; cũng may mà gặp được mấy trang bản thảo. - Nói cho đúng, bảo là duyên, tôi không chịu; cho rằng phận số, tôi thấy chỉ phần nào; bởi hình như, nếu tôi không lầm thì tâm ý, thao thức, khát vọng muốn nhận biết, cộng thêm bản tính thách đố cuộc đời, không chịu chấp nhận bó tay trong mọi hoàn cảnh, đã giúp tôi vượt qua hầu hết khó khăn trắc trở nơi cuộc sống. Ai nói chi thì nói, lý thuyết nào dù được ca tụng đến đâu tôi cũng đặt vấn đề xét lại, dùng nhận thức, lý luận để nghiệm chứng đồng thời thử, thực chứng nơi bản thân xem có hợp lý, hợp tình trong trường hợp hoặc trạng thái nào chăng. Có điều, nếu nói về nhẫn nhịn hoặc chấp nhận để chỉnh đốn, thay đổi nơi hành trình thăng tiến nhận thức, có lẽ anh hơn tôi. Đừng vội phản bác, hãy để tôi chứng minh. Anh đã không có bất cứ ý định trả thù năm người hùng nhau đánh anh một trận thừa sống, thiếu chết, phải bóp thuốc, dưỡng thương suốt hai tuần mới bước được ra khỏi cửa nhà người chị, nhưng lại cảm thấy biết ơn những kẻ đã đánh anh vì cho rằng, nhờ cơ hội đó học được bài học lễ độ cuộc đời. Thái độ này đáng được kính phục chứ? Hình như anh coi thường, mà chấp nhận nó như một bản tính, nhưng đối với tôi, không dễ chi chấp nhận và quên được. Tôi còn đang chờ xem cảm ứng hay kết quả ứng dụng vận khí nghịch pháp luân của anh thế nào. Tôi chưa bao giờ thử nên không muốn bình luận chi. Thế nên đề nghị anh suy nghĩ để so sánh kiếm ra điểm chung của mấy đạo học Đông phương hầu thăng tiến nơi nhận thức đạo học và may ra có thể áp dụng nơi võ học. - Bác nói sao, nếu… - Có gì mà lo, nếu thất bại hoặc cảm thấy không hợp lý, thuận chiều, hay cùng lắm thì đã biết phương pháp giải. Có lẽ anh chưa để ý phân tích tính chất của những câu nói nơi kinh sách; bởi chúng được ráp nối như được viết thành sự việc, hay sự kiện nào đó, bất chợt, câu kết khiến tâm trí độc giả chẳng ngờ, đôi khi cảm thấy tá hỏa đâu khác chi bị viên đá ném vào đầu. Thí dụ, tôi thử lấy một câu nơi Phúc Âm cho anh dễ nhận ra. Câu truyện người gieo giống, có hạt rơi bên vệ đường bị chim ăn mất, có hạt rơi trên sỏi đá, đâm mầm và vì thiếu nước chết queo, lại có những hạt rớt vào bụi gai, mọc lên bị chèn ép, chẳng sinh lợi lộc gì, còn đa số được rãi trên đất tốt sinh sôi nảy nở. Và câu kết thế nào? “Ai có tai thì nghe.” Thử phân tích câu truyện này anh thấy lắm điều coi bộ hợp lý nhưng khá nghịch luận không. Thử xét việc đem hạt giống ra đồng, sao có thể rơi bên vệ đường, trên sỏi đá, nơi bụi gai. Có ai đựng hạt giống nơi chiếc bị hoặc chiếc thúng lủng không? Bộ người ấy đường không đi lại vượt lối tắt hay sao mà hạt giống có thể rơi nơi bụi gai; vả lại có ai dốt đến nỗi cứ xông vào bụi gai mà đi thay vì đi trên đường; hơn nữa, sao có thể đi qua bụi gai cho dù có giầy, dép như ngày nay, phương chi với đôi chân trần của thời xa xưa? Và câu kết thì sao, “Ai có tai thì nghe.” Quả là vớ vẩn, vừa giải thích tùm lum tà la, lại nói “có tai thì nghe,” thế thì giải thích làm gì? Thử hỏi, câu truyện có hợp lý, hợp tình không? Điều phi lý hơn lại là, nó đã và đang đứng vững cả hai ngàn năm, chịu đựng, thách đố biết bao biến chuyển rồi đó. - Có phải chính điều nghịch thường thách đố, kích thích, hoặc khuyến khích tâm trí suy nghĩ, đặt vấn đề hay không? Thế nên, đọc sách mà không để tâm ngưng lại, suy nghĩ, đặt câu hỏi nghịch luận để giải đáp chẳng khác gì tự giết cuộc đời của mình, giết thời gian, một lối từ từ tự tử trong vui vẻ, kiêu hãnh với sự hiểu biết hữu vi, uổng phí bao cơ hội thăng tiến nhận thức và tuyệt vô bổ. Tôi nghĩ, anh cũng đã nhận biết, những câu nghịch thường nơi kinh sách đạo học là kết quả hay thành quả của diễn tiến suy nghĩ, suy tư nơi tâm trí trong phương diện hay trạng thái nào đó. Nếu độc giả không nhảy vào câu truyện đóng những vai trò, vị thế của những nhân vật hay sự kiện để nhận định biến chuyển nơi tâm tư thì quả là coi thường công sức chẳng những tác giả mà còn chứng tỏ khinh chê, tác phẩm. Thiệt thòi, uổng phí thời gian do không biết phương cách đọc sách mà ra. Nơi trường hợp, giả sử kết quả nghiệm xét cá nhân của tác giả không hợp với mình thì sao? Xin thưa, thì mình có nhận thức chỉnh chu hơn, đàng nào thì cũng mang lại lợi ích; mà nếu nhận thức của tác giả nghịch với mình, lại càng có lợi hơn; vì mình đã có cơ hội suy nghĩ thâm trầm hơn. Có câu nói, “Đường ngắn nhất để tiến tới chân lý lại là con đường nghịch luận.”