← Quay lại trang sách

- V - Thành phố New York-Ngày 5 tháng 9 năm 2013

Henry thức dậy vì tiếng rì rầm của xe cộ sáng sớm.

Anh nhăn mặt vì tiếng còi xe và ánh mặt trời rọi vào từ cửa sổ. Anh cố bắt lấy ký ức đêm qua, trong một thoáng chẳng nhớ được gì, chỉ thấy một lát đá phẳng đen thui, một sự tĩnh lặng đặc như bông. Nhưng khi anh nhắm chặt mắt lại, bóng tối nứt ra, nhường chỗ cho cơn đau và nỗi buồn tràn ngập, các mảnh lộn xộn của chai vỡ, cơn mưa lớn và một kẻ lạ trong bộ vest đen, và một cuộc nói chuyện như mơ.

Henry biết Tabitha đã từ chối. Phần đó thì là thật, ký ức đó quá đau đớn nên không thể không phải là sự thật được. Sau tất thảy, đó là lý do anh bắt đầu uống rượu. Rượu dẫn anh băng qua cơn mưa lớn để về nhà, rồi ngồi nghỉ bên mái hiên trước khi bước vào trong, và đó là nơi mà kẻ lạ… không, phần ký ức đó đâu xảy ra.

Kẻ lạ và cuộc nói chuyện của họ chỉ là những tình tiết trong một câu chuyện kể, một sự phê bình từ tiềm thức, phần tối của tâm hồn hiện hình từ nỗi thất vọng.

Cơn đau đầu dộng thình thình vào sọ Henry, anh đưa mu bàn tay lên dụi mắt. Sức nặng của kim loại tì vào má anh. Anh nhăn mặt, thoáng thấy một sợi dây da tối màu nơi cổ tay mình. Một chiếc đồng hồ kim trang nhã với hàng số vàng và mặt đá onyx. Trên mặt đồng hồ là chiếc kim đồng hồ vàng duy nhất đậu trên mảnh đá nhẵn thín cắt ra từ màn đêm.

Henry chưa từng đeo đồng hồ.

Hình ảnh nó nặng nề và xa lạ trên cổ tay khiến Henry nghĩ về một cái cùm. Anh ngồi dậy, vuốt ve móc cài, choáng ngợp trong nỗi sợ đột ngột rằng nó đã buộc lấy anh và không thể tháo ra. Nhưng khi anh chỉ hơi ấn nhẹ, móc cài đã tuột ra, và cái đồng hồ rơi xuống tấm chăn nhăn nhúm.

Nó rơi úp mặt xuống, và thế là, ở mặt sau, Henry thấy ba từ được khắc mảnh như sợi tóc.

Sống tốt nhé.

Anh nhảy ra khỏi giường, tránh khỏi cái đồng hồ, nhìn chằm chằm vào thứ đó như thể chờ nó tấn công. Nhưng nó chỉ nằm đó, yên lặng. Trái tim anh đập thình thịch trong lồng ngực, lớn tới nỗi có thể nghe rõ tiếng, anh chợt thấy mình đứng giữa màn đêm, với nước mưa nhỏ ướt tóc khi kẻ lạ mỉm cười và giơ tay ra.

Chốt kèo.

Nhưng chuyện đó đâu xảy ra.

Henry nhìn vào lòng bàn tay mình, thấy những vết xước nông đầy máu. Để ý thấy những giọt máu đỏ nâu lấm tấm trên giường. Cái chai vỡ. Nó cũng là thật rồi. Nhưng bàn tay quỷ dữ bắt tay anh chỉ là sự huyễn tưởng trong cơn sốt. Nỗi đau có thể gây ra điều đó, chúng len lỏi từ những giờ tỉnh táo vào giấc ngủ. Có một lần, hồi chín hay mười tuổi gì đó, anh đã mơ thấy mình nuốt than cháy, bị mắc kẹt trong tòa nhà rực lửa, khói bỏng rát luồn vào cổ họng. Tâm trí vẫn luôn cố lý giải nỗi đau.

