← Quay lại trang sách

Ba trăm năm và ba từ - I - Paris, Pháp-Ngày 29 tháng 7 năm 1724

Tranh 3

Tên tác phẩm: Untitled Salon Sketch (Tạm dịch: Bản phác thảo vô đề về phòng chiêu đãi)

Nghệ sĩ: Bernard Rodel

Niên đại: Khoảng 1751-1753

Chất liệu: Bút mực trên giấy da

Xuất xứ: Mượn từ triển lãm The Paris Salon tại Thư viện Anh Quốc

Miêu tả: Tái hiện phòng chiêu đãi nổi tiếng của Phu nhân Geoffrin, rực rỡ với vô số những hình ảnh trong các hoạt cảnh đối thoại và thư giãn. Có thể nhận ra từ trong nhóm người rất nhiều các nhân vật nổi tiếng như Rousseau, Voltaire, Diderot, nhưng cảnh thú vị nhất phải kể đến là cảnh ba người phụ nữ đi vòng quanh phòng. Một người trong số đó chắc chắn là Phu nhân Geoffrin. Người thứ hai được cho là Suzanne Necker. Nhưng người thứ ba, người phụ nữ duyên dáng với gương mặt điểm xuyết những nốt tàn nhang, hiện vẫn là một bí ẩn.

Bối cảnh: Bên cạnh những đóng góp cho cuốn Bách khoa toàn thư của Diderot, Rodel còn là một họa sĩ đầy tham vọng; ông đã tận dụng kỹ năng dựng hình của mình trong nhiều lần đến làm việc ở phòng chiêu đãi của Phu nhân Geoffrin. Người phụ nữ với những chấm tàn nhang xuất hiện rất nhiều lần trong những bức phác họa của ông, nhưng chưa từng được ghi tên.

Giá trị ước tính: Không rõ.

* I

Tự do là được mặc trang phục gồm quần và áo khoác cài nút.

Một chiếc áo thụng của đàn ông và một cái mũ ba múi.

Giá mà cô biết điều này từ trước.

Bóng tối tuyên bố hắn đã cho cô tự do, nhưng thật ra, phụ nữ chẳng hề có điều đó, không thể có trong thế giới mà họ bị ràng buộc bởi quần áo, bị giữ chân trong nhà, một thế giới mà chỉ nam giới mới được lãng du.

Addie thơ thẩn trên phố, đeo lủng lắng cái giỏ ăn cắp được trên khuỷu tay. Gần đó, một người phụ nữ lớn tuổi đang đứng trước ngưỡng cửa, phủi bụi một tấm thảm; xa xa, những người lao động nằm dài trên bậc thang của một tiệm cà phê; chẳng ai trong số họ chớp mắt, vì họ không thấy một người phụ nữ đi một mình. Họ thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ chỉ vừa thành niên, lang thang khi ánh ngày dần tàn. Họ chẳng nghĩ có gì lạ hay đáng bận tâm khi thấy cô đi loanh quanh như thế. Họ chẳng nghĩ gì cả.

Suy tính kỹ ra thi thực tế, Addie có thể đã cứu rỗi linh hồn mình, và tất cả những gì mà cô đòi hỏi chỉ là vài bộ quần áo mà thôi.

Đã bốn năm trôi qua mà chẳng có lấy một chuyến thăm nào của bóng tối.

Bốn năm mà đầu năm nào cô cũng thề sẽ không lãng phí thời gian của mình vào việc chờ đợi. Nhưng đó là lời hứa mà cô không thể trọn vẹn giữ gìn. Dù nỗ lực hết sức, Addie vẫn như cái đồng hồ siết chặt hơn khi ngày ấy tới gần, một lò xo cuộn không thể giãn ra trước bình minh. Nhưng kể cả sau bình minh, nỗi khó chịu cũng chỉ kéo giãn ra được một chút, cô bỏ cuộc chấp nhận chứ chẳng thể nhẹ nhõm vì biết thừa rằng nó sẽ lại lặp lại.

Bốn năm.

Bốn mùa đông, bốn mùa hè, bốn đêm vắng kẻ đến thăm.

Ít nhất thì những đêm khác vẫn thuộc về cô, được cô toàn quyền sử dụng theo ý thích của mình. Nhưng dù cô có nỗ lực giết thời gian đến đâu, đêm nay vẫn thuộc về Luc, kể cả khi hắn không đến.

