← Quay lại trang sách

- XV- Thành phố New York-Tháng Tám năm 2014

Đây là những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Henry.

Nói như vậy thật kỳ quặc, anh biết chứ.

Nhưng thời điểm này có tính tự do kỳ lạ, sự thoải mái đặc biệt khi đã biết trước. Cái kết đang lao tới với anh, ấy thế, anh lại không cảm thấy mình đang rơi vào nó.

Anh biết mình nên sợ hãi.

Ngày nào anh cũng ôm lấy nỗi sợ hãi không chịu yên, chờ đợi những đám mây bão ùn ùn kéo đến, ngóng trông cơn hoảng loạn định mệnh sẽ leo vào trong lồng ngực, xé mình ra thành từng mảnh.

Nhưng đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, nhiều năm kể từ khi ghi nhớ được, anh không sợ hãi. Anh lo lắng cho bạn bè, đương nhiên rồi, cho tiệm sách và cả con mèo nữa. Nhưng dưới nỗi thấp thỏm là sự bình yên kỳ lạ, phẳng lặng và thanh thản tới kỳ diệu khi anh tìm thấy Addie, khi anh biết cô, yêu cô và có cô ở bên.

Anh hạnh phúc.

Anh đã sẵn sàng.

Anh không sợ hãi.

Đó là những gì anh tự bảo mình.

Anh không sợ hãi.

*

Họ quyết định đi lên phía bắc.

Rời khỏi thành phố, tránh xa nhiệt độ mùa hè oi ả.

Đi ngắm những vì sao.

Anh thuê xe, họ lái về phía bắc. Sau nửa chặng đường tới Hudson, anh nhận ra Addie chưa từng gặp gia đình anh, cũng nhận ra và đột ngột nặng trĩu cõi lòng, rằng anh chẳng bao giờ về nhà trừ lễ Rosh Hashanah và rằng tới lúc đó anh đã ra đi mất rồi. Rằng nếu anh không rẽ vào lối ra cao tốc này, anh sẽ không bao giờ có cơ hội nói lời từ biệt.

Rồi sau đó, những đám mây bắt đầu kéo đến, nỗi sợ định leo vào trong ngực anh, vì anh không biết mình sẽ nói gì, anh không biết làm thế có ích gì.

Rồi sau đó, anh đi qua lối rẽ, khi đã không còn kịp nữa thì anh lại hít thở được. Addie đang chỉ vào một tấm biển ghi hoa quả tươi, nên họ rẽ khỏi con đường, mua đào trên kệ đứng, bánh mì kẹp trong chợ, lái thêm một giờ về phía bắc tới một công viên tiểu bang, nơi ánh nắng nóng rực nhưng bóng râm dưới những hàng cây lại mát mẻ. Họ dành cả ngày lang thang trên những con đường giữa rừng. Khi đêm xuống, họ trải thảm trên mui chiếc xe thuê và nhoài người giữa thảm cỏ dại rậm rạp và những vì sao.

Dày đặc quá, đêm dường như không còn tối nữa.

Anh vẫn hạnh phúc.

Anh vẫn có thể hít thở.

Họ không có lều, nhưng dẫu sao trời cũng đang quá nóng để tìm mái che.

Họ nằm trên chiếc chăn trải lên cỏ, nhìn bóng mờ ảo của dải ngân hà. Anh nghĩ tới Tạo Tác ở Công viên High Line, khu triển lãm về bầu trời và cảm giác cận kể những vì sao vào lúc đó, giờ thì chúng mới xa xôi làm sao.

“Nếu có thể làm lại,” anh hỏi, “liệu em có lập giao kèo không?”

Addie đáp có.

Kiếp sống này khó khăn và cô độc, nhưng cũng tuyệt vời, cô nói vậy. Cô đã sống qua chiến tranh, chiến đấu giữa họ, chứng kiến những cuộc cách mạng và sự hồi sinh. Cô đã để lại dấu ấn lên hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật, như dấu vân tay dưới đáy cái bát đang được hong khô. Cô đã thấy những điều kỳ diệu, đã phát điên, đã nhảy múa trên đồi tuyết và chết cóng bên dòng sông Seine. Cô đã sa vào lưới tình với bóng tối vô số lần, và đã yêu một con người một lần.

Cô mệt rồi. Mệt không tả được.

Nhưng chắc chắn, cô đã sống.