Nhưng chiếc đồng hồ này…

Henry có thể nghe tiếng gõ nhịp nhàng, trầm thấp khi giơ nó lên tai. Nó chẳng tạo ra bất kỳ âm thanh nào khác (chẳng mấy chốc, một đêm sau này, anh sẽ tháo tung nó ra để thấy cái đồng hồ chẳng có bánh răng, chẳng có bất cứ thứ gì lý giải chuyển động âm thầm tiến về trước đó).

Ấy thế, nó vẫn đều đặn, thậm chí là nặng nề trên tay anh. Nó mang đến cảm giác thật.

Nhịp gõ lớn tiếng hơn, sau đó anh nhận ra nó không phát ra từ chiếc đồng hồ. Nó là tiếng đập khô khan của những đầu ngón tay vào mặt gỗ, có ai đó đang ở trước cửa nhà anh. Henry nín thở, chờ xem nó có dừng lại không, nhưng điều đó không xảy ra. Anh tránh xa khỏi đồng hồ, khỏi giường, túm lấy một cái áo sạch trên lưng ghế.

“Đến ngay đây,” anh lầm bầm, tròng nó qua đầu. Cổ áo vướng vào kính, còn anh va vai vào khung cửa, khẽ lầm bầm chửi rủa, suốt chặng đường từ phòng ngủ ra cửa chính chỉ thầm mong người đứng ngoài đó sẽ bỏ cuộc và rời đi. Nhưng người đó không làm thế, Henry mở cửa, hy vọng sẽ thấy Bea hoặc Robbie hay có thể là Helen ngoài hành lang, tìm kiếm con mèo của bà.

Nhưng đó là em gái anh, Muriel.

Muriel đến chỗ của Henry đúng hai lần trong vòng năm năm qua. Một lần trong số đó là vì con bé uống quá nhiều trà thảo dược trong buổi hẹn ăn trưa và không thể trở về Chelsea được.

“Em đang làm gì ở đây thế?” Anh hỏi, nhưng con bé đã sượt qua người anh, gỡ chiếc khăn quàng cổ trông như món đồ trang sức hơn là có tác dụng thực sự.

“Người thân mà cần lý do ư?”

Đó rõ ràng là một câu hỏi tu từ.

Con bé quay người lại, mắt liếc nhìn anh, theo cách anh có thể tưởng tượng khi chúng ngắm những vật trưng bày. Anh chờ đợi lời đánh giá thường lệ của em mình, một phiên bản nào đó như anh trông chán chết.

Nhưng thay vì thế, em gái anh lại nói, “Trông anh ổn đấy.” Thật kỳ lạ, vì Muriel chưa từng nói dối (con bé “không thích khuyến khích sự giả dối trong thế giới đã tràn ngập những lời trống rỗng”) và anh chỉ cần liếc nhìn tấm gương trên hành lang để xác nhận lại, thực tế Henry trông tả tơi gần đúng như cảm giác của anh.

“Tối qua Beatrice đã nhắn cho em, lúc anh không nghe máy,” con bé tiếp tục. “Chị ấy kể cho em về Tabitha, về cả vụ thất bại ấy. Em rất tiếc, Hen.” Muriel ôm anh, còn Henry thì chẳng biết đặt tay vào đâu. Cuối cùng, chúng lơ lửng trong không khí quanh vai con bé cho đến khi nó buông ra.

“Đã có chuyện gì vậy? Cô ta cắm sừng anh?” Henry ước gì câu trả lời là có, vì sự thật còn tệ hơn nhiều, sự thật chỉ đơn giản là anh chẳng đủ sức hấp dẫn. “Chẳng sao đâu,” Muriel tiếp tục. “Kệ cô ta, anh xứng đáng với người tốt hơn.”

Anh suýt bật cười, vì anh không thể đếm được đã bao lần Muriel chỉ ra rằng Tabitha nằm ngoài tầm với của anh.

Con bé liếc nhìn khắp căn hộ.

“Anh bài trí lại à? Trông ấm cúng thật đấy.”

