← Quay lại trang sách

Chương 4

Bây giờ thì chiều chiều ông Nội đã có thể bắc cái ghế ra hàng hiên ngồi chờ những toa goòng chạy ngang trước nhà được rồi.

Có đến hai ba tuần lễ, bà Nội cứ bệnh lai rai và ông lo lắng đến bỏ ăn bỏ ngủ. Chị Phấn cũng không dám cho thằng Cu Tý ngủ đêm lại nữa, sợ nó khóc làm mất giấc ngủ của bà.

Nhìn cảnh ông Nội ngồi bên bà nhắc lại chuyện từ thủa xa xưa nào, rồi ông giã trầu bỏ vào tận miệng cho bà và chăm chăm nhìn cái miệng móm mém trêu trạo nhai, Mai cảm động đến ứa nước mắt. Thầy mẹ ngoài Bắc liệu có còn được rảnh rang để dành cho nhau những phút êm ái vậy không? Hay suốt năm tháng lận đận công việc, thương nhớ, lo lắng.

Bà Nội đã khoẻ lại, nhà cũng vui hơn trước, nhưng mấy tuần lễ đầu anh Đoàn được Phước vào tận trại đón ra, cứ trông thấy anh Đoàn là bà lại khóc, rỏi bà bắt anh ngồi cạnh, bà dơ bàn tay rờ rịt khắp mặt anh, bà nắn nắn bắp thịt chắc nịch và đen ròn nơi cánh tay anh, rồi nửa cười nửa khóc:

– Mẹ cha mày, mày lớn quá rồi mà sao chưa chịu lấy vợ.

Câu mắng ngọt lịm như đường đó làm cho anh Đoàn hấp háy mắt và anh nhìn ra sân, như dấu một nụ cười sung sướng.

Không khí gia đình xáo trộn một thời gian ngắn vì sự ra đi của anh Đoàn, sự trở về của anh Lý. Nhưng rồi cũng dần dần lắng xuống, chú Vạn, anh Lý, Phước đã trở lại với công việc của họ, thỉnh thoảng lắm mới tạt qua nhà thăm hỏi.

Có điều đáng than phiền là trong những ngày bà Nội ốm, cô Thoa là chúa càu nhàu. Bà có than khổ thì cô còn kêu khổ hơn nữa:

– Mẹ cứ than van hoài, bộ mẹ tưởng mẹ đau vậy bọn con sướng lắm chắc.

Sự càu nhàu của cô Thoa càng ngày càng quá thể. Nhưng Mai cũng rán chịu đựng được. «Vài tuần không có thư thằng Hồ là mày cuống lên. Vậy mà mày coi, mười mấy năm nay có ai gửi cho cô một lá thư nào đâu, hỏi cô không khổ chịu sao được». Có lần anh Đoàn đã bảo vậy, khi Mai than thở với anh về cô Thoa.

Nghĩ thì đã đành vậy, nhưng khi cô Thoa bẳn gắt thì có là thánh cũng khó mà chịu nổi.

Có đến ba bốn bữa rồi, cứ khoảng 5 giờ chiều là có một chuyến goòng qua nhà. Ông Nội chiều nào cũng bắc ghế ra hiên ngồi. Chuyến goòng trở thành đề tài được ông Nội bàn đi bàn lại với Mai:

– Này, đố con Mai; mấy toa goòng ấy người ta chở gì mà bịt kín bưng vậy?

– Chắc họ chở súng ống đạn được quá, ông Nội.

– Bậy nào, đạn dược đâu nhiều vậy. Dạo còn yên, mấy cái toa bít bưng ấy dùng để chở súc vật. Hồi ở Phan Thiết, bà Hội Hiệp có lần bao cả một chuyến tàu chở đi 700 con bê.

Mai cười khúc khích:

– Rồi mấy trăm con bê ấy nó có kêu« be, be » trên tàu không ông. Toa bịt kín vậy, bê nó không chết ngạt sao.

– Hừ. Ngạt gì mà ngạt. Hồi Tết Mậu Thân mày không thấy mấy cái toa ấy nèn chặt toàn lính là lính chạy ngang đây à?

– Khổ quá ông, bao nhiêu người trong mấy cái toa kín bưng…

– Nó mà yên cho mình về Bắc thì có nèn tao vào cái toa chở súc vật ấy tao cũng chịu nữa.

Rồi ông mơ màng:

– Tao ngồi tao đếm mãi, từ tết đến giờ có đến mấy trăm toa tàu đi qua đây. Khi hòa bình có nối lại, tất cả những toa ấy cũng chưa đủ chỗ để chở người về Bắc…

Hôm nay bà Nội đã vịn tường, ra được chỗ ông Nội ngồi ngoài hiên để cùng đợi chuyến tàu bít bưng chạy qua. Lúc bà Nội ra với ông Nội, Mai đang đứng trên bao lơn ngó xuống. Thấy ông Nội cầm tay bà, dìu bà ngồi xuống ghế. Mai la lên:

– A, A, cháu bắt được, cháu bắt được rồi nhé.

