- X - Thành phố New York-Ngày 13 tháng 9 năm 2013
Người ta nói rất nhiều về nhà.
Nhà là nơi trái tim nương náu, họ nói thế. Chẳng có nơi nào sánh bằng nhà. Rời xa quá lâu thi bạn sẽ nôn nao nhớ nó.
Bệnh nhớ nhà - Henry biết cụm từ đó vốn phải có nghĩa là một người đang phát ốm vì nhớ gia đình mình, chứ không phải phát ốm vì nó*. Nhưng sao anh cảm thấy có vẻ như cách hiểu thứ hai cũng khá hợp lý. Anh yêu gia đình mình, thật sự là thế. Chỉ là không phải lúc nào anh cũng thích người nhà. Không thích con người của anh khi ở bên họ.
Ấy thế mà anh lại ở đây, lái xe chín mươi phút về phía bắc, để thành phố chìm lại đằng sau khi chiếc xe thuê rầm rì dưới bàn tay. Henry biết mình có thể đi tàu với giá rẻ hơn nhiều, nhưng thực lòng, anh thích lái xe. Hay đúng hơn, anh thích tiềng ồn trắng khi lái xe, tính đích xác cụ thể khi đi từ nơi này tới nơi kia, các chiều hướng, sự kiểm soát. Hơn tất cả, anh thích sự bất lực chẳng thể làm gì ngoài lái xe, tay trên vô lăng, mắt nhìn ra đường, tiếng nhạc không ngừng trên loa.
Anh bảo Muriel đi cùng và thầm nhẹ nhõm khi con bé nói mình đã lên tàu rồi, rằng David đã về sáng nay và sẽ đón em ấy ở nhà ga, tức là Henry sẽ là người cuối cùng có mặt.
Henry luôn là người cuối cùng có mặt ở đó.
Càng gần Newburgh, thời tiết càng biến động, lời cảnh báo đì đùng nơi đường chân trời báo hiệu cơn bão đang ập tới. Anh hít một hơi thật sâu, tự chuẩn bị tinh thần cho bữa tối của gia đình Strauss.
Anh có thể hình dung ra nó, năm người bọn họ ngồi quanh chiếc bàn phủ vải lanh như một phiên bản Do Thái Ashkenazi* vụng về bắt chước theo tranh Rockwell, cảnh vật khô cứng, mẹ anh ngồi một đầu, cha anh ngồi ở đầu còn lại, anh trai và em gái ngồi hai bên.
David, cột trụ, với đôi mắt nghiêm khắc và tư thế cứng nhắc.
Muriel, cơn lốc xoáy, với những lọn tóc đen rối và nguồn năng lượng âm ỉ.
Còn Henry, bóng ma (ngay tới tên anh cũng chẳng ăn khớp, chẳng Do Thái chút nào mà được đặt theo một trong những người bạn lâu năm nhất của cha).
Ít nhất thì họ trông giống một gia đình. Chỉ cần liếc qua bàn ăn, người ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương đồng giữa gò má này, quai hàm kia và lông mày nọ. David đeo kính mắt giống cha, để nó đậu trên mũi nên vành phía trên sẽ chắn đường nhìn. Muriel mỉm cười giống mẹ, thoải mái và thân thiện, khi phá lên cười cũng chẳng khác, đầu em ấy sẽ hất ra sau, giọng trong trẻo và tròn đầy.
Henry có những lọn tóc đen mềm của cha, đôi mắt xanh xám của mẹ, nhưng lại thiếu thứ gì giữa sự kết hợp đó. Anh thiếu sự vững vàng của người này và sự vui vẻ của người kia. Đường nét bờ vai anh, khuôn miệng anh… những điểm tinh tế này luôn khiến anh giống một vị khách trong nhà người lạ.
Và đây là cách bữa tối nay diễn ra: cha và anh trai sẽ nói chuyện về thuốc thang, mẹ và em gái sẽ nói về nghệ thuật, còn Henry sợ chết khiếp khoảnh khắc những câu hỏi dồn vào mình. Khi mẹ tỏ rõ sự lo lắng về mọi thứ và cha thì tìm một cái cớ cho sự lông bông, David nhắc anh đã gần ba mươi tuổi, còn Muriel thì khuyên anh nên cống hiến, thật sự cống hiến, nói như thể cha mẹ không còn trả tiền điện thoại cho con bé nữa vậy.