Henry nhìn phòng khách rải rác vài ngọn nến, tranh vẽ và những món đồ khác mà Tabitha lưu lại. Sự bừa bộn là của anh. Phong cách là của cô ấy. “Không.”

Em gái anh vẫn đang đứng. Muriel không bao giờ ngồi, không bao giờ yên vị, thậm chí không bao giờ dựa dẫm.

“Chà, em thấy anh vẫn ổn,” con bé nói, “nhưng lần sau, hãy nghe điện thoại. Ổ,” con bé nói tiếp, lấy lại cái khăn quàng, đã đi được nửa đường ra cửa. “Chúc mừng năm mới.”

Anh phải mất một lúc mới nhớ ra.

Rosh Hashanah*.

Muriel thấy vẻ bối rối trên mặt anh và cười toe. “Anh mà thành giáo sĩ thì hẳn sẽ tồi tệ lắm.”

Anh không phản đối. Henry đáng ra sẽ về nhà như thường lệ, hai anh em đều thế, nhưng David thì không thể rời ca trực ở bệnh viện năm nay, nên cha mẹ họ lên kế hoạch khác.

“Em định tới đền à?” Giờ thì đến lượt anh hỏi.

“Không,” Muriel đáp. “Nhưng tối nay có một buổi biểu diễn trong thành phố, một sự kết hợp giữa khôi hài và những khoái cảm dị thường, khá chắc là sẽ có màn chơi với lửa*. Em sẽ thắp nến trên người ai đó.”

“Bố mẹ sẽ tự hào lắm,” anh khô khốc nói, nhưng thật lòng cũng tin là vậy. Muriel Strauss không thể làm sai điều gì cả.

Con bé nhún vai. “Chúng ta đều ăn mừng theo cách riêng mà.” Con bé chỉnh cái khăn về đúng chỗ với một bông hoa. “Em sẽ gặp anh vào lễ Yom Kippur*.”

Muriel xoay người đi ra cửa rồi quay lại, rướn người lên để vò tóc Henry. “Đám mây bão nhỏ của em,” con bé nói. “Đừng để nơi này quá tối tăm nhé.”

Sau đó, em ấy bỏ đi, còn Henry dựa lưng vào cửa, xây xẩm, mệt mỏi và hoàn toàn bối rối.

*

Henry từng nghe rằng nỗi buồn được phân ra thành các giai đoạn.

Anh băn khoăn không biết tình yêu có như vậy không.

Liệu có bình thường khi cảm thấy mất mát, giận dữ, đau buồn và trống rỗng và bằng cách nào đó, cực kỳ nhẹ nhõm. Có lẽ cơn say rần rật vẫn còn bao phủ mọi cảm giác mà đáng ra anh nên có, hòa quyện chúng thành việc anh làm.

Anh dừng lại ở Roast, cửa hàng cà phê ồn ào cách tiệm sách một dãy nhà. Nơi này có bánh muffin khá ngon, những thứ đồ uống tạm coi như tử tế và cách phục vụ thì khủng khiếp ngang tiêu chuẩn thông thường của khu vực này trong quận Brooklyn, với Vanessa làm công việc trông coi tủ tiền.

New York có đầy những con người lộng lẫy, diễn viên và người mẫu tỏa sáng trong đêm với vai trò người pha chế, rót đồ uống để chi trả tiền thuê nhà cho tới khi đạt được thành tựu lớn đầu tiên. Anh luôn cho rằng Vanessa là một trong số đó, một cô nàng tóc vàng gẩy guộc với hình xăm vô cực nhỏ ở mặt trong cổ tay. Anh cũng luôn cho rằng tên cô là Vanessa - theo cái tên trên ghim cài trước tạp dề - nhưng cô chưa từng thực sự nói tên mình cho anh. Mà thật ra, chưa từng nói bất cứ điều gì với anh, ngoài “Tôi lấy gì cho anh được?”

