← Quay lại trang sách

Chương 3

Chưa đầy sáu giờ sáng, bà Nội đã lịch kịch đánh thức cả nhà dậy, cô Thoa mắt nhắm mắt mở vừa xuống nhà đã càu nhàu :

– Còn tối um tối mò thế này, ai người ta cho thăm với hỏi cơ chứ. Mẹ rõ thật bày đặt, đau mà không lo ngủ lo ngáy gì cả. Mẹ có đi được vào trại lính thăm nó đâu mà mẹ cũng dậy sớm chi vậy.

Bà Nội khoát tấm mùng sang một bên, dựa lưng vào tường, thở ra :

– Tao có chợp mắt được một phút nào đâu mà ngủ. Với lại hôm qua thằng Vạn nó chả dặn cả nhà phải dậy sớm sửa soạn đâu đấy cho nó sang nó đón là gì. Mày xem châm cái bếp mà kho lại mớ cá bống mang vô cho thằng Đoàn ăn.

– Mẹ làm như cả nước này chỉ có mình thằng Đoàn đi lính không bằng. Thằng Vạn có sang thì cũng phải hết giới nghiêm nó mới sang được chứ.

Thấy cô Thoa cứ cằn nhằn mãi, Mai bênh bà Nội :

– Không đâu, không chừng chú Vạn với anh Lý sắp đến rồi cũng nên. Cháu thấy trên xe chú Vạn có dán cái giấy ưu tiên đi trong giờ giới nghiêm. Bữa qua chú có bảo chú sẽ đưa anh Lý sang sớm rồi đón ông Nội đi ăn sáng nữa mà.

Ông Nội đã rít xong một hơi thuốc lào, ông thở khói đầy nhà rồi la :

– Chúng nó sang đến nơi bây giờ đấy. Có sửa soạn đi cho kịp không mà còn đứng đó kèo nhèo. Mẹ con cô cháu bây rõ là…

Cô Thoa quay đi, xì một tiếng nhỏ rồi lầu bầu xuống nhóm bếp. Ông Nội đứng dậy ra cửa sổ. Trời phía ngoài đã có vẻ dần sáng. Bà Nội lo lắng :

– Không biết bữa qua thằng Vạn nó có đón được thằng Lý ra không nhỉ. Tội nghiệp, thằng Đoàn mà nghe được thằng Lý kể chuyện, chắc nó mừng lắm. Bữa trước tôi cũng quên khuấy chưa hỏi thăm nó xem bên nhà bà Ấm Ba dưới Hải Dương bây giờ ra sao.

Ông Nội an ủi bà :

– Thì lát nó ra rồi bà tha hồ mà hỏi. Thằng Vạn nó đã bảo nó đón là nó phải đón được chớ. Tôi thấy cái ông gì đó ở Trung Tâm Chiêu Hồi có vẻ nể nó lắm.

Rồi ông Nội quay sang Mai :

– Con Mai, vô tủ lục cho ông cái áo len đi. Trời đất hồi này lạ gớm, đầu hôm nóng vậy mà giờ đã thấy lạnh.

Mai lục được chiếc áo len mang ra cho ông Nội khoác thì chị Phấn cũng vừa đến. Chị mang theo một cái giỏ lớn, lấy ra một ký nho biếu bà Nội, rồi xếp riêng một lô cam táo để mang vào trại cho anh Đoàn. Thật cô Thoa than thở cũng có phần đúng, chỉ một việc vào trại nhập ngũ thăm anh Đoàn thôi mà sao long trọng quá. Từ cả tuần trước, bà Nội đã bắt chú Vạn liên lạc với trại Nguyễn Tri Phương để «gửi hộp ruốc thịt tao mới làm vào cho nó ăn». Khi chú Vạn liên lạc được với trại Nguyễn Tri Phương anh Đoàn đã được đưa sang Quang Trung. Đến đây thì chú Vạn có thể thở phào nhẹ nhõm được rồi. Chú nói:

– Nó sang Quang Trung là đi thăm được rồi. Để chủ nhật này con đưa cả nhà lên trên thăm nó.

Bà Nội vẫn cứ đau lai rai, bệnh không tăng mà cũng không chịu giảm, nhưng người cứ càng ngày càng xọp đi vì bà lo lắng cho mấy đứa cháu quá, không sao ngủ được. Nghe chú Vạn hứa thế rồi, bà vẫn chưa hết lo :

– Thế tuần rồi cháu vô trại hỏi nó, họ bảo nó có sao không ?

Ông Nội gạt đi :

– Bà thì cứ lẩm bẩm vì những chuyện không đâu. Bộ nó sổ mũi nhức đầu trong trại người ta cũng phải báo cáo với bà nữa sao.

Chú Vạn nói cho bà Nội yên lòng :

– Bác yên chí đi. Nó sang Quang Trung tức là chỉ phải ở đó 9, 10 ngày thôi. Khi đâu vào đó là có quyền đi phép về thăm nhà được rồi. Đáng nhẽ tuần trước con bắt thằng Phước con anh Tham nó vào lãnh thằng Đoàn ra được, nhưng nó lại chích T.A.B thành ra bị sốt nằm li bì. Để chủ nhật này bắt thằng Phước nó đưa cả nhà vào tận nơi, khỏi phải đi bộ.

Ông Nội ngạc nhiên :

– Thằng Phước nó làm chức gì mà người ta để nó được quyền vào trại vậy ?

Chú Vạn cười :

– Nó là Trung úy Phi Công lận. Nó lại quen biết với mấy tay ở trong đó kỹ lắm. Bác cứ yên tâm để đó con lo cho. Thứ bảy con còn phải vào Chiêu Hồi lãnh thằng Lý ra cho thầy con nữa. Để chủ nhật con đưa nó sang sớm rồi đón bác đi ăn sáng luôn. Cho thằng Việt Cộng nó ăn sáng cho nó biết mùi Saigon.

Tội nghiệp chú Vạn, bình thường chẳng thấy mặt mũi chú đâu, nhưng khi họ hàng có chuyện gì thì chú lại là người sốt sắng nhất. Lũ cháu thường đùa là vì tính chú sốt sắng quá cho nên ế vợ. Vợ à. Tao thèm vào. Bọn đàn bà là chúa ích kỷ, chỉ thích người yêu của họ xấu với tất cả mọi người, để chỉ tốt riêng với họ. Đó là triết lý của chú Vạn về đàn bà.

Trời đã sáng dần, con đường rầy xe lửa trước nhà đã hiện rõ ngoài khuôn cửa. Mai thay đồ xong thì chiếc xe traction cũ kỹ của chú Vạn cũng vừa kêu ầm ầm ngoài ngõ

– Đó, tao đã bảo mà, không kêu chúng bây dậy thì đâu có đi kịp.

Bà Nội lật đật tìm dép chạy ra phòng ngoài. Chú Vạn tay cầm xâu chìa khóa xe đong đưa, chưa vào đến cửa đã giục :

– Đâu rồi, con Mai con Phấn đâu, mang đồ ra xe mau. Bác làm điếu thuốc lào nữa đi rồi đi liền mới kịp ăn sáng.

Sau lưng chú Vạn là anh Lý mặc chiếc áo sơ mi trắng bóc, tay ôm một bó hoa lay-ơn trước ngực. Mai kêu lên :

– Trời, anh Lý, anh mang hoa đi đâu thế này.

Hai người đã vào đến giữa nhà, chú Vạn đùa :

– Có một ông Việt Cộng chịu con Mai quá, đi mua hoa làm lễ ra mắt đấy.

– Chú Vạn, kỳ quá à.