Dù thế, cô sẽ không thẳng thừng tuyên bố nó đã bị cướp đi, sẽ không hy sinh những giờ đó như thể chúng đã biến mất, đã thuộc về hắn.

Addie đi qua một nhóm đàn ông và nghiêng mũ chào, cử chỉ đó kéo cái mũ ba múi xuống sâu hơn trên trán. Ngày vẫn chưa nhường chỗ cho đêm, trong ánh sáng kéo dài của mùa hè, cô cẩn thận giữ khoảng cách, biết rằng ảo ảnh sẽ tan vỡ nếu bị soi mói. Cô có thể đợi thêm một giờ nữa để được an toàn trong màn đêm, song cô không thể chịu được sự tĩnh lặng và từng giây phút đồng hồ tích tắc.

Không phải đêm nay.

Đêm nay, cô quyết định chúc mừng sự tự do của mình.

Trèo lên Notre Dame, tổ chức một buổi dã ngoại ở đó, với cả thành phố dưới chân.

Cái giỏ đung đưa trên khuỷu tay cô chứa đầy đồ ăn. Những ngón tay cô trở nên nhẹ nhàng và lanh lẹ hơn nhờ luyện tập, và cô đã dành rất nhiều ngày để thu thập bữa tiệc của mình - một ổ bánh mì, một phần thịt muối, một miếng phô mai và cả một bình mật ong nhỏ cỡ bàn tay.

Mật ong - món khoái khẩu mà Addie chưa từng được thưởng thức lại kể từ khi rời Villon, nơi cha của Isabelle nuôi một hàng tổ ong và thu hoạch thứ si-rô màu hổ phách đó để mang ra chợ bán, để khách hàng ngâm những mẩu sáp ong cho tới khi những đầu ngón tay dính đầy chất lỏng ngọt ngào. Giờ đây, cô giơ phần thưởng của mình lên trước ánh sáng dần tàn, để mặt trời đang lặn biến phần bên trong thành màu vàng ròng.

Người đàn ông đó đột nhiên xuất hiện.

Một bờ vai đụng phải cánh tay cô, và cái bình quý giá tuột mất, vỡ tan trên con đường lát sỏi trong chốc lát, Addie nghĩ mình bị tấn công hoặc bị cướp, nhưng người lạ kia đang lắp bắp nói lời xin lỗi.

“Ngu xuẩn,” cô rít lên, sự chú ý rời khỏi thứ si-rô vàng đang lấp lánh giữa đống thủy tinh sang gã đàn ông đã khiến cô mất nó. Anh ta trẻ, ưa nhìn và đáng yêu, gò má cao với mái tóc có màu như phần mật ong của cô đang nằm dưới đất.

Và anh ta không đi một mình.

Các bạn đồng hành của anh ta tụt lại phía sau, kêu lên và chúc mừng sai lầm của anh ta, khiến anh chàng trẻ tuổi đang đi dạo phố này đỏ bừng mặt, rõ ràng là xấu hổ. Quanh họ là bầu không khí vui vẻ của những kẻ bắt đầu cuộc vui buổi tối từ giữa trưa.

“Tôi xin lỗi, thật lòng đấy,” anh ta lẻn tiếng, nhưng sau đó, nét mặt bắt đầu đổi sắc. Đầu tiên là ngạc nhiên, sau đó là thích thú, và rồi cô nhận ra họ đứng gần đến thế nào, nhưng đã quá muộn, ánh sáng soi rõ gương mặt cô quá rồi. Cô cũng muộn màng nhận ra rằng anh ta đã nhìn thấu ảo ảnh của mình, rằng bàn tay của đối phương vẫn ở đó, trên ống tay áo cô. Trong một thoáng, cô sợ anh ta sẽ vạch trần mình.

Nhưng khi bạn anh ta cất tiếng giục giã, họ được bảo cứ đi trước đi, rồi chỉ còn lại hai người trên con đường lát sỏi. Addie chuẩn bị giằng tay, bỏ chạy, nhưng chẳng có vẻ mờ ám nào trên gương mặt chàng trai đó, không hằm hè đe dọa, chỉ có sự mừng rỡ kỳ quặc.

“Bỏ ra,” cô nói, hạ giọng và hình như điều đó chỉ khiến anh ta thích thú hơn, dù đã chịu thả tay cô ra với tốc độ của một kẻ chạm tay vào lửa.

