← Quay lại trang sách

- 2 -

Tôi nghe nhưng trong lòng cứ thắc mắc về đề nghị so sánh điểm chung của mấy đạo học Đông phương. Lẽ đương nhiên, nếu để tâm nhận định sơ sơ cũng có thể nhận ra các câu nói nơi những sách vở đạo học đều thuộc loại ý tại, ngôn ngoại; thế thì điểm chung lại ở nơi ý chứ không phải nơi ngôn từ hay lời phát biểu, câu nói. Phương cách nào để tìm điểm chung, tôi tự hỏi, phải làm sao, mặc dầu, mờ mờ nơi tâm trí thấy có gì đó tương đồng, nhưng tại sao ông Tầm lại khuyến khích nên so sánh; so sánh để làm gì, do đó lên tiếng, - Bác nói so sánh những điểm chung nơi sách đạo học; tuy nhiên, so sánh điểm chung nơi phương diện nào, thực nghiệm hay ý niệm, lý thuyết, quan điểm, hoặc nơi phương diện quảng bá, lề luật, hay thực hành, áp dụng? - Không ngờ anh thông minh và có cái nhìn sâu rộng hơn tôi nghĩ. Tôi chỉ đơn giản nêu lên đề nghị so sánh ít điểm chung nơi một vài đạo học trong khi phân tích đặc tính của những lời phát biểu nghịch thường ở kinh sách; mà anh đã phân tích vấn đề thành một số phương diện của những câu nói. Có lẽ anh đã nhận thấy, đặc tính chung của những câu nói đạo học là gây ngạc nhiên, bất thường nơi tâm trí độc giả; đang nói đàng nọ, xọ sang đàng kia dường như chẳng ăn nhập chi với chủ đề đang được nêu lên và thường có vẻ nghịch thường với diễn trình lý luận cũng như luân lý và đạo đức nhân sinh tạo nên sự ngỡ ngàng chẳng khác gì tác giả vô tình nói sai lệch. Đôi khi có những câu nói quá thường tình đến nỗi khiến tâm trí độc giả coi rẻ mà bỏ qua, không thèm để ý; chẳng hạn, “Lời ta nói như chiếc bè,” hoặc, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng.” Anh là người Công giáo nên có lẽ chẳng lạ gì với mấy câu, “Ai có tai thì nghe,” hoặc, “Tin mừng nước trời,” hay, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay những câu chuyện dụ ngôn, “Mười nàng trinh nữ, ba người làm công.” Có điều chúng ta thường ít để tâm nghiệm chứng về những câu này bởi chúng được viết thành câu kết luận của một vài sự kiện đang diễn tiến dưới dạng hữu vi. Có lẽ anh cũng đã nhận ra được, những câu nói bất thường hay quá thường tình này là thành quả, kết quả của nghiệm chứng; nghĩa là chúng nói về tâm linh, chúng nói lên diễn tiến, trạng thái tâm tư đang xảy ra nơi người đọc. Thế nên, nếu so sánh, chỉ có thể so sánh ý niệm, thực nghiệm về diễn trình tâm tưởng. Nói cho đúng, dẫu những câu đó nói về sự việc, sự kiện hữu vi, nhưng câu kết luận lại nói về sự gì đang biến chuyển nơi tâm tưởng độc giả mà thường thì đang nơi tiến trình đọc sách, người đọc thường chỉ để ý sự kiện, sự việc được nêu lên. Tác giả của kinh sách đạo học nói về diễn tiến trạng thái tâm tư, tâm linh; dùng sự kiện, sự việc nhân sinh để khuyến khích, kích thích, thách đố độc giả nhận ra chuyện gì, điều gì đang xảy đến nơi tâm tư người đọc, nhưng người đọc đã không để ý. Thử hỏi, mắc mớ chi phải nói, “nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng;” phỏng có phải điều này muốn nói lên điều gì không đúng nơi lối nhìn của độc giả. Anh theo đạo Công giáo cả đời, được nghe nhắc đi nhắc lại phải tin vào Thiên Chúa, phải tin vào đức Giêsu; thế anh có biết tin vào Thiên Chúa là thế nào không; tin vào đức Giêsu là tin làm sao. Tin vào ai là tin vào, cho rằng, những gì người ấy nói hay thực hiện là điều có thật hay sẽ xảy ra; nhưng nếu không biết Thiên Chúa là gì thì tin vào Thiên Chúa là tin thế nào; không biết tin mừng đức Giêsu rao giảng thì tin gì, hay chỉ lặp lại thành ngữ, sáo ngữ, tin vào, tin ra, hoặc cùng lắm chỉ tin vào danh hiệu; mà danh hiệu đâu phải là thực thể. Có những người ăn uống không có ớt sẽ cảm thấy mất thi vị để rồi ca tụng, bày tỏ, giải thích lợi ích của ớt thế này, thế nọ, nhưng anh có tin theo và ăn theo họ không, phương chi nói tin vào Thiên Chúa? - Nhưng, bác