“Chẳng có điều gì hoàn toàn tốt đẹp hoặc hoàn toàn tệ hại,” cô nói. “Cuộc đời rối rắm hơn thế nhiều.”

Ở nơi đây, giữa bóng tối, anh tự hỏi điều đó liệu có đáng giá.

Liệu những giây phút sung sướng có đáng để đổi lấy nỗi buồn dai dẳng?

Liệu những phút tươi đẹp có đáng để đổi lấy nhiều năm đau khổ?

Cô quay đầu, nhìn anh và nói, “Mãi đáng.”

Họ ngủ dưới những vì sao. Khi thức dậy vào buổi sáng, hơi nóng đã tan đi, không khí lành lạnh, những lời thì thầm đầu tiên của mùa mới, mùa đầu tiên anh sẽ không được biết đang đợi ở xa.

Dù vậy, anh tự nhủ, mình không sợ hãi.

* * *

Sau đó, tuần biến thành ngày.

Có những lời từ biệt anh nhất định phải nói.

Anh gặp Bea và Robbie ở quán Merchant vào một đêm nọ. Addie ngồi ở phía đằng kia quán, uống soda, cho anh không gian riêng. Anh muốn cô đến đây, anh cần cô ở đây như một chiếc mỏ neo im lặng giữa cơn bão. Nhưng họ đều biết, nếu cô ngồi cùng bàn với anh, Bea và Robbie có thể sẽ quên hết, mà anh cần họ nhớ.

Trong một thoáng, mọi thứ vẫn bình thường, tuyệt diệu tới đau lòng.

Bea nói về đề xuất luận văn mới nhất của mình, có vẻ như nhờ phép màu của lần thứ chín, nó đã được duyệt. Robbie thì nói về buổi biểu diễn mở màn vào tuần tới. Henry không nói cho cậu ấy rằng anh đã lẻn vào buổi thử trang phục ngày hôm qua, rằng anh và Addie đã trốn ở hàng ghế cuối cùng, cúi thấp để có thể thấy Robbie trên sân khấu, xán lạn và xinh đẹp. Cậu đắm mình trong diễn xuất, nằm dài trên ngai vàng nhuốm sắc màu của Bowie với nụ cười quỷ quyệt và phép thuật của riêng mình.

Cuối cùng, Henry đã nói dối. Anh kể với họ mình sẽ rời thành phố.

Lên phía bắc, gặp cha mẹ. Không, chưa tới lúc, nhưng có họ hàng tới thăm, nên mẹ anh gọi về. Chỉ cuối tuần thôi, anh nói vậy.

Anh hỏi Bea có thể làm ở cửa hàng giúp không.

Hỏi Robbie có thể chăm mèo được không.

Họ đều nói có, chỉ đơn giản vậy, vì họ không biết đây là lời tạm biệt. Henry trả tiền, Robbie đùa cợt gì đó, còn Bea than phiền vì thời đại học của mình. Henry bảo họ anh sẽ gọi cho họ khi quay lại.

Khi anh đứng dậy, Bea hôn má anh, anh kéo Robbie lại ôm, Robbie bảo tốt hơn anh đừng có bỏ lỡ buổi diễn đấy, Henry hứa sẽ không, rồi họ cùng đi, họ khuất bóng.

Anh quyết định vậy, lời tạm biệt nên như thế này.

Không phải dấu chấm hết, mà là một dấu lửng, một câu nói bỏ dở cho tới khi có người đón lấy.

Một cánh cửa bỏ ngỏ.

Dần chìm vào giấc ngủ.

Anh tự nhủ mình không sợ.

Tự nhủ rằng sẽ không sao, anh không sao cả.

Ngay khi anh bắt đầu nghi ngờ, bàn tay Addie liền ở đó, mềm mại và vững vàng trên cánh tay anh, đưa anh về nhà. Họ leo lên giường, cuộn vào nhau trước bão tố.

Đôi lúc, giữa đêm khuya, anh cảm thấy cô ngồi dậy, nghe tiếng cô đi lại ở hành lang.

Nhưng đã muộn rồi, anh không nghĩ ngợi gì hết.

Anh trở mình và tiếp tục ngủ. Khi tỉnh giấc lần nữa, căn phòng vẫn tối, còn cô vẫn nằm cạnh anh.

Chiếc đồng hồ trên bàn nhích thêm một chút tới gần nửa đêm.