← Quay lại trang sách

Phần u tối nhất của màn đêm - I - Thành phố New York-Ngày 12 tháng 3 năm 2014

Tên tác phẩm: One Forgotten Night (Tạm dịch: Đêm bị quên lãng)

Họa sĩ: Samantha Benning

Thời gian: 2014

Chất liệu: Màu Acrylic trên vải canvas khung gỗ

Xuất xứ: Mượn từ Phòng trưng bày Lisette Price, New York

Miêu tả: Một tác phẩm đơn sắc, các lớp màu phủ thành những khối màu đen, màu than chì và màu xám. Bảy chấm trắng nhỏ nổi bật trên phông nền.

Bối cảnh: Ngoài việc được biết đến rộng rãi như một tác phẩm nghệ thuật, bức tranh này cũng đóng vai trò là nguồn cảm hứng cho một loạt phim đang được công chiếu có tựa đề I Look Up to You, trong đó Benning hình dung về gia đình, bạn bè và người yêu của mình như những khoảng trời khác nhau.

Giá trị ước tính: 11.500 đô-la

* I

Henry Strauss quay trở lại cửa hàng.

Bea lại chiếm cái ghế bọc da đã cũ, cuốn sách hội họa sáng bóng mở trên đùi cô ấy. “Cậu đi đâu thế?”

Anh quay lại nhìn cánh cửa mở, nhíu mày. “Chẳng đi đâu cả.”

Cô ấy nhún vai, lật từng trang của cuốn sách đại cương về nghệ thuật tân cổ điển mà cô vốn không có ý định mua.

Đâu phải thư viện chứ. Henry thở dài, trở lại với tủ đựng tiền.

“Xin lỗi,” anh nói với cô gái bên cạnh quầy. “Chúng ta tới đâu rồi nhỉ?”

Cô cắn môi. Cô tên là Emily, anh nghĩ thế. “Em định hỏi là anh có muốn đi uống gì đó không.”

Anh nở nụ cười, hơi bối rối - một thói quen mà anh bắt đầu nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ bỏ được. Cô xinh đẹp, thực lòng mà nói là thế, nhưng đôi mắt ấy sáng lên màu rắc rối, một thứ ánh sáng trắng quen thuộc. Anh thấy mừng khi không phải nói dối rằng mình đã có việc vào tối nay.

“Lần khác vậy,” cô mỉm cười.

“Lần khác vậy,” anh lặp lại khi cô cầm sách lên và đi mất. Cánh cửa vừa đóng lại thì Bea hắng giọng.

“Sao thế?” Anh hỏi mà chẳng quay đầu lại.

“Cậu có thể hỏi số cô ấy mà.”

“Chúng ta có kế hoạch khác rồi,” anh đáp, gõ những tấm vé lên quầy.

Anh nghe tiếng tấm da thuộc căng ra khi cô ấy đứng dậy khỏi ghế. “Cậu biết không,” cô ấy nói, quàng tay lên vai anh, “điều tuyệt vời nhất của những dự định là cậu có thể dời chúng sang ngày khác đấy.”

Anh quay đầu, tay đặt lên eo cô, vậy là giờ cả hai chẳng khác gì những cô cậu bé khổ sở trong buổi vũ hội của trường, chân cẳng vẽ những vòng tròn rộng như mắt lưới, hoặc như dây xích.

“Beatrice Helen,” anh nhăn nhó.

“Henry Samuel.”

Họ đứng đó, ngay giữa cửa tiệm, hai kẻ đầu hai đứng ôm nhau như mấy nhóc thiếu nhi. Có lẽ vào ngày xửa ngày xưa, Bea sẽ dựa vào sát hơn, lên giọng dạy anh phải tìm kiếm một người (mới) và xứng đáng được hạnh phúc (một lần nữa). Nhưng họ đã thỏa thuận rồi: cô ấy không nhắc tới Tabitha nữa, còn Henry sẽ không nhắc tới Giáo sư. Mỗi người đều có những kẻ thù đã ngã xuống và cả những vết sẹo chiến tích.

“Xin lỗi,” một ông bác lớn tuổi lên tiếng, có vẻ ngại ngùng khi cắt ngang họ. Bác ấy cầm một cuốn sách, Henry mỉm cười, tháo mình ra khỏi mắt xích và lui lại sau quầy để tiếp khách. Bea rút vé ra khỏi bàn, nói sẽ gặp anh ở buổi diễn, Henry gật đầu chào cô và bác trai cũng đang đi ra, để buổi chiều còn lại trong khoảng lặng với những người lạ dễ chịu.