Mai la lớn và anh Lý đặt bó lay-ơn xuống bàn ăn, giải thích với ông Nội:

– Thưa ông, đây là bó hoa của ông giáo sư Tài gửi biếu ông. Ông Tài nói là có gặp ông với em Mai trong Trung Tâm Chiêu Hồi bữa trước. Ông mới đi nói chuyện đâu trên Viện Đại Học Đà Lạt nên mang hoa về luôn.

Bà Nội nhìn bó hoa ngơ ngác :

– Ông giáo sư nào vậy, sao tao không nghe ông bây nói gì cả.

Chú Vạn được thể, càng trêu Mai

– Bác không biết đâu. Ông Tài này là giáo sư Đại Học ở Hà Nội xâm nhập rồi ra hồi chánh. Bữa trước gặp Bác với con Mai ở Trung Tâm Chiêu Hồi, con Mai nó bảo nó có nghe ông ấy đọc thơ trên đài phát thanh, thành ra ông ấy cảm động, mới gửi hoa cho nó.

Cô Thoa từ dưới bếp đi lên, nhìn bó hoa, nhìn Mai, rồi nhìn quanh nhà :

– Rõ thật lắm chuyện. Cả nhà mình làm gì có cái bình nào để mà cắm hoa. Thôi, có lẽ phải cắm hoa vào cái hầm cát kia vậy.

Giọng nói cô Thoa lại ra vẻ mai mỉa ghen ghét. Nhưng Mai chưa kịp nghĩ ra câu gì để trả đũa cô thì bà Nội đã hỏi anh Lý :

– Cả đêm rồi bà mong mày ra quá. Không hiểu bên nhà bà Ấm Ba ở Hải Dương bây giờ ra sao rồi. Lần trước bà chưa nghe mày nói.

Anh Lý chưa kịp trả lời, ông Nội đã gạt đi :

– Thôi lát trưa nó về rồi tha hồ mà hỏi. Để ông cháu tôi đi cho nó kịp giờ đã. Con Thoa cất bó hoa đi rồi ở nhà sắc nốt thang thuốc cho mẹ mày, với lại lo mà làm bánh tôm để trưa nay về ăn.

Cả nhà lai lục đục chất lên chiếc xe cũ kỹ của chú Vạn, lái qua Tân Định đón Phước. Phước tuy đã gần 30 tuổi nhưng kể về họ hàng chỉ đứng vào hàng em Mai, vì Phước còn phải gọi chú Vạn bằng bác. Đón được Phước với quân phục và hai bông mai ghim đàng hoàng trên áo ra xe rồi, chú Vạn coi đồng hồ :

– Mới 7 giờ kém 10 à. Nào, bây giờ ông cháu mình cho hai thằng lính Việt Nam Cộng Hòa với lại lính Việt Cộng đi ăn sáng cho chúng nó biết mùi hòa bình. Ăn ở đâu đây, Mai?

Chiếc xe đã rồ máy bẻ ra đường Hai Bà Trưng. Chợt nhớ ra cái toa tàu được dùng làm câu lạc bộ ở trạm hàng không Phạm Ngũ Lão, Mai đề nghị:

– Mình đến ăn sáng ở cái toa hàng ăn trong nhà ga đi chú, để ông Nội nhìn cái toa xe lửa cho ông đỡ nhớ.

Ông Nội tán thành liền :

– Ờ. Phải đó. Lâu lắm tao chưa được sờ đến cái toa tàu nào, không biết bây giờ như thế nào.

Chú Vạn ngạc nhiên :

– Con Mai nói gì tao không hiểu. Làm gì còn xe lửa đâu nữa mà lên xe lửa ăn.

Mai cười, giải thích:

– Không phải ăn trên xe lửa đâu mà mình đến ăn sáng ở cái Wagon Restaurant cũ của xe lửa, bây giờ người ta dùng làm cái câu lạc bộ bán đồ ăn sáng trong trạm hành lý của Air Việt Nam ở ga Phạm Ngũ Lão ấy chú. Bữa trước cháu đi đưa anh Hồ cháu đi, cháu thấy.

Phước kêu :

– Chị Mai thiệt nổi hứng không nhằm lúc. Đem nhau lên cái Wagon đó mà xem người ta mùi mẫn sướt mướt chia tay nhau à. Có phải nó ở đằng sau trạm hành lý đó không.

Chú Vạn cười khà khà :

– Tao biết rồi, chắc hôm thằng Hồ đi hai đứa lôi nhau lên đấy diễn tuồng biệt ly chứ gì. Thôi được, bằng lòng tới đó ngay, nhưng tới để bác coi chứ không phải để mày thấy người ta mùi mẫn rồi nhớ thằng Hồ đâu nhé.

Anh Lý hỏi:

– Hồ nào vậy chú ?

Chị Phấn giải thích :

– Anh Lý chưa biết đâu. Hồ là người trong này, chồng sắp cưới của con Mai đó. Nó cũng đi lính, đóng chuẩn úy ở trên Pleiku.

Mai nói thêm :

– Tuần trước Hồ còn ở Saigon. Buổi sáng em đưa anh ấy đi là tối về thấy anh nhắn tín trên Tivi. Anh ấy đang phải đóng ở mãi Tân Cảnh trên Đakto. Tối qua em mới viết thư kể chuyện anh cho anh ấy nghe xong.

Xe bắt đầu vòng qua bùng binh Chợ Bến Thành để sang Phạm Ngũ Lão, chú Vạn la lên :

– Thôi, đến rồi. Làm ơn ngưng chuyện ái tình lại cho tao nhờ. Có ông ở đây bọn bây bắt ông nghe mấy chuyện đó ông sổ mũi bây giờ.

Rồi chú trêu anh Lý :

– Ê Lý, thấy con bé mặc ni-ni-duýp đứng bên kia đường không. Mày thấy gái Saigon thế nào ?

Anh Lý nhìn Mai cười ý nhị, rồi trả lời chú Vạn :

– Cháu sợ mấy cô trong này lắm chú ơi.

Phước đùa :

– Sợ là phải. Anh Lý coi chừng đừng có ra đường một mình, mấy cô ấy cắn à. Không dỡn đâu.

Xe đã bẻ vào khoảng đất rộng trong khu nhà ga. Tiếng cười át cả tiếng máy. Vừa xuống xe ông Nội đã kêu lên :

– Trời ơi. Đường rầy thế nầy mà sao họ lấp đất cát lấp ẩu tả quá. Bao nhiêu là tiền của đấy. Rõ thật phí phạm.

Ông đứng thẳng người nhìn ra khu đường sắt bỏ không, rải rác vài toa tàu nằm trơ vơ trong nắng mai vừa lên, hỏi Mai :

– Đâu nào, có thấy cái Wagon restaurant của con Mai đâu nào ?

Vừa nói, ông vừa dợm bước như muốn băng qua khu đất rộng, để ra coi mấy cái toa tàu bỏ không ngoài xa, khiến Mai phải níu tay ông lại :

– Không phải ngoài đó đâu ông. Ông đi với cháu. Đi ngả này này.

– Ngả nào. Sao mày bảo ở đây họ làm hãng máy bay. Thế cái máy bay nó đậu ở đâu rồi ?

Phước phải dẫn giải:

– Đây chỉ là trạm hành lý thôi ông, còn máy bay nó vẫn phải đậu ở phi trường chứ. Hành khách đến đây, rồi mới được đưa bằng xe ca ra phi trường.

– À. Ra vậy hả. Đi máy bay đâu có bằng tàu hỏa.