Henry sẽ dừng ở quầy, còn cô sẽ hỏi món anh gọi và tên của anh (mặc dù anh đến đây sáu ngày một tuần trong vòng ba năm qua. Còn cô thì ở đây hai năm trong thời gian đó), rồi kể từ khi lấy cốc cà phê kem bọt cho anh tới khi viết tên lên cốc và gọi đơn kế tiếp, cô chẳng nhìn đến anh. Ánh mắt cô luôn lướt từ áo anh đến máy tính, rồi tới cằm, khiến Henry cảm thấy như thể mình chẳng hề ở đó.

Đó là cách mọi chuyện diễn ra.

Chỉ là, hôm nay thì không.

Hôm nay, khi nhận đơn của anh, cô đã ngẩng lên.

Một thay đổi thật nhỏ bé, chỉ khác chừng ba, có lẽ là năm phân, nhưng giờ anh đã thấy đôi mắt của cô, một màu xanh dương thảng thốt, còn người pha chế thì nhìn vào anh, chứ không phải cằm anh. Cô vẫn nhìn và mỉm cười.

“Xin chào,” cô nói, “tôi lấy gì cho anh được?”

Anh gọi một cốc cà phê bọt, nói tên mình, thế là kết thúc.

Nhưng không.

“Anh có kế hoạch hay ho nào chưa?” Cô hỏi, khởi đầu câu chuyện khi viết tên anh lên cốc.

Vanessa trước đây chưa từng nói chuyện với anh.

“Có công việc thôi,” anh đáp, sự chú ý của cô ấy trở lại nơi gương mặt anh. Lần này, anh bắt được nét mơ màng mờ ảo - một điều sai trái - trong mắt cô. Là do ánh sáng, hẳn thế, nhưng trong một thoáng, nó trông như tuyết giá, như sương mù.

“Anh làm gì?” Cô hỏi, nghe có vẻ thực sự quan tâm. Vậy là anh kể cho cô ấy nghe về Lời Cuối, nhận thấy mắt cô khẽ sáng lên. Cô thích đọc và chẳng thể nghĩ ra được nơi nào hay ho hơn một tiệm sách. Khi anh trả tiền, những ngón tay họ lướt qua nhau, cô tặng anh một cái liếc mắt nữa. “Hẹn gặp lại ngày mai, Henry.”

Người pha chế gọi tên anh như thể cô đã trộm mất nó, với vẻ tinh quái len giữa nụ cười.

Còn anh thì không chắc rằng cô đang tán tỉnh cho tới khi nhận được đồ uống, thấy một mũi tên nhỏ màu đen do cô vẽ. Nó chỉ thẳng xuống đáy, và khi anh lật lên xem, trái tim anh lập tức đập rộn như động cơ vừa khởi động.

Cô viết tên và số điện thoại của mình dưới đáy cốc.

*

Đến Lời Cuối, Henry mở khóa lưới sắt rồi mở tiếp cánh cửa trong khi nhấm nháp cốc cà phê. Anh lật tấm biển và bắt đầu quy trình cho Sách ăn, mở cửa hàng và xếp các cuốn mới cho tới khi chuông reo, báo hiệu sự xuất hiện của vị khách đầu tiên.

Henry đi ngang qua những giá sách rồi thấy một người phụ nữ đứng tuổi đang dò dẫm giữa lối đi, cứ từ dãy LỊCH SỬ tới KỲ BÍ tới LÃNG MẠN rồi đi ngược lại. Anh để mặc bà vài phút, nhưng tới khi bà lặp lại tới lần thứ ba, anh tiến lại.

“Tôi giúp gi được không?”

“Tôi không biết, tôi không biết nữa,” bà lầm bầm, phần tự nói với chính mình, nhưng khi quay sang anh, có điều gì đó thay đổi trên gương mặt ấy. “À, ý tôi là có, làm ơn nhé, mong là thế.” Tia sáng nhạt, có phần ướt át bừng lên trong mắt khi bà trình bày rằng mình đang tìm một cuốn sách từng đọc.