Henry lái xe xuống lối ra khỏi đường cao tốc, cảm nhận làn gió thốc vào tai.
Xuyên qua trung tâm thành phố, lắng nghe tiếng đì đùng trong hộp sọ.
Năng lượng tĩnh từ sự căng thẳng.
Anh biết mình trễ rồi.
Anh luôn đến trễ.
Việc này là khởi điểm của rất nhiêu cuộc tranh cãi. Đã từng có thời anh nghĩ là do mình bất cẩn, trước khi nhận ra nó là nỗ lực phòng vệ, sự trễ nải cố tình dù chỉ do tiểm thức, anh trì hoãn cuộc góp mặt khó chịu mà lại không thể tránh khỏi. Tránh ngồi trên chiếc bàn kẹp giữa anh chị em của chính mình, đối diện cha mẹ như một tên tội phạm trước đội hành quyết.
Thế nên Henry đến muộn. Khi cha ra mở cửa, anh đã chuẩn bị nghe cha nhắc nhở về giờ giấc, cái nhíu mày trách mắng, lời móc mỉa rằng anh trai và em gái anh luôn tìm được cách để về sớm hơn năm phút…
Nhưng cha anh chỉ cười.
“Con đây rồi!” Ông nói với đôi mắt sáng bừng ấm áp.
Và ám hơi sương.
Có lẽ bữa tối hôm nay sẽ chẳng giống bất kỳ bữa tiệc tại gia nào khác của gia đình Strauss.
“Xem ai này!” Cha anh gọi, dẫn Henry vào phòng đọc sách.
“Lâu rồi không gặp,” David lên tiếng, bắt tay anh, vì mặc dù họ sống cùng thành phố (khốn thật, cùng một tuyến tàu điện ngầm luôn), nhưng lần cuối Henry gặp anh trai là ở đây, vào đêm đầu tiên của lễ Hanukkah.
“Henry!” Một đám mây tóc đen xòa tới, sau đó Muriel quàng tay quanh cổ anh. Con bé thơm má anh, để lại một vệt son môi màu san hô mà lát nữa anh sẽ chùi đi trước tấm gương ở hành lang.
Từ phòng đọc sách tới phòng ăn, chẳng ai nhận xét gì về độ dài của tóc anh, thứ chẳng hiểu sao luôn quá dài, hoặc cái áo anh đang mặc, đã sờn rồi nhưng là thứ thoải mái nhất mà anh sở hữu.
Không ai bảo anh quá gầy dù chỉ một lần, hoặc cần ra nắng nhiều hơn, hoặc trông quá mệt mỏi, mặc dù đó thường là tất cả những lời mào đầu cho nhận xét về độ khó khăn của việc quản lý một cửa hàng sách ở Brooklyn.
Mẹ anh đi ra từ nhà bếp, tháo đôi găng tay chống nóng ra. Bà ôm lấy gương mặt anh, mỉm cười và nói rất mừng vì anh đây rồi.
Henry tin mẹ mình.
“Vì gia đình,” cha nâng ly khi họ ngồi xuống ăn. “Lại sum vầy.”
Anh cảm thấy như mình đã bước sang một phiên bản khác của cuộc đời, không phải phía trước, không phải phía sau, mà là khác hướng. Nơi mà em gái anh ngước nhìn anh, còn anh trai anh không nhìn xuống, nơi mà cha mẹ anh tự hào và mọi lời đánh giá đều tan vào không khí như làn khói thoát khỏi đám lửa. Anh không nhận ra được bao nhiêu phần của các mô liên kết hình thành từ mặc cảm tội lỗi. Rằng khi thiếu trọng lượng của nó, anh thấy chuếnh choáng và nhẹ bẫng.
Hưng phấn.
Chẳng ai nhắc tới Tabitha và lời cầu hôn thất bại dù tin họ chia tay đã lan ra, hệ quả hiển hiện rõ ràng bằng chiếc ghế trống mà chẳng ai định giả vờ là một phần truyền thống gia đình.