Mai dắt ông Nội nối đuôi theo đoàn người tấp nập đi vào trạm hành lý.

Khi thoát được vào trong cả rồi, chứ Vạn phàn nàn :

– Sáng kiến ăn sáng của con Mai vất vả quá. Rồi, Mai, bây giờ cái toa tàu của mầy đâu rồi?

– Đây này chú. Ở bên này này, chú nhìn coi đúng chưa ?

Mọi người cùng rẽ sang phía bên tay mặt. Toa hàng ăn nằm ép sát vào thềm xi-măng. Có hai cửa lên xuống. Trên các cửa sổ của toa tàu, đầy người đang ăn uống. Ông Nội là người thấy đầu tiên, mà cũng là người đầu tiên chạy lại phía toa hàng ăn. Nhưng ông không bước lên cửa toa mà tần ngần đứng lại phía dưới, tay xoa xoa trên thành tàu :

– Con Mai nó nói đúng thật đấy. Đây đúng là toa hàng ăn chạy đường Saigon Nha Trang hồi trước đây. Đây này, số của nó đây này, chúng mày thấy chưa : R 9981. Dạo tao còn làm ở Phan Thiết, đêm nào tao cũng phải chờ con tàu này đây. Tội nghiệp ông Ba Búa, dạo đó cuối tuần cứ đợi tàu đến là kéo tao lên nhậu rồi vô Saigon chơi luôn. Mới đó mà đã mười mấy năm rồi đấy…

Chị Phấn khệ nệ đặt giỏ trái cây tiếp tế cho anh Đoàn lên toa tàu :

– Đó, ông Nội thấy cái toa tàu là ông Nội no rồi. Khỏi cần ăn sáng nữa. Ông có lên ăn xong rồi đi không ông.

Toa tàu chật ních người ăn uống ồn ào. Mấy ông cháu phải chờ một bàn đứng lên rồi mới kiếm được chỗ. Toa hàng ăn nho nhỏ vậy mà cũng bán đủ thứ, nào phở, nào cơm tấm bì, nào bánh mì xíu mại. Chú Vạn, Phước, rồi Mai thảo luận om sòm về việc chọn món ăn, nhưng ông Nội thì không thèm để ý. Ông yên lặng nhìn ngang nhìn ngược khắp toa tàu, rồi ông bật kêu :

– Hỏng hết rồi. Thằng Vạn với thằng Lý coi này. Ai đời ở trên tàu hỏa mà thắp đèn nê-ông, lại mấy cái quạt xanh xanh đỏ đỏ chạy vù vù, khó coi quá. Mấy cái đèn cũ của người ta đẹp thế kia mà sao họ không xài.

Cô bán hàng đã mang mấy món ăn lên, Mai so đũa cho ông Nội, trong khi Phước giải thích :

– Mấy cái đèn cũ đẹp thật nhưng tàu phải chạy thì mới có hơi điện. Bây giờ nằm lì ở đây thế này, phải dùng điện thành phố chứ ông. Cái toa thấp thế này, chạy ở đồng rộng mới có gió, chứ nằm trong kẹt vầy mà không quạt làm sao ai ngồi nổi.

Món điểm tâm của ông Nội là cơm tấm bì. Ông đã cầm đũa nhưng vẫn không rời những băn khoăn về tàu lửa, về những con đường sắt. Ông vừa ăn vừa nhìn anh Lý:

– Hồi còn ở ngoài Bắc cháu có đi qua đầm Bẩy Mẫu bao giờ không, hả Lý ?

– Thưa ông, có ạ. Cháu qua đó luôn..

– Ờ, ở đó ông nhớ hồi trước có đền Hai Cô nằm giữa Đồng Lầy, nó ở khoảng Ga Hàng Cỏ đi xuống Cống Vọng. Đầm trước có trồng nhiều sen lắm, không biết bây giờ thế nào ?

– Dạ, hồi năm ngoái cháu đi qua đó có thấy sửa sang lại, có cả đường tàu điện nữa thì phải, nhưng cũng bỏ không.

Chị Phấn cũng lây câu chuyện của ông Nội, chị nói thêm :

– Con còn nhớ ở ngay chợ Đồng Xuân cũng có cái cầu có đường sắt vòng xuống phía chợ rồi mới lên Ga Hàng Cỏ.

– Ờ, ông nhớ con đường sắt ấy rồi. Bây giờ nó ra sao hả Lý ?

– Dạ, lâu rồi cháu không qua đó nên cũng không biết nữa.

Ông Nội ngừng ăn, than thở :

– Chắc ngoài đó cũng như trong này, chả còn gì đâu.

Ông nói rồi buông đũa, dụi mắt vì khói từ phía nhà bếp sau toa tàu thốc lên.

Chú Vạn trách:

– Con Mai bày đặt không à. Mày đem ông vào đây để ông nhớ đủ thứ.

Mai cãi :

– Ở đâu mà ông lại không nhớ. Chú không thấy ở nhà ông cũng phải chọn cái nhà có đường sắt đi qua đấy à.

Một điệu nhạc ngoại quốc bỗng rộ lên làm Mai giật mình. Phước cười:

– Cứ cái điệu này chắc ông Nội chịu không thấu. Ai đời trên tàu lửa mà cũng bỏ nhạc tuýt.

Chị Phấn dục :

– Thôi ăn đi rồi đi cho kịp, không lên trên đó trễ giờ còn thăm hỏi gì được.

Giữa không khí ồn ào của toa tàu, chen lẫn tiếng máy phóng thanh loan báo giờ xe ca khởi hành ngoài trạm hàng không, Mai bỗng chú ý tới một ông già cao như cái sào đang bước lên toa tàu. Ông ta thắt cà vạt chỉnh tề, tay xách một cái túi nhỏ, lững thững đi dần lại, đến gần chỗ ông Nội, ông đột ngột dừng lại rồi dơ hai tay ra :

– Trời ơi, ông Xếp Mập đây phải không. Ông đi đâu thế này ?

– A. Anh Bẩy. Anh vào Saigon hồi nào. Ngồi đây. Ngồi. Thằng Phước xích vào trong chút con. Đây là ông Bẩy Lụa, trước cùng coi ở ga Phan Thiết với ông đây. Linh thật, tôi vừa nhắc đến thằng Ba Búa xong thì gặp ngay anh Bẩy. Thế nào. Làm gì lảng vảng ở đây thế này ?

Người đàn ông tên Bẩy Lụa đã ngồi xuống cạnh Phước, ông ta kêu một ly cà-phê đen nhỏ, nói với ông Nội là ông vẫn còn ở Phan Thiết, ra đây để đáp máy bay về nhà, rồi rối rít thăm hỏi người này người khác. Một chập, nhớ ra, ông lại hỏi ông Nội:

– Anh đi đâu xa mà kéo cả nhà đi thế này ?

Ông Nội đáp đi thăm thằng cháu mới nhập ngũ, làm ông ta ngạc nhiên :

– Cháu nó nhập ngũ ở tận đâu mà đi thăm phải đi lại máy bay ?

Chú Vạn nhìn Phước. Phước nhìn anh Lý. Anh Lý nhìn Mai. Cả mấy chú cháu cùng tủm tỉm cười, rồi Phước mới giải thích với ông Bẩy là cả nhà chỉ định lên thăm anh Đoàn ở Quang Trung thôi chứ không đi đâu xa, nhưng ông Nội nhớ xe lửa quá nên đưa ông lên đây để ông ngồi lên cái toa tàu cho đỡ nhớ. Ông Bẩy nói:

– Thật anh giống tôi như hệt. Ở ngoài đó, lúc sau này hỏa xa nghỉ rồi mà hồi còn thằng Hải cứ chiều chiều tôi lại bắt nó chở vào ga coi mấy cái goòng bỏ không.