có biết phương cách nào để có thể so sánh nhanh nhất? - Càng nói chuyện với anh, tôi càng cảm thấy thú vị; sao anh học ban C mà lại có lối đặt vấn đề kiểu này? - Có lẽ tại lười chăng, bác thử nghĩ, không nói chi nhiều, chỉ đọc lại một vài cuốn kinh, suy nghĩ từng câu để kiếm ra điểm tương đồng nào đó nơi kinh khác, thì đến bao giờ; ấy là chưa nói đến cuốn Kinh Thánh Tân Ước cháu chưa kịp đọc lại. Dĩ nhiên, khi đọc mấy cuốn kinh nơi đạo học Đông Phương, cháu đã cảm thấy lờ mờ vài điểm tương đồng nào đó mặc dầu ngôn từ phát biểu kể như hoàn toàn khác biệt. Thế mà bây giờ phải đọc lại, ghi chép rồi phân tích, so sánh để nhận ra những điểm tương đồng thì nào có khác chi đội đá vá trời? - Nói hay, lý luận, và phân tích hay, nhưng tôi nghĩ, nếu để anh tự nhận định thì cũng chỉ tối đa một hoặc hai ngày là anh có thể kiếm ra phương cách xử lý sự việc. Thôi thì nói ra cũng không ảnh hưởng chi tới nhận thức của anh. Tôi đề nghị thế này, anh đã theo học nơi chủng viện, nên đọc và nghe nhiều về Kinh Thánh, do đó hãy dùng Kinh Thánh Tân Ước làm tiêu chuẩn so sánh là thuận lợi nhất. Vấn đề chỉ tùy thuộc sự thể khả năng áp dụng nhận thức câu, “Được ý quên lời” của Trang Tử thế nào thì tùy. Bởi vậy, trước hết đọc lại cuốn Kinh Thánh Tân Ước, rồi dùng nhận thức về Tân Ước làm gốc để so sánh thì nhanh hơn. Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta nên ngừng đàm luận nơi đây, sau khi anh đọc lại Tân Ước rồi sẽ nói chuyện. Hơn nữa, giờ này cũng đã muộn, nên đi ngủ thôi. Dĩ nhiên, là người Công giáo, lại được trưởng thành từ nền giáo dục tiểu chủng viện, thế nên, cũng như mọi tín đồ, tôi rất tôn trọng Phúc Âm. Ai không biết Phúc Âm là tin mừng, là lời Chúa, nhưng tại sao ông Tầm lại nói, tin mừng đức Giêsu rao giảng. Nguyên nghĩa của danh hiệu Phúc Âm đã là tin mừng, sao lại phân biệt tin mừng đức Giêsu rao giảng; chẳng lẽ tin mừng đức Giêsu được sai đến khác với Phúc Âm. Ông Tầm chủ ý nói vậy hay vô tình; ông đâu theo đạo Công giáo. Cho tới thời điểm này, do có thời giờ để tâm hơn khi đọc kinh sách, tôi đã, một cách nào đó, nhận thực được mọi sự, mọi việc, dẫu được coi là vô tình hay hữu ý, đồng thuận hay đối nghịch với quan điểm, hay ưa thích của mình, đều là cơ hội hay phương tiện cho mình thăng tiến nhận thức. Chính ngay nơi những giấc mơ cũng cần được để tâm tìm hiểu, để tâm đặt vấn đề. Sự hiển nhiên như mọi người nghĩ đã xảy đến với tôi và đã bao lâu nay đã không hề đánh động được tâm tư; chẳng hạn, con mắt nào nhìn trong giấc mơ. Tôi đã chứng thực sự kiện đã nhìn thấy trước trong một giấc mơ. Mấy cuốn kinh sách đạo học phân tích, trình bày những sự kiện, sự việc rất thường nơi ngay mọi người, ai cũng nhận thấy và được chấp nhận là sự bình thường. Tuy nhiên, khi để tâm suy nghĩ, đặt vấn đề, chúng lại trở thành gốc gác cho suy diễn vấn đề cần được để tâm tới. Hèn chi, mọi sự trong cuộc đời đều là cơ hội hay phương tiện cho một người suy tư, nghiệm xét để tăng thêm nhận thức, nhưng được mấy ai để ý! Tuy nhiên, nói gì thì nói, tuyên xưng, tuyên dương, quảng bá gì thì cứ việc, miễn sao ít nhất phải hợp lý, hợp tình, có thể chấp nhận được. Tôi không hiểu sao, dẫu theo học ban C nơi trung học, lại thêm hai năm học văn chương ở đại học Văn khoa, được dạy dỗ, được nghe giảng giải về tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, vào đức Kitô nhưng hình như mối nghi ngờ to lớn nào đó cứ trầm trầm đè nặng nơi tâm trí. Tôi theo đạo, đọc kinh, cầu nguyện hằng ngày nhưng cứ cảm thấy mình cầu như không, chẳng được bổ ích, lợi lộc gì. Hình như Chúa chẳng tử tế gì với tôi; Ngài làm theo ý của Ngài, không theo ý tôi cầu; bởi thiên hạ tuyên dương phép lạ này, thành quả kia, mà tôi chẳng hề nhận được gì theo lời cầu, hầu chứng thực niềm tin, đức tin, và mãnh lực tin tưởng của tôi. Nói đúng sự