“Xin lỗi,” anh ta lặp lại, “tôi chẳng để tâm gì cả.” Sau đó anh ta nở một nụ cười tinh quái. “Có vẻ cô cũng thế.”

“Không hề,” cô đáp, những ngón tay đưa xuống tìm con dao ngắn mà cô cất trong rổ. “Tôi cố tình đặt nhầm chỗ thôi.”

Nụ cười nở rộng hơn, anh ta đưa mắt xuống, nhìn chỗ mật ong dưới đất và lắc đầu.

“Tôi sẽ đền cho cô,” anh ta nói. Cô định nói với anh ta là kệ đi, không sao cả thì anh ta cúi đầu xuống đường và nói, “A há,” rồi quàng tay lên vai cô như thể hai người là bạn bè.

“Đi nào,” anh ta dẫn cô tới quán cà phê ở góc phố. Cô chưa từng đến nơi nào như vậy, chưa đủ dũng cảm để đánh liều, không dám đi một mình với lớp ngụy trang mỏng manh như thế này. Nhưng anh ta kéo cô theo như chẳng có chuyện gì, cô đã suýt né tránh lúc cánh tay kia đột ngột quàng lên vai cô với sức nặng đầy thân mật thì chợt thấy một bên khóe miệng của người này nhếch lên. Anh ta đang biến chuyện này thành một trò chơi, tự xung phong tham gia vào nhiệm vụ bảo vệ bí mật cho cô.

Bên trong tiệm cà phê tràn đầy năng lượng và sức sống, ngập trong tiếng nói, mùi hương nồng và ám khói.

“Cẩn thận nào,” anh ta nói, đôi mắt lấp lánh vẻ tinh quái. “Đi sát vào tôi, cúi đầu xuống, nếu không chúng ta sẽ bị phát hiện mất.”

Cô theo anh ta tới trước quầy, ở đó, anh ta gọi hai cốc lùn, chất lỏng trong đó không nhiều và đen như mực. “Ngồi đó đi,” anh ta nói, “cạnh tường ấy, chỗ đó không quá sáng.”

Họ gập người trong chỗ ngồi ở góc phòng, anh ta đặt hai cái cốc giữa họ, chỉnh tay cầm và bảo cô đây là cà phê. Đương nhiên cô đã nghe về thứ này rồi, thức uống thời thượng ở Paris, nhưng khi nâng cốc sứ lên môi và nhấp một ngụm, cô khá thất vọng.

Nó đen, mạnh và đắng, giống như những mẩu sô-cô-la mà cô lần đầu tiên nếm vào nhiêu năm trước, chỉ là không có chút vị ngọt nào. Nhưng chàng trai nhìn cô chằm chằm với vẻ háo hức như một chú cún, nên cô nuốt xuống và mỉm cười, tay ôm lấy cốc và nhìn lên từ dưới vành mũ, quan sát những chiếc bàn toàn đàn ông, một số chụm đầu vào nhau, một số thì cười lớn và chơi bài, hoặc truyền những tờ giấy qua lại. Cô quan sát những người đàn ông này, một lần nữa tự hỏi tại sao thế giới lại chào đón họ như vậy, tại sao họ lại dễ vượt qua mọi ngưỡng cửa đến thế.

Sự chú ý của cô quay trở lại với người mình đi cùng, anh ta vẫn quan sát cô với vẻ hứng thú không kiềm chế được đó.

“Cô vừa nghĩ gì thế?” Anh ta hỏi. “Vừa nãy ấy?”

Không phải ra lệnh, chỉ là trao đổi nghiêm túc. Anh ta dễ dàng nhảy vào cuộc nói chuyện như thể họ đã quen biết nhau cả năm trời chứ không chỉ mới vài phút.

“Tôi đang nghĩ,” cô nói, “là đàn ông thì hẳn dễ dàng hơn nhiều.”

“Đó là lý do cô cải trang như thế này?”

“Đúng thế,” cô đáp, “và vì ghét corset nữa.”

Anh ta phá lên cười, nghe thật cởi mở và dễ gần tới nỗi Addie cảm nhận nụ cười cũng dâng lên môi mình.