“Dạo này tôi chẳng thể nhớ mình đã đọc gì hay chưa đọc gì,” bà giải thích, lắc đầu. “Mọi thứ đều có vẻ quen quen. Bìa sách nào cũng giống nhau. Sao họ lại làm vậy? Sao họ lại khiến mọi thứ trông như nhau?”

Henry cho rằng việc đó có liên quan tới tiếp thị và xu hướng, nhưng anh biết có lẽ nói ra điều đó cũng chẳng ích gì. Thay vào đó, anh hỏi bà có nhớ gì về quyển sách không.

“Ồ, để xem nào. Một cuốn sách lớn. Nói về sự sống và cái chết, và lịch sử.”

Không giúp thu hẹp phạm vi nhiều lắm, nhưng Henry đã quen với việc khách hàng thiếu cụ thể. Số người đi vào tìm thứ gì đó họ từng thấy, nhưng lại chẳng thể nói gì ngoài “Bìa màu đỏ,” hoặc “Tôi nghĩ tựa để có từ cô gái.”

“Nó buồn và đáng yêu lắm,” bà giải thích. “Tôi chắc rằng nó viết về nước Anh. Ôi trời. Đầu óc tôi. Tôi nghĩ bìa có hình bông hồng.”

Bà nhìn quanh các giá, đưa bàn tay thô ráp theo. Rõ ràng là bà không quyết định được, nhưng anh thì có. Cực kỳ không thoải mái, anh móc một cuốn tiểu thuyết lịch sử dày ra khỏi giá truyện gần nhất.

“Đây phải không?” Anh hỏi, chìa ra cuốn Sảnh sói. Nhưng anh biết ngay đó không phải là thứ được tìm kiếm khi cuốn sách đã ở trong tay. Bìa sách có hình chú cún con, không phải hoa hồng và cuộc đời Thomas Cromwell chẳng có gì buồn bã hay đáng yêu, mặc dù lối hành văn cực kỳ đẹp, thấm thìa. “Thôi bỏ đi,” anh nói, định vươn tay bỏ nó lại thì gương mặt người phụ nữ sáng bừng lên hạnh phúc.

“Nó đó!” Bà nắm lấy tay anh bằng những ngón tay xương xẩu. “Đây chính là thứ tôi tìm.” Henry khó mà tin được điều đó, nhưng sự vui vẻ của bà quá rõ ràng tới nỗi anh bắt đầu nghi ngờ bản thân.

Anh định tính tiền cho bà thì chợt nhớ ra. Atkinson. Đời nối đời. Một cuốn sách về sự sống và cái chết và lịch sử, buồn bã và đáng yêu, bối cảnh ở Anh, có hai bông hồng trên bia.

“Khoan đã,” anh nói, cúi xuống và lần mò trong góc dãy truyện hiện đại để lấy ra một cuốn sách.

“Là cuốn này?”

Gương mặt người phụ nữ sáng lên, y như ban nãy. “Đúng rồi! Cậu giỏi quá, đây chính là cuốn sách ấy,” bà nói với cùng sự quả quyết y như cũ.

“Mừng là giúp được bà,” anh nói, không chắc có đúng vậy không.

Bà quyết định lấy cả hai cuốn sách, nói rằng chắc chắn mình sẽ thích chúng.

Buổi sáng tiếp tục lạ lùng y như thế.

Một người đàn ông trung niên đến để tìm một cuốn sách thể loại giật gân, rồi ra về với năm cuốn được Henry giới thiệu. Một sinh viên tới tìm thần thoại Nhật Bản, khi Henry xin lỗi vì không có, cô ấy thực sự đã sụp xuống nói rằng không phải lỗi của anh và khăng khăng đòi anh đặt nó về cho mình, dù không chắc chắn về môn học. Một chàng trai có thân hình của một người mẫu và quai hàm sắc hơn dao vót tới tìm sách ở kệ giả tưởng đã viết e-mail lên biên lai bên dưới chữ ký khi thanh toán.