thật, tôi chưa bao giờ đọc hết cuốn Kinh Thánh; hay rõ hơn nữa, cũng chưa bao giờ đọc hết mọi phần trong Tân Ước, nhất là các thư. Hình như chỉ phúc âm Mác Cô là tôi đã đọc hết được một lần vì nó ngắn. Lần này có thời gian, tôi sẽ đọc hết cuốn Tân Ước. Có điều, xem chừng những lời giới thiệu, “Hội thánh không loan báo, không giảng dạy điều gì khác ngoài lời Chúa;” thêm vào đó, khẳng định, “Người tín hữu chúa Kitô là người luôn khao khát được nghe, được đọc lời Chúa và có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa;” khiến đầu óc tôi lùng bùng tự hỏi, bao năm tôi chỉ được nghe giảng giải về lời Chúa dưới nhãn quan luân lý và đạo đức nhân sinh; đồng thời nếu nói rằng người tín hữu chúa Kitô là người luôn khao khát được nghe, được đọc lời Chúa, thì thử hỏi, được mấy người đọc Tân Ước chứ chưa nói đến toàn bộ Kinh Thánh. Sự thể này tự phát từ dân Chúa, từ người tín hữu, hay đó chỉ là sự tưởng tượng, một mơ tưởng. Chính tôi là người được theo học nơi tiểu chủng viện, lại dùng sự siêng năng học hành như nghĩa vụ báo đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng, của bố mẹ mà còn mới đọc hết phúc âm Mác cô được chỉ một lần, thì tuyên bố rằng khao khát được đọc được nghe là thế nào, có đúng sự thực không? Sở dĩ tôi đặt vấn đề như thế bởi mới đọc được 6 chương nơi phúc âm Matthêu, tôi giật mình ngỡ ngàng với câu, “Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi. 34 Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy.” Bao lâu nay, tôi cố gắng tìm hiểu mục đích cuộc đời của mình là gì, mình được sinh ra để làm gì. Trời, câu trả lời đã hơn kém 2.000 năm được in rành rành ra đấy mà không biết. Tìm kiếm nước trời, tin mừng nước trời; muốn biết nước trời, cần biết tin mừng đức Giêsu rao giảng. Đức Giêsu rao giảng gì? Theo phúc âm Matthêu, đức Giêsu rao giảng giống Gioan, “Trong những ngày ấy Yoan Tẩy giả xuất thân rao giảng trong sa mạc xứ Yuđê, rằng: "Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Vậy nước trời là gì, đã gần bên, sao cần tìm kiếm? Hình như nơi bản dịch khác, câu Mt. 6:33 được viết, “Tiên vàn, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Ngài;” tôi thích lối dùng ngôn từ nơi câu này hơn vì cảm thấy nó trang trọng hơn, nhưng lòng lại bối rối vì hai ý nghĩ nhập nhằng giằng co chưa biết quyết định thế nào, hoặc là nên từ từ đọc cho hết cuốn Tân Ước rồi tính sau, hoặc tìm cho ra Nước Trời là gì và tin mừng đức Giêsu rao giảng như thế nào; bởi đây là mục đích cuộc đời khiến tôi thao thức nhận biết bao lâu nay, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa.” Hơn nữa, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17) là thế nào? Hối cải là thế nào, hối cải điều chi? Ngôn từ hối cải được dịch từ đâu ra? Nếu nước trời đã gần bên thì cách nào để nhận biết, tại sao không nhận biết mà cần hối cải; hối cải nơi phương diện, trạng thái nào; nước trời là gì, tin mừng nước trời là gì. Phần Phật học của bản thảo có ghi lại nơi kinh Tăng Nhất Tập lời kệ, “Đừng tin điều gì do kinh sách. Đừng tin điều gì do tập quán lưu truyền. Đừng tin điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại. Đừng tin điều gì do bút tích của thánh nhân. Đừng tin điều gì do người ta tưởng tượng ra rồi gán cho thần phật nói. Đừng tin điều gì vì uy tín của thày dạy. Nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trãi, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Lòng tin ấy sẽ thăng hoa đời con, và các con hãy lấy đó làm tiêu chuẩn.” Và nơi kinh nào đó của nhà Phật cũng ghi lại lời Thích Ca, “Đừng vội tin những gì ta nói mà hãy nghiệm chứng. Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Quái, nhà Phật thì đừng tin bất cứ gì; Gioan và đức Giêsu thì hối cải. Hối hận, hối thúc, hối lỗi, ăn năn; lại còn “cải,” mang nghĩa thay đổi, cải thiện, chỉnh đốn. Chỉnh đốn gì, cải thiện gì, thay đổi điều chi. Huệ Năng chỉ cần “Kiến tính,” nhưng ngồi nhiều sinh bệnh nên hành thiền. Kiến tính là mình ên suy nghĩ, suy tư, không lệ thuộc, không dựa vào bất cứ gì. Ah, kiến tính, suy tư nói về tâm trí. Như vậy, hối cải cũng thuộc về tâm trí. “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Bí cứng vì không hiểu hối cải thế nào, nơi phương diện chi và nước trời là gì. Không muốn ngưng đọc thì cũng đã ngưng để suy nghĩ, tìm hiểu. Không tin bất cứ gì để tự mình ên “Ưng vô sở trụ,” lại càng mù tịt. Chủ đích của tôi là gì lúc này? Tôi muốn nhận biết những điểm chung của mấy đạo học, nhưng vừa đọc được mấy câu, thì đã chẳng khác gì như rợ vào rừng. Nơi đạo học Đông Phương, linh hồn, tính, là Thượng Đế, Thiên Chúa nội tại, và tất cả các đạo học đều dồn về một điểm, và đó là có một quyền lực tối thượng, được mệnh danh khác nhau, đang hiện diện và hoạt động mọi nơi, mọi loài. Kiến tính là nhận biết, nhận thực sự thể này, nhận biết linh hồn. Vậy linh hồn, tính, liên hệ đến nước trời, đến tin mừng ra sao. Nước trời là gì, tin mừng nước trời là gì. Tại sao lại nói, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Gần bên là thế nào? Thôi đành tiếp tục đọc Kinh Thánh Tân Ước để xem “Nước trời,” và “Tin mừng nước trời” là gì. Tôi quyết định. Quyết định đọc là một chuyện; đọc để phân định cho rõ ràng những gì, lại cần được sắp xếp phân chia thành từng mục để có được nhận định đúng đắn thì cần được xếp loại từng phần cho khỏi bị lộn xộn đầu óc khi suy nghĩ cũng là điều cần thiết. Nếu áp dụng, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” thì lấy gì làm căn bản cho lý luận khi suy tư. Có lẽ nên cảm ơn tác giả tập bản thảo vì đã phân tích phương pháp nơi hành trình tìm hiểu, nhận biết, chứ nếu cứ “Ưng vô sở trụ” thì cho đến bao giờ mới có thể “Nhi sinh kỳ tâm!” “Có ba con đường đồng hành nơi hành trình nhận thức thực thể chính mình tùy căn cơ mỗi người. Ai được sinh ra với lòng khát vọng mạnh mẽ, cuộc đời họ sẽ đi vào con đường chiêm nghiệm dù hoàn cảnh sống thế nào. Con đường khác, nhà Phật mệnh danh là minh triết, con đường thức ngộ nhanh nhất là dùng kiến thức, khả năng suy lý một cách ý thức để thức ngộ. Và hành trình còn lại đối vớiđại đa số quần chúng là tôn giáo.” Theo đường chiêm nghiệm thì hãy dành cho các tu sĩ đội đèn nhà Phật; tôi cảm thấy vui vui, nực cười, khi mường tưởng vị sư nào đó ngồi chăm chú quán tưởng rồi “vô thức đồng ý, gật một cái,” thế là đèn đổ ào xuống khiến dầu loang ra tấm áo cà sa dẫn lửa bốc lên và sư “hốt ngộ,” không phải, nhà sư hoảng hốt giật mình để rồi bị phỏng, hay may mắn lắm cởi phăng cà sa đang cháy lộ rõ thân mình trần trùng trục, cuống cuồng dập lửa. Ôi, vị thầy chùa nào phát minh ra phương cách “đội đèn quán tưởng,” quả là tuyệt vời minh mẫn. Nếu theo hành trình của đại đa số quần chúng thì đã bao lâu nay tôi chấp nhận tin tưởng, cầu nguyện mà vẫn chưa biết nước trời, tin mừng đức Giêsu rao giảng là gì, ấy là đã được học hành nơi tiểu chủng viện. Minh triết cần kiến thức, cần sự suy lý thì phải đọc, phải suy nghĩ, phải phân định cho rõ ràng, ngủ thôi, tôi tự nhủ. Mà nào có ngủ được, tại sao lời rao giảng đầu tiên của đức Giêsu lại cũng giống như Gioan công bố, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17)? Có phải dân chúng Do Thái thời đó khát khao nhận biết sự thể “Nước trời” hay sao mà Gioan khuyến dụ cần hối cải để nhận ra được nước trời đã gần bên. Hối cải là thế nào? Dân chúng đổ dồn về nghe Gioan rao giảng bao gồm đủ mọi hạng người chứ đâu phải tất cả đều thuộc loại đầu trộm, đuôi cướp thì sự hối cải phải là điều cần thiết và nên có nơi hết mọi người. Hối cải là thế nào? Tại sao nơi chương 1 của phúc âm Matthêu lại được