– Thế thằng cháu Hải bây giờ làm gì rồi. Chắc nó phải lớn lắm rồi nhỉ ?

Mặt ông Bẩy bỗng trầm xuống. Ông uống một ngụm cà-phê, rồi rầu rầu :

– Cháu nó mất rồi anh ạ. Thi đậu tú tài xong, nó phải đi Thủ Đức, ra đóng đồn ở ngoài sông Mao rồi bị họ giết. Nó mới mất chưa được trăm ngày. Tôi vào Saigon lần này là để lo tiền tử tuất của nó đấy chứ. Khốn nạn thằng bé…

Ông Bẩy bỏ lửng câu nói, rồi nâng ly cà-phê lên. Ly cà-phê đã cạn nhưng ông vẫn cố rót vào miệng từng chút cặn. Nụ cười rạng rỡ của ông Nội mới đó vụt tắt, và Mai nghe tiếng ông chìm lẫn vào tiếng ồn ào của toa tàu :

– Tội nghiệp thằng bé. Ai mà ngờ nổi. Thời loạn ly…

Nắng phía ngoài cửa sổ đã lên cao. Ông Nội than thở với ông Bẩy thêm mấy câu thì có tiếng máy phóng thanh gọi hành khách đi Phan Thiết ra xe ca, khiến ông Bẩy phải vội vã chào ông Nội rồi xuống.

Khi mấy ông cháu đã lên chiếc traction chạy ra ngoài thành phố rồi ông Nội còn thở dài:

– Tội nghiệp ông Bẩy. Thằng nhỏ của ông bà ấy dễ chừng còn chưa bằng tuổi thằng Đoàn nữa.

Tiếng ông Nội thở dài với hình ảnh người cha già đi Saigon lĩnh tiền tử tuất của con trai làm lòng Mai bỗng thắt lại. Hồ cũng còn kém anh Đoàn một tuổi. Cũng ở Thủ Đức ra như người con trai ông Bẩy Lụa. Nhưng Hồ không còn cha già mà chỉ còn một bà mẹ ở mãi Thủ Đức. Mới tuần trước, Mai còn cùng với Hồ về thăm mẹ. Trời ơi, nếu mà…

Mai không dám nghĩ tiếp nữa. Xe qua bệnh viện Cộng Hòa. Chú Vạn vừa lái xe vừa giải thích cho ông Nội với anh Lý nghe rằng đó là Tổng Y-viện của quân đội, nơi hằng ngày người ta đưa về đó không biết bao nhiêu binh lính bị thương. Lời giải thích dửng dưng của chú Vạn làm Mai nhắm mắt muốn khóc. Nhưng không. Không thể thế được. Rất may, xe đã bỏ qua khu bệnh viện Cộng Hòa, vượt qua trại Nguyễn Trường Tộ, vượt thêm vài khu nghĩa địa mênh mông, rồi qua một chiếc cầu gỗ nằm trơ vơ. Chị Phấn la lớn :

– Coi chừng chú Vạn, cái cầu gì lạ thế nhỉ.

Chiếc cầu làm bằng gỗ, nổi cao lên như một cái dốc ngắn, mà hai bên lại không có tay vịn. Người lính gác bên cầu ra hiệu cho chạy luôn.

Chú Vạn từ từ cho xe lên cầu, mấy thanh ván ở dưới run lên bần bật. Khi xuống giốc, mọi người phải chống tay lên ghế truớc đỡ cho khỏi ngã chúi về phía trước. Qua khỏi cái cầu, chị Phấn mới thở ra hoàn hồn, còn chú Vạn thì sang số xe, rồi quay lại nói một câu tỏ ý khoe tài lái xe của chú. Phước bảo là nó còn lái được cả cái GMC to tướng qua cái cầu ấy nữa. Chú Vạn đùa lại :

– Mày chắc còn lái được cả cái tàu bay của mày qua đó nữa chớ.

Câu nói đùa của chú Vạn làm mọi người đều cười rộ.

Xe chạy chừng một cây số nữa thì đến cổng trại chính, có cửa lưới sắt sơn trắng kiên cố. Xe ngừng, Phước nhoài người ra trình thẻ quân nhân. Người lính mở cổng, chú Vạn cho xe từ từ vào. Mai nói với chị Phấn :

– Tới rồi chị.

Nhưng Phước cười :

– Còn xa lắm, nếu không có em thì chị còn phải cuốc bộ cả cây số nữa lận.

Xe chạy qua cả một lô doanh trại sừng sững, lạnh lùng. Cứ qua mỗi nơi, Phước lại giải thích với mọi người . Đây là trại Nguyễn Tri Phương, kia là trại Vạn Kiếp, đó là trại Võ Tánh..

Khi xe ngừng lại thì đã gần tám giờ rưỡi sáng. Phước hướng dẫn mọi người vào cổng trai, gởi giấy rồi đi bộ vào trong. Qua khỏi cổng trại, cả một thế giới ồn ào mới lạ hiện ra như đập vào mắt mọi người. Trong một chiếc sân rộng mênh mông, dưới những mái tôn sơ sài, có cả trăm cả ngàn người đang quấn quít thăm hỏi nhau rối rít, tiếng cười, tiếng nói và đủ thứ quần áo họp lại ồn ào như một phiên chợ, trong khi máy phóng thanh cứ liên tiếp đọc những lời nhắn tìm thăm thân nhân. Giữa khung cảnh ồn ào, có những khóa sinh xúng xính trong bộ quân phục mới, ngồi với các cô gái trên vải nhựa trải dưới đất ăn uống xô bồ.

Mai nói với chú Vạn :

– Biết thế này, chú cháu mình mua đồ ăn sáng lên đây rồi ăn với anh Đoàn luôn có phải sớm sủa hơn không, chú nhỉ.

Phước đã vào trong nhờ nhân viên phụ trách cho gọi anh Đoàn trên máy phóng thanh. Nhưng máy phóng thanh chưa kịp gọi thì đã có tiếng kêu ở phía xa rồi anh Đoàn chạy tới. Mọi người chưa kịp nhận ra thì anh đã đến trước mặt ông Nội, đứng nghiêm, chào mọi người theo kiểu nhà binh. Anh Đoàn đó ư ? Mai kêu thầm rồi sửng sốt, bộ tịch anh làm Mai vừa tức cười vừa cảm động. Đầu tóc anh cắt ngắn ngủn, mặt mũi đỏ gay mặc bộ quân phục rộng thùng thình, trông lạ hẳn đi.

Ông Nội nhìn sững anh một giây, rồi kêu lên:

– Thằng Đoàn đó à ?

Mọi người đứng vây lấy anh Đoàn vào giữa. Chú Vạn tủm tỉm cười, lắc lắc vai anh, nói là coi cũng được lắm, còn chị Phấn thì lặng người đi khiến Mai phải bấu lấy tay chị :

– Coi chừng, chị đừng có bắt chước bà Nội mà khóc đấy nhé.

Nhận ra anh Đoàn rồi, ông Nội lập tức quay lại đẩy anh Lý ra trước :

– Thằng Lý đây này, Đoàn này. Anh em mày chào nhau tao coi.

Ông Nội nói xong đứng xích qua một bên.

Anh Lý và anh Đoàn bỡ ngỡ nhìn nhau, rồi anh Đoàn bật cười trước :

– Lý đây hả ?

– Lý Việt Cộng đây.