“Cô có tên chứ?” Anh ta hỏi, cô không biết anh ta đang hỏi tên của mình hay của lớp ngụy trang nữa, nhưng cô quyết định nói “Thomas”, và nhìn anh ta lặp lại nó trên lưỡi như nếm một loại quả.

“Thomas,” anh ta ngân nga. “Hân hạnh được gặp anh. Tôi là Remy Laurent.”

“Remy,” cô lặp lại, thử âm vòm miệng mềm mại. Hợp với anh ta hơn là cái tên Adeline của cô. Tươi trẻ và ngọt ngào, nó sẽ ám ảnh cô như mọi cái tên khác, dập dềnh như trái táo trên dòng nước. Dù cô có gặp bao nhiêu người đi nữa, Remy sẽ luôn khiến cô nhớ đến anh ta, chàng trai trẻ và vui tươi này, kiểu người có lẽ cô sẽ yêu, chắc thế, nếu được trao cơ hội.

Cô nhấp thêm một ngụm, cẩn thận cầm chiếc cốc theo cách không quá rụt rè, chống tay và ngồi thảnh thơi như cách cánh đàn ông vẫn thường làm khi họ cho rằng không có ai quan sát.

“Tuyệt vời,” anh chàng trầm trồ. “Cô nghiên cứu giới tính của tôi kỹ đấy.”

“Thế ư?”

“Cô bắt chước giỏi lắm.”

Addie có thể nói với anh ta rằng cô có thời gian luyện tập, rằng sau nhiều năm thì nó đã thành một loại trò chơi, một cách để cô giải trí. Rằng cô đã quan sát cả tá vai trò và thấy rõ sự khác biệt giữa một bà công tước và một nữ hầu tước, một người lái tàu và một thương gia.

Tuy nhiên, cô chỉ nói, “Người ta cần những cách khác nhau để giết thời gian.”

Anh chàng lại cười, nâng cốc lên, nhưng khi uống được nửa chừng, sự chú ý của Remy lang thang khắp căn phòng và va phải thứ gì đó khiến anh ta giật bắn mình. Anh ta sặc cà phê, chất lỏng sậm màu chảy xuống hai má.

“Sao vậy?” Cô hỏi. “Anh có sao không?”

Remy ho, suýt đánh rơi cái cốc khi chỉ về phía cửa, nơi một người đàn ông vừa đi vào.

“Anh biết người đó?” Cô hỏi.

Remy thốt lên, “Cô không biết ư? Đó là Monsieur Voltaire.”

Cô khẽ lắc đầu. Cái tên đó không mang ý nghĩa gì với cô cả.

Remy rút một phong bì ra khỏi áo khoác. Một quyển sách nhỏ, mỏng, trên bìa có in gì đó. Cô nheo mắt nhìn tựa đề, mới chỉ đọc được một nửa thì Remy mở nó ra, để lộ cả biển chữ in bằng thứ mực đen trang nhã. Lâu lắm rồi kể từ ngày cha ráng dạy dỗ cô, nhưng hồi đó chỉ là những chữ cái đơn giản, rời rạc được viết tay mà thôi.

Remy thấy ánh mắt cô. “Cô đọc được à?”

“Tôi biết các ký tự,” cô thừa nhận, “nhưng chưa được học đọc. Tới khi đọc hết một dòng, e là tôi sẽ quên sạch nghĩa của chúng.”

Remy lắc đầu. “Thật là tội ác,” anh ta nói, “chuyện phụ nữ không được dạy dỗ như đàn ông ấy. Tại sao chứ, một thế giới không thể đọc, tôi không thể hiểu nổi. Cả cuộc đời mà không có thơ, không có kịch, không có các triết gia. Thiếu Shakespeare, Socrates, chưa nói tới Descartes đâu!”

“Chỉ có vậy thôi à?” Cô đùa.

“Cả Voltaire nữa,” anh chàng tiếp tục. “Đương nhiên rồi, Voltaire. Các bài tiểu luận và cả tiểu thuyết nữa.”

Cô không biết từ đó.

“Một câu chuyện rất dài,” anh ta giải thích, “được suy tưởng từ đầu tới cuối. Đầy lãng mạn, hoặc hài hước, hoặc phiêu lưu.”