Anh lật ngược tấm biển đóng cửa hàng lúc sáu giờ kém năm. Lời Cuối không phải là cửa tiệm của anh, nhưng cũng có thể coi là vậy. Đã vài tuần anh không gặp bà chủ thực sự của nơi này rồi, bà Meredith, người đang dùng những năm tháng vàng son của mình để đi du lịch khắp thế giới bằng tiền bảo hiểm của người chồng quá cố. Người phụ nữ đã ở mùa thu của cuộc đời và đang ham mê mùa xuân thứ hai.

Henry đổ chút đồ ăn vào cái đĩa nhỏ màu đỏ sau quầy cho Sách, chú mèo lớn tuổi của cửa hàng. Một lát sau, cái đầu màu cam xơ xác mới chịu ló ra khỏi những tập sách ở dãy THƠ. Chú mèo này thích leo ra sau những chồng sách, ngủ cả ngày ở đó. Chúng ta sẽ chỉ nhận biết được sự hiện diện của nó thông qua cái đĩa đã sạch trơn và đôi khi là vẻ há hốc mổm của một vị khách nào đó tình cờ bắt gặp đôi mắt vàng bất động lập lòe phía sau kệ.

Sách là nhân vật duy nhất ở cửa tiệm này lâu hơn Henry.

Anh đã làm việc ở đây năm năm, kể từ khi còn là sinh viên cao học của khoa Thần học. Lúc đầu, đây chỉ là công việc bán thời gian của anh, một cách để trang trải chi phí học tập, nhưng rồi trường đã xa mà cửa hàng thì vẫn đó. Henry biết anh nên tìm một công việc khác, vì tiền lương quá rẻ rúng, không xứng với hai mươi mốt năm theo học chương trình giáo dục chính quy đắt đỏ. Đương nhiên, bên cạnh đó còn có lời nhắc nhở của anh trai David của anh, giọng điệu nghe hệt như cha, bình thản hỏi anh rằng công việc này sẽ đi đến đâu, nêu nó thực sự là cách anh định sống cả đời. Nhưng Henry không biết làm gì khác, anh cũng không thể bắt mình ra đi được. Đây là nơi duy nhất anh chưa thất bại.

Hơn nữa, thực ra Henry yêu cửa hàng này. Yêu mùi sách và trọng lượng vững vàng của chúng trên kệ, sự hiện hữu của những tựa sách cũ, sự xâm lấn của những tựa sách mới và cả sự thực rằng một thành phố như New York sẽ luôn có độc giả.

Bea khăng khăng rằng bất kỳ ai làm việc ở một tiệm sách đều muốn trở thành nhà văn, nhưng Henry chưa từng mơ mình làm tiểu thuyết gia. Đương nhiên, anh cũng đã thử cầm bút, nhưng chưa bao giờ thực sự viết nên điều gì. Anh không thể tìm ra đúng từ, đúng câu chuyện và giọng văn. Không thể khám phá ra điều mình có thể bổ sung cho muôn vàn giá sách.

Henry thích làm người canh gác cho những câu chuyện hơn là người kể chúng.

Anh tắt đèn, cầm lấy tấm vé và áo khoác, rồi đi tới buổi biểu diễn của Robbie.

* * *

Henry không có thời gian thay đồ.

Buổi biểu diễn bắt đầu lúc bảy giờ, Lời Cuối thì mãi sáu giờ mới đóng cửa. Dẫu sao, anh cũng chẳng biết nên mặc như thế nào đến một buổi diễn off-off-Broadway* về những vị tiên ở phố Bowery, nên anh vẫn mặc quần jeans tối màu và chiếc áo len cũ. Bea hay gọi đây là phong cách Thủ thư dù anh không làm việc ở thư viện, điều mà cô ấy dường như không bao giờ chịu hiểu. Bea bữa nay thì ngược lại, trông hết sức hợp thời trang như cô ấy vẫn luôn thế, với chiếc blazer trắng cộc tay, vòng bạc mỏng quấn quanh những ngón tay và lấp lánh nơi vành tai, cùng bím tóc dày vấn thành vành trên đầu. Trong khi xếp hàng đợi, Henry thầm tự hỏi chẳng lẽ có những người sinh ra đã có phong cách như thế ư, hay người ta phải nghiêm chỉnh chọn lựa từng ngày một.