Rồi anh Lý cũng cười. Hai người bắt tay nhau, cả hai bàn tay cùng cố giữ chặt nhau lâu hơn và lắc lắc:

– Ai mà ngờ lại còn được thấy nhau thế này.

Giữa đám đông ồn ào, cái bắt tay của anh Đoàn với anh Lý thật tầm thường, nhưng sao làm Mai lặng người đi vì cảm động. Ông Nội, Phấn cũng nhìn hai bàn tay của anh Đoàn anh Lý, rồi lại nhìn nhau. Ồn ào đến như chú Vạn mà chú cũng phải quăng điếu thuốc đang cháy dở trên môi xuống đất, dập tắt, rồi nói:

– Trông hai anh em mày bắt tay nhau mà tao bắt thèm. Phải chi chúng nó chịu bắt tay nhau thế này thì bữa trước ở Pleiku tao đã chả phải ngồi cả đêm dưới cái hầm đầy xác chết.

Phước đã lo thủ tục tìm anh Đoàn xong, đi ra ngạc nhiên nhìn anh Đoàn:

– Ủa, ở đâu mà anh chui ra đây. Em vừa mới nhờ gọi tên với bắt mấy thằng ở đây đi lùng dùm anh mà.

Anh Đoàn cười :

– Việc gì phải tìm. Người ta đứng ngoài này ngóng từ rạng đông đến giờ. Cả đêm qua cứ mong mãi, mới 4 giờ sáng đã dậy tập họp, chào cờ, rồi đi làm tạp địch cho nhanh. Biết hôm nay thế nào nhà cũng lên thăm mà.

Anh Đoàn nói rồi khoác vai anh Lý, kéo mấy ông cháu đến ngồi nêm vào nhau trên một băng ghế dài. Chị Phấn lấy cam táo ra bắt Mai bóc vỏ cho anh Đoàn ăn. Ông Nội thì nắn nắn bắp tay anh Đoàn mà cười:

– Mày khỏe thế này mà bà mày ở nhà cứ lo cho mày đến phát đau phát ốm. Vạn coi thằng Đoàn nó có đen ra không.

Chú Vạn cười :

– Bác yên chí nó còn mập hơn nữa kia, vào đây chúng nó quần cho thì cây sậy cũng phải biến thành sắt.

Máy phóng thanh bỗng oang oang đọc tên anh Đoàn, lập đi lập lại hai ba lần. Phước cười:

– Anh Đoàn có vẻ khá lắm. Mới vào mà đã biết hết luật ma lanh ở đây.

Mai đưa nửa trái cam bóc vỏ vừa tách ra cho anh Đoàn, rồi lại tức cười về bộ đồ lính rộng thùng thình của anh. Thấy Mai cười, anh Đoàn hiểu ngay :

– Đừng có cười. Quần áo mới lĩnh đó, người ta chưa kịp sửa.

Mai nhìn vào cổ áo anh Đoàn:

– Anh đeo cái gì lúc lắc nơi cổ vậy ?

– Cái gì ? À. Tên tuổi, số quân và loại máu đấy. Cái này quan trọng lắm nghe.

Phước cười, quay sang anh Lý :

– Gia tài với di chúc của lính trong này đấy anh. Thấy cái đó bị tháo ra khỏi cổ là xong rồi.

Câu nói đùa của Phước làm ông Nội với chị Phấn nhăn mặt, có lẽ vì cho đó là một câu nói gở. Nhưng chú Vạn đã vui vẻ đánh tan ngay mối âu lo này bằng cách nói đùa với anh Đoàn mấy câu thật vui, và bắt anh Đoàn kể chuyện lính:

– Mày phải kể chuyện lính trong này cho thằng «Lý Việt-Cộng » nó nghe nó biết chứ.

Mọi người vừa ăn cam táo của chị Phấn, vừa bu lại nghe anh Đoàn kể chuyện những ngày đầu tiên nhập ngũ.

Anh Đoàn vốn có tài kể chuyện, nên những chuyện anh kể về đời sống khóa sinh làm mọi người muốn cười bò, nhất là mấy câu chuyện về khám sức khoẻ. Anh kể :

– Ông Nội với chú Vạn chắc không thể tưởng tượng nổi. Khi khám sức khoẻ, cả ngàn khóa sinh cởi trần truồng, mà đi đâu phải khư khư ôm đồ đi theo, sợ bỏ ra bọn quỉ nó vồ mất. Tới khu khám tai mũi họng, có thằng lôi ra một cái bảng to tướng, đề chữ « Thưa hội đồng, tôi điếc ». Viên bác sỹ hỏi to đến mấy hắn cũng cứ nhất định lúc lắc cái đầu, chỉ trỏ vào lỗ tai. Cuối cùng, ông ta xuống giọng, nhỏ nhẹ bảo nó : « Thôi, bước sang bên phải, anh được hoãn sáu tháng chờ tái khám» Thế là cu cậu mừng rơn, quên cả điếc với lúc lắc, lon ton chạy ngay sang bên phải…

Mai rũ ra cười :

– Rồi sao nữa ?

– Còn sao với giăng gì, a lê hấp, cho đi.

Anh ngừng lại một chút, chờ mọi người ồ ra cười, rồi kể tiếp :

– Nhưng cũng chưa ly kỳ bằng chuyện này: có một chú đầu cạo trọc lóc, cởi truồng dơ ra đủ 36 cái xương cách trí. Khi bước ra trình diện, một tay chú xách mấy cái áo che xuống dưới, một tay xoè ra đặt trước ngực, thế này này… (Anh Đoàn đứng dậy, bỏ tay trái xuống dưới, tay mặt xoè ra đặt trước ngực như người cầu kinh, bộ điệu khép nép trông thật tức cười) viên bác sỹ hỏi đủ thứ, cái gì chú ta cũng chỉ lâm râm có một câu « A di Đà Phật » Con Mai biết sao không : chú ta là một chú tiểu bị bắt quân dịch.

Bộ điệu kỳ cục và câu chuyện anh Đoàn kể lại làm mọi người rũ ra cười. Nhưng cười xong thì chị Phấn nạt :

– Thằng quỉ. Mày mà mang chuyện này về nhà kể là bà Nội lại tế lên cho mà nghe.

Chờ cho mọi người dứt cơn cười rồi, anh Đoàn ngồi xuống, vừa gặm một quả táo, vừa đố Phước :

– Thằng Phước đi lính lâu, đố mày biết khi vào đây mình sợ mất cái gì nhất ?

Phước cười:

– Cặp chân và cái miệng chứ gì.

Chị Phấn với Mai mở lớn mắt ngạc nhiên. Anh Lý tủm tỉm cười nhìn ông Nội. Còn chú Vạn thì tò mò :

– Chúng mày lại nói lóng gì vậy. Cặp chân và cái miệng là gì ?

– Cặp chân là đôi giầy; còn cái miệng là cái cà-mèn đó chú. Ở đây, đó là hai bảo vật phải giữ gìn kỹ nhất, vì hay bị vồ nhất. Mà bị vồ là không được phát lại. Mất giầy thì chỉ còn hít đất với bò dưới mương mỗi ngày, còn mất cái cà-mèn coi như mất luôn phần ăn. Chú làm báo mà dở ẹc.

Mọi người lại cười vui vẻ. Nhắc đến chuyện ăn uống, chị Phấn lo lắng hỏi ngay đến chuyện ăn uống ngủ ngáy của anh Đoàn. Anh kể :

– Chị khỏi lo. Ở đây bọn em ngủ giường đôi, bọn chúng gọi là giường nhà lầu. Còn ăn uống thì ghê lắm. Cơm nhà bàn, ăn theo kiểu « đại táo », có phải đại táo không anh Lý nhỉ ?