viết, “Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng: Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt. 1:22-23)? Tên Ngài là Giêsu, tại sao lại viết, “Và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel?” Hình như có điều gì trục trặc; nhớ lại ngày xưa, nơi bản tiếng Anh nào đó được viết, “And they shall call him Emmanuel.” Tên là do cha mẹ đặt cho. Người ta gọi ai đó là gì thì đó là danh hiệu. Như vậy hình như mấy ông bà học giả, học thiệt, soạn thảo phúc âm Matthêu đã dịch theo nghĩa từ chương lại thiếu tính chất văn chương, nếu không muốn nói là thiếu suy nghiệm, suy nghĩ. Nếu đức Giêsu có tên là Emmanuel thì sao lại cứ gọi ngài là Giêsu? Hơn nữa, danh hiệu của một người nói lên thành quả công việc, hay chức vụ, hoặc vị thế của người đó. Gọi thánh Gioan làm phép rửa là Gioan Tẩy Giả thì “Tẩy giả” là danh hiệu của ngài vì tên của ngài là Gioan. Danh hiệu của đức Giêsu là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi,” chẳng lẽ ngài được coi là Thiên Chúa ở với loài người? Thiên Chúa được gọi là ông Trời, ông Xanh, Thượng Đế, Brahma, Chân Như, Tào, Quyền Lực Hiện Hữu, Thực Tại Siêu Việt. Không ai gọi đức Giêsu là Quyền Lực Hiện Hữu bao giờ, cũng không tác giả nào ghi nơi sách vở kiểu này. Như vậy Emmanuel chỉ về sự việc, công việc, nhiệm vụ của đức Giêsu. Nhiệm vụ, sự việc này liên hệ đến, “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.” Nói cách khác, Ngài rao giảng, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi; Thiên Chúa ở cùng chúng ta; thế nên Emmanuel là danh hiệu. Phỏng như vậy, công việc mà đức Giêsu thực hiện là rao giảng, “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi?” Thế sao lại viết, ngài rao giảng “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên,” giống như Gioan khuyến dụ? Nói rằng Gioan rao giảng, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên,” điều này chứng tỏ dân chúng khao khát nhận biết nước trời và theo Gioan, muốn nhận biết nước trời cần phải hối cải. Đức Giêsu cũng rao giảng như thế thì nước trời có liên hệ chi đối với danh hiệu của ngài? Danh hiệu cũng như giá trị của một người do chính người đó tạo ra. Chợt nhận ra tâm tư luẩn quẩn với khúc mắc nhận định lung tung, tôi tự giục mình phải ngưng, ngủ là cần thiết, ngày mai, đọc Tân Ước xem sao. Sự lý luận kiểu “Ưng vô sở trụ” này chỉ rối tung lên thôi. Sáng hôm sau, đi chợ, tôi mua một cuốn vở, một cây bút bi, rồi về nhà viết nơi mỗi trang một đề tài, chẳng hạn, nước trời, hối cải, gần bên, tin mừng nước trời, đức tin,…, rồi cặm cụi đọc đọc, ghi ghi, chép chép, từng câu phúc âm có liên hệ vào trang mang đề mục được ấn định. Kể ra tôi cũng thông minh, nhưng khi làm việc này, mới thấy, quả thật, xưa nay, nhiều vấn đềtôi đã tưởng mình nhận biết nhưng thực ra không biết gì. Thí dụ, nghĩ rằng, cho rằng mình tin vào Thiên Chúa nhưng chẳng biết Thiên Chúa là gì thì tin vào điều chi, hay chỉ tin vào danh hiệu. Nói rằng tin vào Thiên Chúa nhưng coi chừng thực ra vô thần, chỉ lặp đi lặp lại những thuật ngữ, sáo ngữ chẳng khác gì chiếc máy thâu băng. Có lẽ tệ hơn vô thần vì vô thần có nghĩa không nhận ra thực thể chính mình là gì, là ai; còn tôi, cũng như bao người, tuyên dương, tuyên xưng rằng tin thế nọ, tin thế kia nhưng cũng chẳng khác chi con vẹt, chỉ biết luẩn quẩn với điều mình không biết, với những danh xưng một cách ngu ngơ, rỗng tuếch. Cho rằng mình thông minh cũng không sai, nhưng dốt, thông minh dốt, tôi tự diễu. Cuối cùng tôi cũng nhận ra được vài điểm tương đồng nơi các đạo học; chẳng hạn, - Nơi Lâm Tế Lục có câu, “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ” thì phúc âm nhắc đi nhắc lại với nhiều kiểu cách khác nhau. Nào là, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:29-30), hoặc “Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà. Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt. 10:35-39). "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa". Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã". Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:60-62). - Nhà Phật nói “Kiến tính,” Tân Ước dùng, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt. 6:33-34); thánh Phao lô khuyên, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22). Nhà Phật khuyên nơi Tăng Nhất Tập qua lời kệ 10 điều không tin, và lời Thích Ca nhắn nhủ, “Đừng vội tin những gì ta nói mà hãy nghiệm chứng. Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Nơi Tân Ước, Phao lô dạy, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Hoặc, “Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai” (Mt. 9:16-17). “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ” (Gioan 10:8). Phương pháp kiến tính bên Đông phương là định tâm, hành thiền; nơi Tân Ước cầu nguyện, suy tư, “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt. 6:6). Bên đạo học Đông Phương, Tào của Lão, Brahma của Ấn, Chân Như của nhà Phật, hiện diện, hoạt động nơi mọi sự. Thế nên, chẳng có ta, không gì là tôi, không chi là mình, tất cả chỉ là biến chuyển của năng lực, quyền lực uyên nguyên. Phúc Âm nói về mọi kiểu cách, khía cạnh của Nước Trời, Nước Thiên Chúa, "Ở trong các ông" (Lc. 17:21), "Ở trên các ông" (Mt. 12:28; Lc. 11:20), "Ở giữa các ông" (Lc. 15:21), "Đã đến gần" (Mt. 3:2), "Như hạt cải" (Mc.4:26; Lc. 13:19), "Như men trộn bột" (Lc.13:21), bởi vậy Phúc Âm khuyến khích suy nghĩ, suy tư để nhận biết, "Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người" (Mt. 6:33) (Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). Nhà Lão nói, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” (Tao of Leadership; Tr. 4), Phúc âm ghi, “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít" (Mt. 20:16). Đây là câu kết của dụ ngôn, “Thợ làm vườn nho” (Mt. 20:1-15). Riêng đối với câu đính kèm, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít,” gây áp lực phản cảm nặng nề trên tâm trí của tôi. Nơi bản tiếng Anh cũng được viết, “So the last shall be first, and the first last; for many be called, and few chosen” (Holy Bible; National Public Co.; PA, USA). Một số người được nhận cho làm vườn nơi những thời điểm khác nhau trong ngày. Cuối cùng vào lúc hết giờ làm việc, ai cũng chỉ nhận được một đồng. Như thế, công sức làm việc tuy khác biệt, nhưng lương trả như nhau; thế mà chẳng hiểu các học giả, học thiệt thế nào lại lấy “Râu ông cắm cằm bà,” ghép câu nhận định, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít,” chẳng khác gì cố tình biến độc giả thành những con khỉ, “nhìn vô sách sẽ không thấy vị thánh hiện lên.” Có ai bị loại đâu mà đặt vấn đề chọn lựa. Không hiểu các vị học giả Kinh Thánh có biết gì về nghiệm chứng, thực chứng hay chăng, nên thay vì soạn, dịch, lại biến thành diệt lời Chúa. Tuy nhiên, cũng nên cảm ơn các vị ấy, dẫu vô tình hay hữu ý, hoặc cho dù thế nào chăng nữa, cống hiến độc giả cơ hội động não. Thiển nghĩ, hình như các vị ấy không biết gì về lời khuyên của thánh Phao lô, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3); thành ra, mãi cho tới ngày nay, lời Chúa vẫn còn cứ bị cho là huyền nhiệm. Thử tự vấn lương tâm, nếu đã không nghiệm nên thiếu nhận thức, tại sao không dám nói thẳng thừng là không hiểu, mà lại cứ rao giảng lời Chúa dưới nhãn quan luân lý thị dục, đạo đức nhân sinh, hằng luôn thay đổi tùy thời, tùy nơi? Có câu nói, “Không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vô được, và cho dù cố tình làm như thế, thì con bò cũng không thể sủa gâu gâu.” Phúc âm cực lực lên án những kẻ rao giảng lời Chúa dưới quan điểm luân lý, đạo đức thế tục, “Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13), có lẽ, cũng bởi vì thiếu