Henry cảm thấy bất ổn, như cách anh cảm thấy khi Muriel bảo rằng trông anh dễ nhìn. Nó vừa giống déjà vu, vừa không giống déjà vu chút nào, vì cảm xúc hoàn toàn mới. Nó như trò đùa ngày Cá tháng Tư, khi các quy luật bị thay đổi, mọi thứ đều là trò chơi, ai cũng tham gia, còn anh vẫn kinh ngạc vì lần gặp gỡ ban nãy, mặt còn hơi đỏ khi Robbie xông vào cửa, tiếng chuông reo theo chuyển động của cậu ấy.

“Ôi trời ơi,” cậu ấy nói, quàng cánh tay quanh Henry. Trong khoảnh khắc đó, anh nghĩ hẳn đã có chuyện rất tồi tệ vừa xảy ra, trước khi nhận ra đúng là đã có chuyện xảy ra với mình.

“Không sao mà,” Henry nói, đương nhiên không thể không sao, nhưng ngày hôm nay quá kỳ lạ tới nỗi mọi sự trước đó đều hơi giống một giấc mơ. Có lẽ đây cũng là một giấc mơ? Nếu thế, anh chưa vội tỉnh lại đâu. “Không sao,” anh lặp lại lần nữa.

“Không sao cũng được mà,” Robbie nói. “Mình chỉ muốn cậu biết rằng mình ở đây, mình đáng lẽ cũng ở đó tối qua nữa. Mình định qua nhà khi cậu không nghe điện thoại, nhưng Bea nói nên để cậu yên, chẳng hiểu sao mình lại nghe cậu ấy nữa. Xin lỗi.”

Những lời ấy nối tiếp nhau liền một mạch.

Vòng tay của Robbie chặt hơn theo lời nói, Henry tận hưởng cái ôm. Chúng vừa vặn và dễ chịu như một chiếc áo khoác đã cũ. Cái ôm lưu lại hơi quá lâu. Henry đằng hắng, tách ra. Robbie bật cười bối rối, quay người đi, đưa mặt về phía ánh sáng. Nhờ vậy, Henry để ý thấy một vệt tím đẹp đẽ dọc thái dương Robbie, ngay ở chỗ tiếp giáp với mép tóc màu cát.

“Cậu lấp lánh thật.”

Robbie uể oải quệt lớp hóa trang đi. “Ồ, diễn tập.”

Có thứ ánh sáng lạ trong mắt Robbie, Henry đã quá biết mấy cặp kính, anh thầm thắc mắc Robbie có đang dùng thứ gì không, hay chỉ đơn giản là do cậu ấy mới ngủ dậy. Hồi đại học, Robbie thường cực kỳ hưng phấn vì chất kích thích, hoặc những giấc mơ, hoặc ý tưởng lớn tới nỗi cạn kiệt sạch năng lượng, để rồi gục xuống.

Chuông lại reo lên.

“Khốn nạn,” Bea tuyên bố, quật túi da xuống quầy. “Thằng đần độn óc đà điểu.”

“Khách hàng kìa,” Henry cảnh cáo, dù người duy nhất đứng gần đó là một ông lão điếc tên là Michael thường lui tới dãy kinh dị.

“Chúng tôi đã phạm tội gì mà phải chịu đựng cơn giận thế này?” Robbie vui vẻ hỏi. Mấy chuyện thị phi luôn khiến cậu ấy tươi tỉnh.

“Cố vấn của mình bị dở hơi,” cô ấy nói, xông qua họ để tới dãy nghệ thuật và lịch sử nghệ thuật. Họ liếc nhìn nhau, rồi bám theo cô.

“Ông ấy không thích đề xuất à?” Henry hỏi.

Bea vẫn đang tìm cách để được duyệt chủ đề luận văn cho cuối năm tươi sáng hơn.

“Ông ấy gạt phắt đi!” Cô ấy thụp xuống giữa lối đi, suýt làm đổ chồng tạp chí. Henry theo sau, nỗ lực hết mình để điều chỉnh lại đống hoang tàn sau chuyển động của cô ấy.

“Ông ấy nói nó quá mật truyền. Như thể nếu ống ấy hiểu nghĩa từ đó thì sẽ bị khùng vậy.”