Ông Nội ngẩng lên, thấy Mai thì cười xòa:

– Con mẹ mày, chỉ được cái lém.

Mai nhoài người ra lan can cúi xuống:

– Bà khá lắm rồi đó bà. Bữa nay, ông Nội khỏi phải làm « ông già cô độc » rồi nhé.

Bà Nội đưa tay che mắt nhìn ra đường:

– Quái, cái cây kia sao trụi lá hết nhỉ.

– Ơ, cuối thu rồi mà bà.

– Ngoài Bắc bây giờ, chắc lại sắp sửa rét lắm đấy.

– Thôi chả nhắc chuyện ngoài đó nữa. Bà lại khóc lóc thêm phiền. À, mà bà có vẻ chịu thuốc ta đấy chứ. Thằng Vạn thế mà hay, làm báo mà cái gì cũng biết.

Nhắc tới chú Vạn, bà Nội chợt nhớ ra:

– Sao thằng Đoàn tuần này không về hả ông?

– Cấm trại mà. Nghe nói mấy hôm nay tình hình khẩn trương trở lại. Tụi nó pháo kích nhiều nơi. Ôi, chúng nó nói gì làm sao tin được. Tin được chúng nó tôi đã không đi, bà đã không phải cực khổ khóc lóc mà nhớ con nhớ cháu như thế.

Rồi chừng như chợt nhớ ra bà Nội vừa ốm khỏi, ông Nội lại nói chuyện khác. Mai bỏ đi vào lục tập thư của Hồ gửi xem có mất dấu không. Đêm qua, khi lên gác, Mai nhìn thấy cô Thoa có vẻ lúng túng, và trước đó Mai nghe tiếng ngăn kéo đóng nhẹ. Mai đoán là cô đang đọc trộm những lá thư của Hồ. Mai nhìn vết tích đánh dấu, quả thật là cô Thoa đã đọc, đã lục soạn. Mai bỗng thấy giận cô vô cùng, nàng đóng mạnh ngăn kéo và tiện tay khóa lại rồi dấu chìa khóa dưới tập sách. Để đó, thế nào cũng có bữa Mai sẽ bắt được quả tang cô đọc lén.

Khi Mai xuống nhà, cô Thoa đang nằm nơi đi- văng của bà Nội, mặt úp vào phía vách. Dáng nằm im lìm của cô càng làm Mai nổi sùng hơn.

Có tiếng ông Nội vừa cười lớn ngoài hiên. Cô Thoa hình như cũng nghe thấy tiếng dép của Mai xuống nhưng cô làm lơ. Mai không biết làm gì hơn là chạy ra sân, đứng dưới cây trứng cá ngợp bóng xanh và gió mát. Vậy mà sao trong nhà bức đến như thế không biết.

Sau buổi cơm chiều, cô Thoa bỗng nói:

– Con Mai có lá thư.

Ơ, thế có kỳ không. Thật càng ngày cô càng lẩm cẩm kỳ cục. Mai định nói sao ác thế? Sao tới giờ mới nói. Nhưng Mai cố nén, hỏi:

– Sao bây giờ cô mới nhớ mà không đưa cho cháu từ buổi chiều.

– Không phải thư thằng Hồ đâu. Thư thằng Đoàn. Mà cả buổi trưa mày ngủ. Rồi tao cũng phải ngủ nữa chứ.

Bà Nội vất ống giã trầu vào cơi trầu:

– Thư thằng Đoàn à? Tuần này nó không về, đâu thư đọc coi.

Cô Thoa chạy đi lấy lá thư. Mai ngồi bó gối trên đi-văng, cạnh bà Nội. Ông Nội thì ngồi trên chiếc ghế con, tựa lưng vào cái hầm cát.

Cái hầm cát bây giờ đã trở thành một thứ đồ thân thuộc trong gia đình, như cái giường, cái bàn, cái ghế và rồi không ai còn thấy chướng mắt nữa. Khi cô Thoa đưa cái thư, ông Nội nói:

– Nào, con Mai đọc cả nhà nghe nào. Chắc nó gửi cho ông bà.

Cô Thoa vất cái thư về phía Mai, bĩu môi:

– Người ta dốt chữ, có đọc thì đọc thủng thẳng không đi đâu mà vội.

Dốt nhưng cũng ăn hết một hộc chữ. Mai định nói thế, nhưng rồi lại lặng thinh bóc lá thư ra:

– Bà nằm xuống đi, nằm xuống cho khoẻ rồi cháu đọc. Anh Đoàn mà viết thư là chuyện khó tin lắm. Đây là một thiện chí còn hơn cả thiện chí của Mỹ đối với Bắc Việt nữa.

Ông Nội cười khề khà, đưa tay vuốt bộ râu lưa thưa:

– Thôi đọc đi, coi bộ bà mày sốt ruột lắm rồi. Con Thoa, mày ngồi xuống đây đi nghe coi nó viết gì.