Cô nghĩ về những câu chuyện cổ tích của cha suốt chặng đường trưởng thành và những câu chuyện mà Estele kể về các cựu thần. Nhưng tiểu thuyết mà Remy nói đến có vẻ gồm nhiều thứ hơn. Cô đưa tay lên trang giấy của cuốn sách được đưa tới trước, nhưng sự chú ý lại nghiêng về phía Remy, còn anh ta, hiện tại, thì đang nhìn Voltaire. “Anh sẽ qua đó tự giới thiệu chứ?”

Remy quay lại nhìn, hoảng sợ. “Không, không, không phải tối nay. Thế này thì tốt hơn. Hãy nghĩ về câu chuyện đã.” Anh ta ngồi lại xuống ghế, khuôn mặt sáng bừng vì phần khích. “Thấy không? Đây là lý do tôi yêu Paris.”

“Vậy là anh cũng không sinh ra ở đây.”

“Có ai vậy đâu?” Anh chàng quay lại với cô. “Không, tôi tới từ Rennes. Một gia đình thợ in. Nhưng tôi là con út. Cha đã phạm sai lầm lớn lắm khi cho tôi đi học. Tôi càng đọc nhiều thì càng nghĩ nhiều, càng nghĩ thì càng hiểu mình phải đến Paris.”

“Gia đình anh không phản đối ư?”

“Đương nhiên là có. Nhưng tôi phải đi chứ. Đây là chốn của những nhà suy tưởng. Đây là chốn của những kẻ mộng mơ. Nơi đây là trái tim của thế giới, cũng là cái đầu, mà nó đang thay đổi.” Ánh mắt anh ấy lấp lánh ánh sáng. “Đời ngắn lắm. Ở Rennes, đêm nào lên giường tôi cũng nằm thao thức, nghĩ ngợi, đã bao ngày đi qua phía sau tôi, ai mà biết được còn bao ngày phía trước.”

Đây chính là nỗi sợ đã ép cô vào rừng đêm đó, chính là khát khao đã đẩy cô tới định mệnh của mình.

“Vậy nên tôi ở đây,” anh chàng rạng rỡ nói. “Tôi chẳng thể ở đâu khác. Chẳng phải nơi đây kỳ diệu lắm sao?”

Addie nghĩ về tấm kính bẩn và những cánh cửa khóa, những khu vườn và những cánh cổng quanh chúng.

“Có thể lắm,” cô đáp.

“À, cô nghĩ tôi là kẻ theo chủ nghĩa lý tưởng hóa.”

Addie nâng cốc cà phê lên môi. “Tôi nghĩ là mọi chuyện dễ dàng hơn với đàn ông.”

“Đúng thế,” anh ta thừa nhận, trước khi hất đầu về phía trang phục của cô. “Ấy vậy nhưng,” anh ta tiếp tục với nụ cười quỷ quyệt, “cô cho tôi thấy một kẻ không dễ bị khống chế. Aut viam invenium autfaciam, kiểu vậy.”

Hiện cô vẫn chưa biết tiếng La-tinh, anh ta cũng không dịch lại câu đó, nhưng một thập kỷ sau, cô sẽ tra từ và biết được ý nghĩa của chúng.

Tìm đường thực hiện, hoặc tự khai phá con đường riêng.

Rồi cô sẽ mỉm cười, nở nụ cười lưu lại từ cái bóng của nụ cười đêm nay, vì chàng trai này.

Anh chàng đỏ mặt. “Hẳn tôi khiến cô chán lắm.”

“Không hề,” cô nói. “Anh kể cho tôi đi, trở thành một nhà suy tưởng có ra tiền không?”

Tiếng cười của anh ta giòn tan. “Không, chẳng mấy đâu. Nhưng tôi vẫn là con trai của cha tôi mà.” Anh ta giơ hai tay ra, ngửa lòng bàn tay lên. Cô để ý thấy vệt mực bám theo những đường chỉ tay, dính bẩn hoa tay trên đầu ngón như cái cách bụi than từng bám vào tay cô. “Nghề in gia truyền vẫn là một công việc tốt,” anh ta nói.

Nhưng ngay sau khi nói ra những lời đó, một tiếng động khe khẽ vang lên, hóa ra là âm thanh bụng sôi của chàng trai trẻ tuổi.

Addie đã sắp quên cái bình vỡ và chỗ mật ong đổ. Nhưng bữa tiệc còn lại vẫn nằm yên chờ đợi dưới chân cô.

“Anh đã bao giờ đến Notre Dame chưa?”