Họ dịch dần về phía trước, trình vé ở cửa.

Buổi biểu diễn là sự pha trộn giữa kịch sân khấu và múa hiện đại, một trong những tổ hợp kỳ lạ chỉ tồn tại ở những nơi như New York.

Theo Robbie, nó có chút giống với vở Giấc mộng đêm hè, nếu như vở kịch Shakespeare đó được tăng nhịp độ và cường điệu.

Bea huých vào sườn anh.

“Cậu có thấy cách cô ấy nhìn mình không?”

Anh chớp mắt. “Hả? Ai cơ?”

Bea đảo tròn mắt. “Cậu hết thuốc chữa rồi.”

Hành lang xung quanh họ ồn ào khi họ len qua đám đông, có người níu tay Henry lại. Một cô gái mặc chiếc váy bohemian rách rưới, sơn màu xanh lá được vẽ lan tràn như dây leo trừu tượng trên thái dương và gò má khiến cô chẳng khác nào một trong những diễn viên hôm nay. Anh đã thấy những thứ tương tự sót lại trên da Robbie cả chục lần trong mấy tuần nay.

Cô giơ lên một cây cọ và một bát nhũ vàng. “Anh chưa trang điểm,” giọng điệu của cô chân thành và nghiêm túc; trước khi anh kịp nghĩ tới chuyện ngăn cô lại, bụi nhũ vàng đã chấm lên gò má, cọ mềm như lông vũ. Ở khoảng cách này, anh có thể thấy ánh sáng lấp lánh mờ ảo trong mắt cô gái.

Henry nghiêng cằm.

“Trông tôi thế nào?” Anh hỏi, vờ chu môi như người mẫu. Dù anh chỉ nói đùa, cô gái vẫn tặng lại nụ cười chân thành nhất và trả lời, “Hoàn hảo.”

Cơn ớn lạnh chạy qua người anh ngay khi nghe thấy từ đó, anh chợt như đang ở nơi khác, một bàn tay với đến nắm tay anh trong bóng tối, ngón cái cọ lên gò má. Nhưng anh gạt cảm xúc đó đi.

Bea để cô gái vẽ một vệt lấp lánh dọc sống mũi, một chấm vàng nơi cằm, còn kịp đò đưa chẵn ba mươi giây trước khi tiếng chuông reo trong hành lang, thế là vị tinh linh họa sĩ biến mất vào đám đông, còn họ tiếp tục đi tới cửa rạp.

Henry khoác tay Bea. “Cậu có thấy mình hoàn hảo không?”

Cô ấy xì một tiếng. “Chúa ơi, không.”

Anh nở nụ cười ngoài dự tính, cùng lúc, một diễn viên da sậm vẽ màu vàng hồng trên má trao cho mỗi người bọn họ một cành cây, những chiếc lá trên đó xanh đến không thực. Đôi mắt anh ta nấn ná nơi Henry, ấm áp, buồn bã và rực sáng.

Họ trình vé cho bác gái soát vé có mái tóc trắng chỉ cao suýt soát mét rưỡi và phải níu lấy cánh tay Henry để giữ thăng bằng khi chỉ cho họ hàng ghế. Bác đó vỗ nhẹ lên cùi chỏ của anh khi tách khỏi họ, vừa lầm bầm “Cậu bé tốt thật” vừa dò dẫm bước lên lối đi.

Henry nhìn số ghi trên vé, rồi họ nghiêng người lách tới chỗ của mình - một cụm ba ghế gần giữa hàng. Henry ngồi xuống trước, Bea ở một bên, ghế trống bên kia thuộc về người còn lại. Đó là ghế của Tabitha, vì họ đã mua vé từ mấy tháng trước, khi còn bên nhau, khi mọi thứ đều là đôi cặp thay vì lẻ chiếc.

Cơn đau tê mỏi trào dâng trong lồng ngực Henry, anh thầm ước mình bỏ mười đô để mua đồ uống.

Đèn tắt dần, rèm được kéo lên, lộ ra vương quốc đèn nê-ông và thép phun sơn phía sau, Robbie ở ngay trung tâm, dài người nằm trên ngai vàng trong tư thế của một vị vua yêu tinh thuẩn chủng, không chút lai tạp.