suy nghĩ, nghiệm xét, nên luôn nặng nề mang tội phạm đến Thánh Thần. Đồng ý rằng, phúc âm cũng có câu, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo; kẻo chúng dày đạp dưới chân, và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6), nhưng dẫu sao thì đó cũng chỉ do lòng sốt sắng thiếu nhận thức, giá phải trả cho hợp với câu, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Vào một buổi tối sau mấy ngày nghiền ngẫm cuốn Tân Ước, tôi chia sẻ một vài nhận định tương đồng của mấy đạo học Đông Phương với ông Tầm. Ông điềm tĩnh và nhẹ nhàng nói, - Có như vậy, tôn giáo mới còn đất tiếp tục sống. Thử hỏi, nếu ai cũng để tâm nghiệm chứng kinh sách, tôi muốn nói, chỉ cần tự nghiệm được một câu, bất cứ câu nào, thì xã hội đã có bộ mặt khác, tươi sáng và thăng tiến hơn. Anh có nhớ câu nói của Tristan Bernar, “Thượng Đế đã tạo ra thế gian, nhưng chính quỷ vương mới làm cho thế gian sống,” và câu khác của Jules Renard, “Đâu phải vì đóa hoa hường mà con chim đậu trên cây hường; chính vì những con sâu bọ trên cây ấy.” Con người rất thông minh, nhưng vì áp lực nhu cầu và tham vọng nhân sinh, người ta đã không để ý tới khát vọng bẩm sinh là nhận biết, nhận thức thực thể hiện hữu của họ là gì. Nhìn lại chính mình, đã bao năm anh thao thức kiếm tìm mục đích cuộc đời của mình, trong khi câu trả lời đã hai ngàn năm nằm chình ình trong sách, và đó là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.” Dĩ nhiên, muốn biết nước Thiên Chúa là gì, cần biết Thiên Chúa là gì, lại cần biết mình là ai, linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác và cuộc đời mình ra sao. Tất cả chỉ là suy nghĩ, suy tư hay nghiệm chứng, nghiệm xét. Thử hỏi, có ai dám đối diện với chính họ; trong khi họ đang lo chạy ăn từng bữa, thì biết nói sao. Nhất là thời buổi này, nhu cầu thiết thực nhân sinh, nói cách khác, cơm áo gạo tiền, không cho phép họ dầu chỉ nghĩ đến hai chữ “Tương lai.” Người ta đang ra sức biến con người thành những con thú, ngày ngày chỉ biết lo sao cho yên cái dạ dày. Đoạn ông hỏi, - Qua những gì anh nói, nếu tôi không lầm, anh đã đọc hết cuốn Tân Ước? - Cháu mới đọc được một lần nhưng vì để tâm kiếm mấy điểm tương đồng; nên có lẽ cần từ từ đọc lại. - Không ai có thể tự hào là đã hoàn toàn nghiệm chứng được bất cứ đạo học nào; bởi những câu nói nơi kinh sách đạo học là thành quả của nghiệm chứng, và cũng không ai biết rõ ai là tác giả của câu nói nào. Anh học Văn khoa, nhưng chắc chưa có cơ hội biên khảo văn chương bình dân Việt Nam. Sở dĩ tôi nhắc đến văn chương bình dân vì nó cũng giống như kinh sách đạo học, nói một đàng, hiểu một nẻo, và không biết tác giả nào sáng tác câu nào.Thí dụ, đâu ai biết tác giả của mấy câu, “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi; mẹ ơi, mẹ hỡi mua tôi đồng riềng.” Có điều, trong khi nói chuyện, người Việt mình thường dùng văn chương bình dân mà không để ý; bởi nó chính là ngôn ngữ dân Việt. Tuy nhiên, đối với kinh sách đạo học, đó là những công án, không biết do ai đề xướng, được ráp nối thành câu truyện cho người đọc dễ nhớ. Nhưng có một điều, muốn nghiệm chứng mỗi câu, phải nhảy vào, phải đặt mình vào từng vai trò, vị thế của những sự vật, sự việc, hoặc nhân vật trong câu nói, và tự nghiệm tâm tình của mình nơi phương diện hay tâm trạng vị thế đó xem diễn tiến thế nào. Lý do cần phải như thế bởi công án, hay câu nói do chính tác giả nghiệm ra. Như vậy, khi đọc, tưởng tác giả nói về chuyện gì đó, nhưng thực ra, tác giả đang nói về chính tâm tư bản thân, cũng tương tự nói về tâm tư người đọc. Nói qua, nói lại cũng chẳng đi tới đâu. Bây giờ, anh thử nghiệm chứng câu, “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.” Tôi không nhớ rõ câu này thuộc đoạn mấy câu mấy nhưng chỉ biết nó ở nơi phúc âm Gioan, có lẽ anh còn nhớ. - Bác