“Lấy một ví dụ xem nào?” Robbie hỏi, nhưng cô ấy lờ cậu, rướn lên để lấy một cuốn sách xuống.

“Lão già bảo thủ…”

Thêm một cuốn nữa.

“…lạc hậu…”

Một cuốn nữa.

“… chết khô.”

“Đây không phải thư viện nhé,” Henry nói khi cô mang theo chồng sách ra cái ghế da thấp ở trong góc và thả người vào nó, khiến cục lông màu cam giữa hai cái gối cũ giật nảy mình.

“Xin lỗi nhé, Sách,” cô lầm bầm, cẩn thận nhấc con mèo lên thành ghế cũ, nơi anh cố tưởng tượng thành một ổ bánh mì bất tiện. Bea tiếp tục xổ ra cả tràng rủa xả khi lật sách.

“Mình biết chính xác bọn mình cần gì,” Robbie nói, quay về phía phòng kho. “Meredith cất cả giá rượu whisky ở đằng sau đúng không?”

Dù mới là ba giờ chiều, nhưng Henry không phản đối. Anh ngồi xuống sàn, tựa lưng vào giá sách gần nhất, chân duỗi dài, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi không chịu được.

Bea nhìn sang anh, thở dài. “Mình xin lỗi,” cô định bắt đầu nói, nhưng Henry phẩy tay.

“Xin cậu, cứ tiếp tục bôi bác cố vấn của cậu và dãy lịch sử nghệ thuật của mình đi. Phải có ai đó cư xử bình thường chứ.”

Nhưng cô ấy gập sách lại, đặt nó lên chồng và ngồi xuống sàn cạnh Henry.

“Mình nói cho cậu điều này nhé?” Âm cuối của cô ấy hơi cao lên, nhưng anh biết đó không phải một câu hỏi. “Mình mừng là cậu đã chia tay Tabitha.”

Cơn đau như vết dao cắt vào lòng bàn tay anh. “Cô ấy chia tay mình mà.”

Bea phẩy tay như thể chi tiết nhỏ đó không quan trọng. “Cậu xứng với người yêu cậu vì chính con người cậu. Cả mặt tốt, mặt xấu và sự điên rồ.”

Cậu muốn được yêu. Cậu muốn mình đủ xứng đáng trong mắt họ.

Hemy nuốt khan, “Ừ, chậc, là chính mình có vẻ không hiệu quả lắm.”

Bea ngả người về phía anh. “Đó chính là vấn đề, Henry. Cậu chưa từng là chính cậu. Cậu lãng phí quá nhiều thời gian cho những người không xứng với mình. Những người không hiểu cậu, vì cậu không cho họ hiểu mình.” Bea ôm lấy gương mặt anh, đôi mắt cô ánh lên tia sáng là lạ. “Henry, cậu thông minh, tốt bụng và khó tính lắm. Cậu ghét ô-liu và những người nói chuyện khi xem phim. Cậu thích sữa lắc và những người có thể cười tới chảy nước mắt. Cậu nghĩ đọc trước phần kết của một cuốn sách là tội ác. Khi tức giận, cậu sẽ im lặng, khi buồn bã, cậu lớn tiếng, còn khi vui vẻ, cậu ngân nga.”

“Thì?”

“Thì tớ chưa nghe cậu ngân nga mấy năm rồi” Tay cô ấy tuột xuống. “Nhưng lại thấy cậu ăn cả đống ô-liu.”

Robbie trở lại, cầm theo một cái chai và ba cái cốc. Khách hàng duy nhất của Lời Cuối đã ra ngoài, Robbie lập tức khép lại cánh cửa sau lưng ông ấy, lật biển báo ĐÓNG CỬA. Cậu ấy lại gần và ngồi xuống giữa Henry và Bea trên sàn nhà, dùng răng mở nút chai.

“Chúng ta uống vì điều gì đây?” Henry hỏi.

“Vì khởi đầu mới,” Robbie đáp, đôi mắt vẫn sáng rực khi đổ đầy các cốc.