Tóc cậu ấy được uốn thành lọn sóng lớn, những vệt tím và vàng kim bám theo đường nét gương mặt tạo thành hình dạng vừa ấn tượng vừa kỳ lạ. Khi cậu mỉm cười, Henry mường tượng ngay cảnh ngày ấy anh rơi vào lưới tình, hồi họ mới mười chín tuổi, rối nùi trong ham muốn, cô độc và những giấc mơ xa xôi. Khi Robbie mở miệng, giọng cậu trong vắt, vang vọng khắp rạp.

Cậu nói: “Đây là câu chuyện của những vị thần.”

Nhạc công tràn ra sân khấu, âm nhạc bắt đầu nổi lên; trong một thoáng, mọi thứ đều trở nên dễ chịu.

Trong một thoáng, thế giới trôi xa, mọi thứ quanh họ lặng đi, và Henry biến mất.

*

Tới cuối vở kịch, có một cảnh cứ chạy vào khoảng tối trong tâm trí Henry, soi rọi như ánh sáng trong phim điện ảnh.

Robbie, vua Bowery, đứng dậy khỏi ngai vàng khi mưa rơi xuống tấm thảm duy nhất trên sân khấu. Dù chỉ lát sau thôi, tức là bây giờ, nơi đó đã chật kín người, nhưng chẳng hiểu sao Robbie của giây phút đó lại như chỉ có một mình. Cậu ấy đưa tay ra, lướt qua tấm màn mưa, những dòng nước len lỏi luồn giữa các ngón tay, cổ tay, rồi đến cánh tay cậu khi cậu tiến lên phía trước từng chút một cho tới khi cả cơ thể chìm vào trong đó.

Cậu ngửa đầu ra sau, mưa cuốn trôi ánh vàng lấp lánh trên làn da, vuốt thẳng những lọn tóc xoăn hoàn hảo, rửa sạch mọi dấu vết của phép màu, biến cậu từ một hoàng tử biếng nhác và kiêu ngạo thành một chàng trai; bình phàm, mong manh và đơn độc.

Đèn tắt phụt, trong một khoảng rất dài, tiếng mưa là âm thanh duy nhất tồn tại trong rạp, thu nhỏ dần từ bức tường âm thanh vững chắc thành nhịp điệu ổn định của một trận mưa như trút nước, và sau đó là tiếng lộp độp nhẹ nhàng của những giọt nước rơi xuống sàn sân khấu.

Để rồi cuối cùng, chẳng còn gì cả.

Đèn lại sáng, toàn bộ dàn diễn viễn đều đang đứng trên sân khấu, ai nấy đều vỗ tay.

Bea reo lên hoan hô, nhưng lúc nhìn sang Henry, niềm vui ấy lập tức trôi tuột khỏi gương mặt cô.

“Sao thê?” Cô hỏi. “Trông cậu như sắp ngất đến nơi ấy.”

Anh nuốt khan, lắc đầu.

Mạch trên tay anh rần rật, anh cúi xuống nhìn mới nhận ra rằng mình đã bấm đầu móng vào vết sẹo dọc lòng bàn tay, nơi đó rỉ máu.

“Henry?”

“Mình không sao,” anh nói, lau tay lên ghế nhung. “Chỉ là. Hay quá.”

Anh đứng dậy, theo Bea ra ngoài.

Đám đông tan dần, tới khi chỉ còn lại chủ yếu là bạn bè và người thân chờ đợi các diễn viên tái xuất hiện. Nhưng Henry cảm nhận được những ánh nhìn, sự chú ý quét đến như điện giật. Dù đưa mắt đi đâu cũng thầy một gương mặt thân thiện, một nụ cười ấm áp, đôi khi nhiều hơn cả thế.

Cuối cùng, Robbie nhào ra hành lang, quàng tay lên cả hai người họ.

“Những người hầm mộ đáng yêu của tôi!” Cậu ấy nói bằng giọng cao rung của diễn viên.

Henry khịt mũi, Bea giơ một bông hồng bằng sô-cô-la ra, vì lần bông đùa giữa họ từ rất lâu về trước. Robbie từng than thở rằng người ta sao cứ phải chọn giữa sô-cô-la và hoa, nói sô-cô-la là quà cho lễ Valentine, còn với các màn trình diễn thì hoa mới là thứ phổ biến. Sau đó, Robbie nói mình không thuộc típ người phổ biến, hơn nữa, nhỡ cậu ấy đói thì sao?