– Vâng, đại táo tức là thùng cơm lớn nấu cho cả trăm người ăn.

– Phải rồi, đại táo. Ly kỳ lắm. Giờ ăn, xếp hàng hai, cầm cà-mèn, đi tới từng trạm một, lần lượt xúc cơm với đồ ăn. Chị biết sao không. Cơm ở đây không như nhà mình đâu, nó xanh xanh đen đen vì người ta trộn thuốc.

Ông Nội hỏi :

– Thế họ không cho mình ăn cơm ở câu lạc bộ à?

– Dạ, có chứ. Nhưng cũng phải xếp hàng xuống nhà ăn, đi một vòng rồi sau đó giải tán mới lỉnh xuống câu lạc bộ được. Phiền lắm. Ở trong này phải ăn cơm nhà bàn mới khỏe ra được. Chả cần lên câu lạc bộ làm gì cho tốn tiền.

Chị Phấn vẫn chưa hết lo lắng :

– Thế còn ngủ, mày ngủ giường nhà lầu có được không ?

– Trời ơi. Cái gì mà ngủ không được. Chị phải biết đi tập suốt ngày. Ra bãi tập là ra ngoài nắng. Tất cả các bãi, chỉ có mỗi bãi số sáu là có mái tôn và bàn ghế, còn tất cả là đều phải đội trời cả. Đôi lúc ngày phải tập cả hai buổi.10 giờ tối, vừa lên được cái giường nhà lầu là quay ra ngủ liền, còn sức đâu mà nghĩ lẩm cẩm nữa.

Rồi anh kết luận :

– Vào trong này, giá có đào ở ngoài cũng không còn hơi mà viết thư tán láo nổi nữa.

Hết lô chuyện nhập ngũ của anh Đoàn, chị Phấn thu dọn trái cây vào giỏ, giao cho anh :

– Trong này còn cam táo với lại lọ ruốc thịt, rồi lọ cá bống bà Nội bắt cô Thoa làm cho mày đấy. Liệu giữ lấy mà ăn.

– Tội nghiệp cô Thoa sao ông không cho cô vào thăm cháu luôn.

Ông Nội thở ra :

– Ở đó mà thăm với hỏi. Bà mày đau lai rai cả tuần nay mà đêm qua cứ lầm rầm đòi đi. Sáng nay dậy không nổi nữa mơi chịu ở nhà đó. Từ hôm đón được thằng Lý về, bà mày nghe chuyện họ hàng ngoài Bắc rồi bà mày đau luôn.

Anh Đoàn lo lắng thăm hỏi sức khoẻ bà Nội, rồi xoay qua bắt anh Lý kể chuyện miền Bắc.

– Chú thím vẫn khoẻ mạnh cả. Chú lúc này ra khỏi bộ đội lâu rồi, sống bằng nghề dạy học. Em Hải thì đã lớn, giống Đoàn như tạc. Lúc sau này, nhà ngoài ấy còn có thêm một đứa em gái nữa. Đặt tên là Thương Mai. Thím bảo gọi con Mai em để nhớ con Mai chị…

Anh Lý lần lượt kể lại cho anh Đoàn những chuyện mà Mai đã nghe. Câu chuyện thầy mẹ ở ngoài Bắc làm không khí như trầm hẳn xuống. Mấy lần Mai muốn vùng lên cướp lời anh Lý để báo thêm cho anh Đoàn biết em Hải đã phải đi lính, đã vào Nam. Nhưng rồi Mai cố nén lại.

Mái tôn trên đầu đã bắt đầu nóng dần, và giờ thăm viếng đã hết. Anh Đoàn lại nắm tay anh Lý và hẹn :

– Tuần sau may ra em về phép được rồi. Thế nào anh em mình cũng phải ngủ với nhau một đêm. Một đêm có lẽ cũng chưa đủ để nói hết chuyện.

Chú Vạn đứng đậy vươn vai cố đùa:

– Đồ nghèo mà ham, chưa về phép mà đã kêu không đủ. Thằng Lý mà nghe chuyện bọn nó trong này thì có lẽ phải nghe đến ngàn lẻ một đêm mất..

Mọi người trong khu thăm viếng đang bịn rịn chia tay. Phước hứa tuần tới sẽ mang xe Jeep đón anh Đoàn ra. Còn Mai, khi anh Đoàn đã đưa chân mấy ông cháu ra đến trạm giấy và xách cái giỏ quay lại rồi, Mai chịu không nổi nữa, phải vùng chạy trở lại gọi lớn :

– Anh Đoàn, anh Đoàn!

Tiếng gọi Mai hoảng hốt, tan loãng. Anh Đoàn đang đi lủi thủi, giật mình quay lại, chờ Mai. Mặc kệ mọi người đang tò mò để ý, Mai kéo anh Đoàn ra một góc rồi nói :

– Anh Đoàn này, em Hải vào Nam rồi.

Cánh tay anh Đoàn đang dơ cái giỏ trái cây lên, bỗng như chùng xuống. Cái giỏ rơi bịch xuống đất. Rồi quên cả là hai anh em đang đứng trong đám đông, anh Đoàn dơ cả hai tay ra chụp lấy Mai :

– Hải làm sao. Em nói cái gì vậy ?

Mai lảo đảo, nắm lấy hai cánh tay anh :

– Em Hải vào Nam rồi. Anh Lý bảo Hải cũng phải nhập ngũ sau anh một khóa để đưa vào Nam. Không biết bây giờ nó ở đâu ?

Hai cánh tay anh Đoàn đang bíu lấy vai Mai bỗng như lỏng ra. Nước mắt không biết, từ lúc nào đã dàn dụa trên mặt Mai, và qua làn nước mắt, Mai thấy khuôn mặt anh Đoàn nhòe nhoẹt, mất hẳn nét tinh anh lúc mới gặp.

Im lặng một lát, giọng anh Đoàn bỗng trầm xuống:

– Thôi Mai, đừng có khóc nữa. Bà Nội biết chuyện này chưa ?

– Rồi. Cả nhà biết rồi. Bà Nội kêu gào ầm ĩ nhất định bắt mọi người phải đi tìm em Hải.

Anh Đoàn thở dài, rồi chậm chạp gỡ tay Mai ra :

– Thôi, em lau nước mắt đi rồi ra không ông Nội đợi. Tuần tới anh về…

– Anh nhớ về nhé, thứ bẩy em đón anh Lý ra đợi anh.

Mai lau nước mắt. Mọi người đã về gần hết, khu thăm viếng mênh mông trống trải hẳn, và Mai lủi thủi đi ra. Ông Nội, chú Vạn với mọi người đang dáo dác chờ Mai ngoài cổng. Phước nói :

– Chị Mai thật nhiều chuyện. Ngồi cả giờ có chuyện gì không nói. Đến giờ về anh em mới thì thụt. Chắc lại có chuyện tâm tình nhờ anh Đoàn gỡ rối chứ gì.

Chú Vạn lại trêu Mai :

– Ôi thôi. Tao biết rồi. Nó khoe bó hoa của anh giáo sư Tài gửi cho nó chứ gì. Tội nghiệp, sao vừa rồi không ai làm ơn nhắc dùm chút.

Ông Nội quay lại kêu :

– Thôi chú cháu mày có đi mau lên không nắng thế này về ốm hết cả giờ.