Tháng trước, khi gọi điện, Henry có kể cho David về chiếc nhẫn. Anh trai anh đã hỏi, gần như vô tình, rằng anh nghĩ cô ấy thật sự sẽ đồng ý à. Muriel thì chưa từng thích cô ấy, nhưng Muriel chẳng thích người yêu nào của Henry hết. Không phải vì họ quá tốt so với anh, mặc dù em ấy cũng sẽ nhận xét như thế. Nhưng em ấy không thích họ đơn giản là vì thấy họ nhàm chán, kéo dài ra từ cảm xúc dành cho chính Henry.
Truyền hình cáp, đôi khi em ấy sẽ gọi họ như thế. Hay hơn so với xem sơn khô, nhưng chỉ hơn xem lại cái gì đó một tẹo. Người duy nhất em ấy có vẻ ủng hộ là Robbie, mà Henry dám chắc chủ yếu là vì bê bối sẽ xảy ra nếu anh đưa cậu ấy về nhà. Chỉ mình Muriel biết Robbie đã từng là hơn một người bạn của anh. Đó là một bí mật mà em ấy giữ được.
Buổi tối nay quá rùng rợn.
David ấm áp và tò mò.
Muriel chu đáo và tử tế.
Cha lắng nghe mọi lời anh nói và có vẻ thật sự để tâm.
Mẹ bảo anh rằng bà thấy tự hào.
“Về cái gì ạ?” Anh hỏi, thực sự bối rối, còn bà phá lên cười như thể đó là một câu hỏi ngớ ngẩn.
“Về con.”
Sự phán xét vắng mặt đang reo vang, một cơn hoang mang về sự tồn tại.
Anh kể cho cả nhà về lần tình cờ gặp Trưởng khoa Melrose, đợi David chỉ ra điều hiển nhiên rằng anh không đủ điều kiện, đợi cha hỏi anh về vấn đề còn ẩn giấu. Mẹ sẽ lặng đi còn em gái sẽ lớn tiếng bảo anh thay đổi hướng đi là có lý do, đòi được biết bò trở lại thì có ý nghĩa gì không.
Nhưng chẳng có điều gì như thế xảy ra.
“Tốt,” cha nói.
“Họ may lắm mới có được con,” mẹ anh nói.
“Em sẽ là một giáo viên tốt,” David nói.
Chỉ mình Muriel tỏ ra hơi phản đối. “Anh chẳng vui vẻ gì hồi đó…”
Nhưng lời này không mang theo phán xét, chỉ có sự che chở kín kẽ.
Sau bữa tối, mọi người trở lại góc riêng của mình. Mẹ vào bếp, cha và anh trai vào phòng đọc sách, em gái ra ngoài trời đêm ngắm sao và cảm nhận mặt đất, thường thì đây sẽ là mật mã cho cơn đê mê của con bé.
Henry vào bếp giúp mẹ rửa bát.
“Mẹ rửa, con lau nhé,” bà nói vậy và trao cho anh một cái khăn. Họ tìm được cách làm việc hài hòa với nhau, sau đó mẹ hắng giọng.
“Mẹ thấy tiếc về chuyện Tabitha,” bà nói bằng giọng trầm thấp, như thể biết rằng chủ đề này là cấm kỵ. “Mẹ tiếc vì con đã phí quá nhiều thời gian với con bé ấy.”
“Không phải phí phạm gì đâu ạ,” anh nói, mặc dù đúng là anh có cảm giác như vậy thật.
Bà tráng một cái đĩa. “Mẹ chỉ muốn con hạnh phúc. Con đáng được hạnh phúc.” Mắt bà lấp lánh, anh không chắc đó là do làn sương lạ hay chỉ là nước mắt sắp thành hình. “Con mạnh mẽ, thông minh và thành công.”
“Con không ngờ đấy,” Henry nói, lau một cái đĩa. “Con vẫn thấy mình thật đáng thất vọng.”
“Đừng nói như thế,” mẹ anh nói, có vẻ thật sự bị tổn thương. Bà đỡ lấy má anh. “Mẹ yêu con, Henry ạ, chính con thôi.” Bàn tay bà lại hạ xuống chỗ đĩa. “Để mẹ làm nốt,” bà nói. “Đi tìm em gái con đi.”
Henry biết chính xác em ấy đang ở đâu.