nói đúng. Khi đọc câu này, cháu giật mình. Giật mình không phải vì nó nghịch thường hay bất thường bởi cháu chẳng lạ gì kiểu cách diễn xuất đòi hỏi “Được ý quên lời,” nơi ba phúc âm Matthêu, Mác cô, và Luca. Cháu giật mình vì lối nói quá đa quá độ, không kiêng nể bất cứ thần thánh nào; có thể nói, tuyệt đối cao ngạo, tuyệt đối ngang ngược, “Vuốt mặt không nể mũi.” Nhưng đến khi đóng vai những vị thế trong câu nói, cháu lại bị chưng hửng. Nó cũng đồng ý nghĩa với câu nơi Lâm Tế Lục, “Gặp phật giết phật; gặp tổ giết tổ,” hay nơi lời khuyên của Phao lô, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3), hay mười lời khuyên không nên tin nơi Tăng Nhất Tập. Nói cho đúng, nếu đọc phúc âm mà không suy nghĩ, nghiệm xét, luôn luôn bị “Bé cái lầm.” - Anh có biết, phải mất bao lâu, câu này làm phiền trí óc, tôi mới có thể hiểu được nó nói gì không? - Không dự đoán được vì sự nhận thức không thể cầu; hơn nữa, cũng còn tùy thuộc cơ hội; bởi xưa nay, cháu cứ bị luẩn quẩn với những câu phúc âm coi bộ khó chấp nhận, nhưng nhờ mấy cuốn sách bác đưa và đặc biệt bản thảo, nên khi đọc Phúc âm, cháu cảm thấy khác hẳn. - Những sách này tôi đã đọc nó cỡ 15 năm trước đây, nhưng tập bản thảo mới có được nó cỡ 7 năm. Câu phúc âm cao ngạo đó làm phiền tâm trí tôi hơn kém gần chục năm trời, nhưng cũng nhờ nó mà tôi hiểu được tại sao người ta vẫn an vui chịu đựng những khổ ải cuộc đời. Nói đúng ra, họ đã không suy nghĩ, không dám đặt vấn đề vì e sợ. - Bác nói e sợ gì? Cháu… - E sợ sai lầm; e sợ vì tự kỷ ám thị rằng mình dốt nát, không đủ hay không có khả năng suy nghĩ, suy tư, e sợ vì lười suy nghĩ, vì bị hay được nghe những sự giải thích đầy suy luận hữu vi, nhân sinh, thế tục, từ các vị chân thành, hăng hái rao giảng, nhưng thiếu nghiệm chứng. Anh thử để tâm một chút nhận định những bình chú, nhận thức, giải nghĩa, của cụ Thanh Giang Nguyễn Duy Cần, của cụ Nguyễn Hiến Lê, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản; các cụ được gán cho danh hiệu học giả, nhưng có lẽ chỉ trong giới hạn từ chương, hữu vi, nhân sinh. Nói cho đúng, cũng phải thậm phục mà cảm ơn các vị ấy bởi đã dầy công sức suy luận viết sách. Ít nhất, chúng đã kích động độc giả động não. Tuy nhiên, tôi nghĩ, phải vậy mới viết được, coi chừng nếu đã ngộ, lại không viết được chi hết; bởi anh có nhớ câu nói, “Biết không nói, nói không biết,” cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại ngay nơi trang đầu của cuốn Lão Tử Tinh Hoa chăng? Cụ chép lại câu Hán ngữ, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri.” Tôi nghĩ, nên dịch là, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” mới sát nghĩa. - Cháu vẫn còn bị luẩn quẩn với câu này; bởi nếu đã không biết thì sao mà nói! - Có phải nơi câu nói, “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp” (Gioan 10:8), ngay khi anh đặt mình vào vị thế “Ta” nơi diễn tiến suy tư, nên đã nhận ra câu đó muốn nói gì phải không. Vậy nơi vị thế nào, hoặc ở phương diện nào, người nói không biết điều mình nói, hoặc bị cho là không biết điều mình nói? Tôi thầm tự hỏi, ủa, sao mình không nghĩ tới điểm này nên vẫn im lặng. Ông Tầm lại nói tiếp, - Trong suy tư, tất cả những tư tưởng, ý nghĩ đều không đúng, không sai, chúng hiện hữu. Được phân định đúng sai thuộc về hữu vi, nhân sinh; khi suy nghĩ, chỉ có hợp lý, hợp tình, và có thể chấp nhận được hay không mà thôi. Nếu không hợp lý, không thể chấp nhận được thì vất ngay, không phải là “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” thì nghĩa là gì. Nhà Phật thì nói như thế; thánh Phao lô nhà anh nói, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian” (2Thes, 2:3) nào có khác chi, có lẽ chỉ khác ngôn từ. Nói như thế, anh thừa hiểu phúc âm nhà anh nói, “Nếu mắt làm cớ vấp phạm thì móc quăng đi,” mang ý nghĩa gì.