Đoàn người thăm viếng ùa ra trên lối đi, lũ lượt như vừa từ một nơi hội hè ra. Mai nhớ lời một con bạn có bồ nhập ngũ đã nói : «mày cứ lên trên đó mà coi, chủ nhật nào cũng vui lắm, đông như ngày hội». Quang cảnh trước mắt Mai đúng là đông như hội. Nhưng hội gì đây ? Liệu bao giờ cái hội kỳ cục này mới chịu tàn hẳn.

Mọi người đã vào xe. Chú Vạn cho nổ máy rồi nói lớn :

– Lên đường.

Nhưng không còn ai cười nữa, và chú đành phải vừa lái xe vừa huýt sáo một điệu nhạc ngoại quốc. Lúc đi ăn sáng, rồi vào trại thăm anh Đoàn mọi người ồn ào bao nhiêu, thì trên đường về lại mệt mỏi lặng lẽ bấy nhiêu.

Xe đến ngã tư Phú Nhuận, Phước bắt chú Vạn cho luôn về Tân Định để sửa soạn vào trại. Nhưng chị Phấn nhất định không chịu :

– Không ổn đâu. Cô Thoa sáng nay ở nhà làm bánh tôm. Thằng Phước mà không về ăn bánh tôm của bà cô, là không xong à.

Chú Vạn như cũng chợt nhớ ra điều gì, chú đập tay vào vô-lăng, bẻ luôn xe theo đường Chi Lăng :

– Ờ. Mà không được thật. Thằng Phước phải về ăn bánh tôm. Tao có chuyện cần phải phỏng vấn cả nhà, thiếu mày không được.

Phước phân trần với anh Lý :

– Đó, anh coi chú Vạn lại «méo mó nghề nghiệp» rồi đó.

Xe về đến nhà đã 11 giờ trưa. Nắng lớn chiếu lóa lóa trên con đường sắt trước cửa nhà. Bà Nội vừa nghe tiếng xe về đã vội vã chạy ra, tíu tít hỏi thăm về anh Đoàn :

– Thế nào, ông. Thế nào, con Phấn, con Mai. Thằng Đoàn nó có đen có gầy đi nhiều không.

Chú Vạn làm bộ sầu thảm :

– Trời ơi, tội nghiệp thằng Đoàn quá bác ơi. Nó gầy xọp cả đi, ốm không còn bằng que tăm. Đi không nổi, phải có hai ba người mang cáng khiêng nó ra…

Bà Nội chưa kịp nghe chú Vạn tả oán thêm, tức thì bù lu bù loa :

– Đó, ông ơi. Tôi đã bảo mà. Tôi nuôi nó từ nhỏ, tôi biết nó lắm, tạng người nó đi lính đâu có chịu nổi. Vậy mà ông cứ bảo nó đi tập rồi thế nào cũng khoẻ ra, làm thế nào bây giờ. Phước ơi, con làm thế nào mà xin cho anh con ra với đi… Trời ơi là trời.

Ông Nội vất cái áo len xuống đi văng, cười phá ra rồi nạt chú Vạn :

– Cái thằng Vạn hết trò rồi sao mà bầy đặt trêu bác mày nữa. Bộ mày chưa thấy bà ấy mất ăn mất ngủ hay sao mà còn chọc. Bà đừng có tin cái thằng bá láp ấy. Thằng Đoàn nó khoẻ ra đen như con trâu nước, tuần tới nó về rồi bà coi. Người nó rắn như đồng ấy chứ bộ ẻo lả như bà tưởng hay sao ?

Bà Nội dở cười dở khóc, hết nhìn chú Vạn, nhìn ông Nội, rồi lại quay ra nhìn anh Lý với chị em Mai. Anh Lý có lẽ được bà coi là người thật thà nhất, nên anh vội giải thích :

– Thưa bà, chú Vạn con nói đùa đấy, chứ Đoàn khỏe lắm. Đoàn còn hẹn với con thứ bẩy tới Đoàn ra, anh em ngủ với nhau một đêm nữa, xin bà đừng lo.

Tội nghiệp bà Nội, bà lo cho anh Đoàn quá, đến độ giọng nói anh Lý rõ là thật thà như đếm mà bà cũng chưa chịu yên tâm hẳn, bắt tội mọi người phải thanh minh mãi về câu nói đùa của chú Vạn bà mới chịu tin. Mà tin rồi cũng chưa đủ, bà còn bắt chị Phấn phải đưa bà vào trong giường, kể rõ cho bà nghe từng chút về anh Đoàn, bà mới chịu.

Có tiếng xèo xèo từ dưới bếp vang lên cùng với mùi bột rán thơm phức. Cô Thoa đang chiên nốt phần bánh tôm dưới bếp. Phước, anh Lý, rồi Mai, cùng chạy xuống xuýt xoa với chảo bánh tôm của cô, phụ với cô dọn rau cỏ chén bát lên nhà. Mai đang loay hoay dưới bếp thì chợt nghe tiếng chú Vạn la lớn :

– Con Mai đâu rồi, lên đây mà coi cái này. Mày có lên ngay không, Mai.

Mai xách cả rổ rau muống chẻ chạy lên nhà ngơ ngác. Chú Vạn lại kêu :

– Kia kìa, mày nhìn lên cái hầm cát mà coi.

Mai nhìn lên nóc hầm cát. Cô Thoa thật tai quái hết nói. Ngay trên nóc cửa hầm, nơi mấy chiếc bao cát bằng phẳng nhất, bó hoa lay-ơn của ông giáo sư Tài gửi cho hồi sáng đã được thu quén gọn ghẽ, cắm vào chiếc bình gỗ nhỏ, nèn vào giữa hai bao cát. Những bông hoa nở tươi thắm, rủ xuống che mát cả phía cửa chui vào hầm cát. Mai cười :

– Đây đúng là tác phẩm của cô Thoa đó chú.

Chú Vạn khen :

– Được lắm. Chị Thoa có óc thẩm mỹ lắm. Hoa của một ông Việt Cộng, lại mang chưng ngay trên miệng hầm tránh đạn Việt cộng pháo kích. Coi được đấy chứ.

Cô Thoa ở dưới bếp, nhưng cũng đã nghe ra chuyện chú cháu Mai xôn xao về bó hoa lay-ơn. Cô nói vọng lên :

– Này, đừng có mỉa mai nghe. Đố chú Vạn kiếm được chỗ nào chưng bó hoa lay-ơn coi được đó. Không lẽ hoa của người ta cho con Mai mà lại mang chưng trên bàn thờ ông bà.

Cô Thoa vừa nói vừa cười. Tiếng cười cô lẫn vào tiếng bánh tôm xèo xèo trong chảo mỡ nghe có vẻ hồn nhiên, nhưng Mai không lạ gì, cô lại đang nói mỉa mai đấy. Mai muốn nói lớn, muốn bắt anh Lý phải nói rõ một cách nghiêm trang là bó hoa đó ông Tài gởi biếu ông Nội chứ không phải biếu Mai. Nhưng thôi, kệ cô. Tha hồ cho cô ghen ghét. Mai vẫn cười vui, vừa bốc rau ra đĩa, vừa nói với chú Vạn :

– Điềm hòa bình rồi đó chú. Hoa mà nở trên miệng hầm cát thì không hòa bình còn là gì.

Mai nói cho có. Cốt lớn tiếng cho cô Thoa nghe để cô tức chơi. Nhưng không ngờ chú Vạn lại coi là chuyện quan trọng. Chú dở ngay, cuốn sổ nhỏ trong túi ra, lấy bút hí hoáy ghi, rồi bảo :

– Đúng. Điềm lạ. Con Mai nói đúng. Hoa nở trên hầm cát. Tao phải ghi cảnh này để bắt đầu bài phỏng vấn mới được.