“Cậu giỏi lắm,” Henry khen, và đúng là thế thật. Robbie rất giỏi, luôn giỏi. Phải đạt cả ba môn vũ đạo, âm nhạc và sân khấu thì mới thành công được ở New York. Cậu ấy vẫn còn cách Broadway* vài con phố, nhưng Henry tin bạn mình chắc chắn sẽ đến được.

Anh đưa tay vuốt tóc Robbie.

Lúc khô, nó có màu như đường thắng, sắc nâu hoà lẫn với sắc đỏ, tùy vào góc độ ánh sáng. Hiện tại, nó vẫn còn ẩm sau màn diễn cuối. Trong thoáng chốc, Robbie ngả người nương theo cử chỉ động chạm đó, đặt trọng lượng mái đầu lên tay Henry. Ngực anh thắt lại, buộc phải nhắc trái tim mình rằng cảm xúc đó không thật nữa đâu, không còn nữa.

Henry vỗ lưng bạn, Robbie đứng thẳng lên như thể hồi sinh, tái lập. Cậu giơ bông hồng lên như một cây gậy chỉ huy và tuyên bố, “Tiệc thôi!”

*

Henry từng nghĩ những bữa tiệc chiêu đãi chỉ diễn ra ở buổi diễn cuối như một cách để dàn diễn viên nói lời chào tạm biệt, nhưng giờ anh biết rằng với những đứa con của rạp hát, mọi màn biểu diễn đều là lý do để ăn mừng. Để bước xuống từ đài cao, hoặc như với nhóm của Robbie, là để tiếp tục bước.

Đã gần nửa đêm, cả đám kéo nhau lên tầng ba của tòa nhà không thang máy ở SoHo, trong ánh sáng mù mờ và chuỗi bài nhạc của ai đó đang lấp đầy không khí qua cặp loa không dây. Dàn diễn viên di chuyển quanh khu trung tâm như mạch máu, gương mặt vẫn còn nguyên lớp trang điểm nhưng trang phục thì đã thay đổi, vừa là nhân vật trên sân khấu vừa là bản thể của chính mình ngoài đời thực.

Henry uống một cốc bia ấm và chà ngón cái dọc theo vết sẹo trong lòng bàn tay, một thói quen đã mau chóng hình thành của anh.

Tạm thời, anh có Bea bầu bạn.

Bea, cô gái thích các bữa tiệc tối hơn là nhà hát, thích bàn ăn chỉn chu và trò chuyện hơn là những chiếc cốc nhựa và lời hát vang lên trên loa. Người đồng bạn cùng than thở, chui rúc vào một xó với Henry, cùng nghiên cứu từng diễn viên như thể họ ở trong những cuốn lịch sử nghệ thuật của cô ấy vậy. Nhưng rồi, một tinh linh Bowery kéo cô đi, Henry gào lên đồ phản bội sau lưng họ, dù rất vui khi thấy Bea có thể vui vẻ trở lại.

Trong khi đó, Robbie đang nhảy giữa căn phòng, luôn là trung tâm của bữa tiệc.

Cậu ấy ngoắc Henry lại, nhưng anh lắc đầu, lờ đi thôi thúc của lực hấp dẫn, những cánh tay mở rộng chờ đợi ở cuối điểm rơi. Lúc anh tồi tệ nhất, họ là cặp bài trùng, sự khác biệt chỉ là trọng lực. Robbie luôn tìm cách để bay lên, còn Henry thì lao xuống.

“Này, anh chàng đẹp trai.”

Henry quay lại, rời mắt khỏi cốc bia và thấy một trong số diễn viên chính của buổi biểu diễn, một cô gái lộng lẫy với đôi môi đỏ cam màu gỉ sắt và vương miện hoa lily trắng, nhũ vàng lan thành vạch mỏng trên má cô ấy như hình vẽ grafiti. Cô ấy nhìn anh bằng đôi mắt mong đợi lồ lộ khiến anh cảm thấy mình được khao khát, cảm thấy được một điều gì đó vượt ra ngoài nỗi buồn, cô đơn và mất mát.

“Uống với em nhé?”

Đôi mắt xanh dương của cô sáng lên khi đưa khay tới, bên trên là hai cái cốc chứa thứ gì đó nhỏ và trắng đang tan ra ở đáy. Henry nghĩ tới những câu chuyện kể về việc xảy ra khi nhận đồ ăn thức uống từ các vị tiên, dù anh vẫn đưa tay cầm lấy cốc rượu. Ban đầu, anh chỉ nếm được vị ngọt, hơi rát nóng của tequila, nhưng rồi thế giới bắt đầu chao đảo khỏi rìa của nó.