Anh bước ra hiên sau nhà, thấy Muriel đang ngồi trên xích đu, hút một điếu cuốn và nhìn ra hàng cây trong tư thế suy tưởng. Con bé luôn ngồi như thế, như thể đợi ai đó chụp một tấm ảnh. Anh từng làm thế một hoặc hai lần, nhưng mấy tấm ảnh trông quá cứng nhắc, quá sắp đặt. Hãy cứ tìm Muriel nếu muốn biến tấm ảnh ngẫu hứng trở thành hàng dàn dựng.
Giờ những tấm ván rên khẽ dưới bàn chân anh, còn con bé mỉm cười mà chẳng buồn nhìn lên. “A, Hen.”
“Sao em biết là anh?” Anh hỏi, ngồi xuống cạnh em gái.
“Anh bước nhẹ nhất,” con bé đáp, chuyển cho anh điếu thuốc.
Henry rít một hơi dài, giữ khói lại trong lồng ngực cho tới khi cảm thấy nó bốc lên đầu. Một cơn mê dịu dàng và ồn ã. Họ trao điếu thuốc qua lại, ngắm cha mẹ qua lớp kính. Chà, cha, mẹ và David, anh ấy đi sau cha, từng tư thế đều giống hệt.
“Rùng rợn ghé,” Muriel lầm bầm.
“Kỳ quặc thật nhỉ.”
Con bé cười rúc rích. “Sao anh em mình không hay chơi với nhau nhỉ?”
“Em bận,” anh đáp, vì nói thế tử tế hơn nhắc em ấy rằng họ không thật sự là bạn.
Con bé ngả đầu lên vai anh. “Em luôn có thời gian cho anh mà.”
Họ hút trong im lặng cho tới khi chẳng còn lại gì ngoài khói và mẹ gọi vào vì đã tới giờ cho món tráng miệng. Henry đứng lên, đầu óc quay cuồng chẳng mấy dễ chịu.
“Kẹo cao su này?” Em gái của anh hỏi, giơ ra một hộp thiếc, nhưng khi mở ra, anh thấy một dải thuốc viên hồng nhỏ. Những chiếc ô. Anh nghĩ về cơn mưa đổ, kẻ lạ khô ráo đứng cạnh mình và đóng hộp lại.
“Thôi, cảm ơn.”
Họ trở vào trong để ăn tráng miệng, dành giờ tiếp theo nói về mọi điều và cũng chẳng về gì cả. Mọi thứ thật tốt đẹp, cực kỳ dễ chịu, thanh thản thoát khỏi những lời nhận xét móc mỉa, những cơn cãi vã nhỏ mọn, sự phản đối thầm kín, Henry cảm thấy mình vẫn đang nín thở, vẫn níu lấy cơn đê mê, lồng ngực thì đau nhưng trái tim thi hạnh phúc.
Anh đứng dậy, đẩy cà phê sang một bên. “Con nên đi thôi.”
“Con ở lại được mà,” mẹ đề nghị, lần đầu tiên trong vòng mười năm anh cảm thấy thực sự đắn đo, tự hỏi sẽ như thế nào nếu tỉnh lại như thế này, trong hơi ấm, trong sự dễ chịu, trong cảm giác mà gia đình mang đến, nhưng thật sự là tối nay đã quá hoàn hảo rồi. Anh cảm thấy mình đang đi trên lằn ranh mỏng giữa cơn hưng phấn ngọt ngào và một đêm trên sàn nhà tắm, mà anh thì không muốn bất cứ thứ gì đẩy lệch sự cân bằng.
“Con phải về thôi,” anh nói, “cửa hàng mở cửa lúc mười giờ.”
“Con làm việc vất vả quá” là điều mẹ sẽ khống bao giờ nói. Mà có vẻ mẹ sắp nói điều đó vào lúc này.
David nắm lấy vai anh, nhìn anh bằng đôi mắt phủ kín mây, rồi nói, “Anh yêu em, Henry. Mừng là em đang ổn cả.”
Muriel quàng tay quanh eo anh. “Đừng xa cách đấy.”
Cha theo anh ra xe, khi Henry bắt tay cha, ông kéo anh lại ôm và nói, “Cha tự hào về con, con trai.”
Một phần trong anh muốn hỏi tại sao, muốn nhử, muốn thử giới hạn của bùa mê này, muốn ép cha do dự, nhưng anh không thể bắt mình làm vậy. Anh biết chuyện này không thật, nếu xét theo cách nghiêm cần nhất, nhưng anh không quan tâm.
Nó vẫn tốt đẹp làm sao.