Anh Lý đã từ dưới nhà phụ với cô Mai đưa chén đũa lên. Mai phân trần với anh :

– Anh Lý coi. Không trách Phước nó bảo chú Vạn là méo mó nghề nghiệp. Ai đời, chú ấy đang hí hoáy tả cảnh hoa nở trên hầm cát đấy.

Chú Vạn đúng là méo mó nghề nghiệp. Khi cả nhà ngồi vào quanh bàn bánh tôm sắp sửa cầm đũa rồi, chú lại dở cuốn sổ nhỏ ra :

– Bây giờ trước khi ăn bánh tôm của chị Thoa, cháu phải xin phép hai bác hành nghề cái đã. Tờ báo cháu làm đang mở một cuộc phỏng vấn vĩ đại, đề tài phỏng vấn là «ngủ dậy thấy hòa bình, người ông bà ra sao ». Cháu phải phỏng vấn xong, ăn mới ngon được.

Rồi chú Vạn quay sang phía bà Nội :

– Thế nào Bác, trưa nay ngủ dậy, bác thấy hòa bình rồi, người bác ra sao, bác ? Bác nói gì ? Làm gì ?

Bà Nội ngơ ngác :

– Cái gì hòa bình ? Ngủ dậy là mình thấy hòa bình ngay à ?

Chú Vạn quả quyết :

– Đúng thế bác. Lát nữa ăn xong, bác nghỉ trưa dậy, là ra-dô người ta loan báo hòa bình rồi. Hai bên không còn đánh nhau nữa. Ai về nhà nấy. Muốn đi đâu thì đi. Muốn làm gì thì làm. Bác đi đâu lúc ấy ?

– Tao à ? Mà có hòa bình thật không mới được chớ ?

Cả nhà phá ra cười. Mai phải giải thích với bà Nội :

– Bà ơi, bà không hiểu rồi. Đây là chú Vạn phỏng vấn cho nhà báo, là giả dụ bây giờ có hòa bình rồi, giả dụ thôi chứ chưa phải có đâu, thì bà sẽ làm gì ? Chú Vạn phỏng vấn bà đấy mà. Bà trả lời đi.

– Phỏng vấn à. Tao chịu thôi. Hỏi ông bây ấy.

Phước cười, gắp miếng bánh tôm đầu tiên :

– Hỏng rồi. Nhà báo mở hàng xui xẻo rồi. Phải thêm chút mắm nữa cho câu hỏi mặn mòi hơn lên mới được, chú Vạn.

Cả nhà đã cầm đũa. Nhưng chú Vạn chưa nản. Chú quay sang ông Nội:

– Thế còn bác trai. Bây giờ nghe tin hòa bình, bác làm gì bác ?

– Tao à. – Ông Nội trả lời không cần suy nghĩ.– Tao mang cả nhà ra ga xe lửa.

– Ông ra ga xe lửa làm gì vậy, ông ? – Mai hỏi.

Ông Nội đáp một cách hăng hái :

– Còn làm gì hơn nữa. Hòa bình, không có mìn chông, hầm hố thì xe lửa chạy lại. Tao kéo cả nhà lên xe lửa, đi tuốt về Bắc.

Phước tủm tỉm cười:

– Ông tính không xong rồi. Dù hòa bình cũng phải mất một thời gian sửa chữa đường sắt xe hỏa mới chạy lại được chứ.

Ông Nội có vẻ đuối lý, nhưng vẫn cố cãi :

– Thì đường sắt còn được đến đâu mình đi đến đó. Hòa bình mà tàu lửa không chạy được, mình muốn đi đâu không đi được, thì hòa bình làm gì.

Mai bàn góp, dung hòa:

– Ông Nội nói đúng. Hòa bình là phải có tàu lửa. Nhưng trong khi chờ tàu lửa, mình đi tạm bằng máy bay. Phước nó là lính tàu bay mà ông.

– Thế ngủ dậy thấy hòa bình, thằng lính tàu bay này mày làm gì hả Phước. – Chú Vạn hỏi.

– Chẳng làm gì hết. Hòa bình là phải lo đi chơi chớ ai lo làm. Cháu sẽ kiếm một cái máy bay đưa cả nhà về Bắc chơi một chuyến.

Đến lượt dự tính của Phước bị anh Lý chận lại bằng một câu hỏi :

– Nhưng liệu hòa bình rồi hai miền Nam-Bắc có được đi lại với nhau không, hay là vẫn chia đôi chia ba như hiện nay?

Bà Nội bắt đầu vui chuyện, bà la nhẹ anh Lý :

– Cái thằng này vớ vẩn. Hòa bình là mình phải về Bắc được chứ. Người ta đâu có đánh nhau nữa mà sợ.

Ông Nội trầm ngâm :

– Thằng Lý nó sợ cũng đúng đấy. Bà không thấy ngoài Bắc còn Cộng sản chứ đâu có như mình ở đây.

Rồi ông xoay qua « phỏng vấn » lại chú Vạn :

– Thằng Vạn làm báo làm chí chắc phải biết chuyện này. Mày thấy hòa bình rồi, liệu mình có được về Bắc không hả Vạn ?

Chú Vạn có vẻ tin tưởng :

– Được chứ ông. Hòa bình là hai bên phải có một thỏa hiệp. Ông không nghe nói đến công thức Trần Chánh Thành đó sao. Chính phủ mình cũng chủ trương là ngay sau khi ngưng chiến, hai miền Nam Bắc sẽ lập lại quan hệ bình thường, trao đổi văn hóa, hiệp thương, mở cửa biên giới cho dân chúng hai miền đi lại thăm viếng nhau. Cứ như thế, rồi sẽ tiến dần tái thống nhất.

Bà Nội mừng rỡ :

– Vậy là mình về Bắc được rồi. Tao sẽ đi tàu hỏa cùng với ông Nội bây, mình sẽ đi qua mấy cái ga cũ…

– A, bà Nội trả lời cuộc phỏng vấn của chú Vạn rồi đấy. Chú ghi lấy mau đi kẻo quên.

Mai reo lên vui vè, và chú Vạn cười ra dáng đắc chí. Đột nhiên chú quay sang hỏi Mai :

– Còn con Mai, hòa bình rồi mày tính làm gì ?

Câu hỏi của chú Vạn làm hình ảnh Hồ bật sáng trong đầu Mai :

– Cháu à ? Bọn cháu sẽ mở một công ty lượm sắt vụn về bán. Hồ có kể với cháu là khắp nước mình đâu đâu cũng có vỏ đạn, lượm cả đời chưa chắc đã hết.

Câu trả lời của Mai không hiểu sao làm cô Thoa cáu tiết. Cô mai mỉa :

– Rồi còn phải lượm cả xương người về bán nữa chứ. Chỗ nào lại chả có xương người.

Chú Vạn quay sang cô Thoa :

– Còn chị Thoa, hòa bình chị làm gì ? Có lẽ phải lấy chồng cho bọn này ăn trầu với chứ.

Câu hỏi của chú Vạn có vẻ càng làm cho cô Thoa cáu tiết hơn nữa. Cô đáp dỗi :

– Tôi chả làm gì hết. Hòa bình rồi còn lấy chồng làm gì. Với lại ai người ta thèm lấy mà lấy.

– Thôi mà chị, xin chị. Còn con Phấn này, hòa bình rồi mày làm gì ?

Chị Phấn thật thà .

– Hòa bình, là cháu ăn chay trường. Cháu có nguyện từ lâu rồi, Trời Phật cho hòa bình, cháu có ăn chay nằm đất bao lâu cũng ch?