Anh đã hy vọng mình sẽ được ngắm nhìn những thứ bay bổng hơn, sáng rõ hơn, nhưng căn phòng tối dần, và anh có thể cảm thấy cơn bão đang mò đến.

Anh mười hai tuổi khi trải qua trận bão đầu tiên. Lúc đó, anh không cảm nhận được điều sắp đến. Hôm qua trời còn xanh, vậy mà ngày sau đó mây đã sà xuống dày đặc, ngày sau đó nữa, gió nổi lên và trời mứa như trút nước.

Phải nhiều năm sau Henry mới bắt đầu tưởng tượng những khoảng thời gian đen tối là bão táp mưa sa, tin rằng rồi chúng sẽ qua nếu anh kiên trì đủ lâu.

Cha mẹ anh đương nhiên có ý tốt, nhưng họ luôn nói những điều như Vui lên, hoặc Rồi sẽ tốt hơn, hoặc tệ hơn là Chẳng xấu đến thế đâu, những lời dễ dàng được thốt ra khi họ chưa từng phải hứng chịu một ngày mưa nào cả. Đến anh trai cả của Henry, David, là bác sĩ, nhưng anh ấy cũng chẳng hiểu. Em gái Muriel của anh thì luôn nói mình hiểu nghệ sĩ nào cũng phải chịu đựng những cơn bão, trước khi đưa cho anh một viên thuốc trong hộp kẹo bạc hà mà con bé lúc nào cũng trữ sẵn trong ví. Nó gọi chúng là những cái ô hồng xinh xinh, hùa theo phép ẩn dụ của anh; như thể đó chỉ là một phép tu từ khôn khéo và Henry có thể dùng cách khác để người ta hiểu những gì diễn ra trong đầu mình.

Chỉ là một cơn bão thôi, anh lại nghĩ, dù đã tự tránh đi, lấy cớ muốn tìm chút không khí. Bữa tiệc quá nóng, anh muốn ra ngoài, muốn leo lên sân thượng, nhìn lên và thấy trời quang mây tạnh với những vì sao, nhưng đương nhiên, ở SoHo này chẳng có vì sao nào cả.

Anh đi xuống sảnh được nửa đường thì dừng lại, nhớ đến buổi biểu diễn và hình ảnh của Robbie trong màn mưa, đoạn run rẩy, đi xuống hẳn thay vì đi lên, quyết định về nhà.

Gần ra tới cửa thì cô gái ấy túm lấy tay anh. Cô gái có dây thường xuân uốn lượn trên da. Người đã phủ sắc vàng kim lên anh.

“Là anh,” cô ấy thốt lên.

“Là cô,” anh nói.

Cô ấy rướn đến, lau nhũ vàng trên má Henry, vùng da tiếp xúc như bị điện giật, toả ra nguồn năng lượng.

“Đừng đi,” cô ấy nói, khi anh vẫn đang nghĩ xem mình nên nói gì tiếp thì đã bị cô kéo lại gần. Anh hôn cô, mau chóng, kiếm tìm và đột ngột tách ra khi nghe thấy tiếng thở hổn hển.

“Xin lỗi,” anh buột miệng, từ tự động phát ra như làm ơn, cảm ơn, hay ổn mà.

Nhưng cô ấy lại nhón người lên, nắm lấy một lọn tóc của anh.

“Vì cái gì chứ?” Cô ấy hỏi, kéo môi anh trở lại bên mình.

“Cô chắc chứ?” Anh lầm bầm, dù biết điều cô sẽ nói, vì anh đã nhìn thấy ánh sáng trong đôi mắt ấy, làn mây nhạt màu trôi qua trước đường nhìn của cô. “Đây là điều cô muốn?”

Anh muốn sự thật, nhưng chẳng có sự thật nào cho anh cả, chẳng còn gi nữa. Cô gái chỉ mỉm vười, kéo anh lại tựa lên cánh cửa gần nhất.

Cô nói, “Đây chính là điều tôi muốn.”

Sau đó, họ cùng vào trong một phòng ngủ, cửa đóng chặt, âm thanh ồn ã của bữa tiệc bên ngoài bức tường nhạt dần. Miệng họ áp lấy nhau, giờ thì anh không thể thấy đôi mắt của người kề sát bên mình trong bóng tối nữa rồi, nên muốn tin là thật cũng dễ lắm.

Trong một thoáng, Henry biến mất.