Cô Thoa không ngồi ghé xuống mà bỏ guốc leo tuốt vào bên trong cạnh bà Nội và dựa lưng vào tường. Cô làm bộ lơ đãng ngó ra ngoài khoảng sân đã đầy bóng tối. Mai xé thư ra đọc:

– Em Mai.

Mai dừng lại:

– Thư của cháu mà ông.

– Thì cứ đọc coi nó nói gì.

– Nhưng anh Đoàn gửi riêng cho cháu mà.

– Lắm chuyện vừa vừa chứ. Có lá thư mà cũng năm lần bảy lượt, người ta chỉ có một cái xương sống.

Thay vì háy cô Thoa một cái, Mai cố mỉm cười coi như không rồi làm bộ như đang xem lá thư một mình. Bà Nội dỗ:

– Đọc đi cháu. Có vậy mà cô cháu bây cũng muốn cãi nhau rồi.

Có thế chứ. Mai đằng hắng lấy giọng rồi đọc:

Em Mai,

Có lẽ tuần tới và cả tuần tiếp theo nữa, anh không về nhà được. Anh sợ cả nhà trông, nhất là ông bà. Em nói cho khéo léo với ông bà để ông bà yên tâm nhé.

Lý do anh không về được là vì tình hình có vẻ khẩn trương lắm. Mấy hôm nay, trong trại, thỉnh thoảng cũng nhốn nháo lên vì pháo kích. Ở nhà mình đừng có dở hầm ra vội, tuy nó vướng víu thật nhưng có nó mình vẫn yên tâm hơn. Lệnh cấm trại không biết trong bao lâu. Nhưng em có rảnh nhớ vào thăm anh. Phước chắc cũng cấm trại rồi. Em nên đi với chú Vạn, nói chú chịu khó bỏ xe ở ngoài cổng chính rồi đi xe lam vào trại Võ Tánh. Xe Lam chỉ có 5$, 10$ chi đó thôi. Em phải nói với chú cho chú vui lòng là em đãi chú được khoản tiền đi xe lam đó để đền công ơn lớn lao như núi của chú. Và mỗi lần thăm anh xong, hai chú cháu cũng nên đi dạo phố một vòng và nếu hào hoa, chú có thể kéo em vào quán Cái Chùa ở đường Tự Do, nơi làm dáng của mấy ông nhà báo, mấy ông văn nghệ sĩ, mà khao em một chầu cà-rem cắt cổ cững được lắm.

Anh cứ thắc mắc không biết bịnh bà ra sao. Nếu em nhắm thấy bịnh bà không đỡ thì nói với ông đừng dùng thuốc ta nữa. Thuốc ta thường chỉ tẩm bổ lâu dài, nhưng thuốc tây chữa trị cấp thời hơn. Em nên thay anh thuyết phục ông điều đó, chắc ông sẽ nghe vì làm sao ông có một đứa cháu ngoan hơn em nữa. Anh nịnh em một chút nhưng đừng có làm tàng nghe không? Dù anh có đi lính, nhà không còn ai thì em cũng phải cố gắng mà học. Học để về sau này mình còn gây dựng tương lai của mình nữa chứ, đâu phải đời mình cứ vướng víu mãi trong cái cuộc chiến tranh lẩm cẩm này phải không em. Anh còn phải dặn em một điều là phải tập can đảm và chịu đựng hơn nữa. Hôm anh về thăm nhà rồi lại đi. Khi bước ra khỏi nhà, nhìn lên khung cửa sổ nhỏ trên gác, anh thấy em đứng cúi xuống và hình như lúc đó em có khóc. Không bao giờ được khóc lóc như thế cả, nghe không?

Em Mai,

Mai ngừng lại để thở rồi nói:

– Đó, cháu đã bảo là thư của anh Đoàn viết riêng cho cháu mà.

– Hết rồi à? Thư từ gì mà không đầu không đuôi vậy? – Cô Thoa kêu lên.

Mai lật lật mấy trang thư trong tay:

– Trời ơi, còn dài lắm bà. Không hiểu anh ấy viết gì mà cà kê dê ngỗng vậy không biết.

– Ơ hay, còn dài thì đọc tiếp đi chứ.

Mai lấy giọng rồi đọc:

Em Mai,

Anh vừa nhắc em không được khóc, không phải anh chỉ nhắc em thôi đâu, mà anh còn tự nhắc cả anh nữa.

Em nhớ không, hôm đầu tiên vào trại thăm anh, lúc em chạy trở lại bảo cho anh biết tin em Hải đã vào Nam, rồi em khóc ngay giữa đám dông.

Em còn bận khóc, chắc em không tưởng tượng được lúc đó người anh ra làm sao. Anh không khóc. Thật anh không có khóc như em. Anh không nên khóc, không được quyền khóc. Nhưng ngay khi nghe tin em Hải đã đi lính đã vào Nam, chân tay anh bỗng đơ ra như gỗ.

Vậy mà khôi hài nhất là liền đó, anh lại phải sắp hàng cùng với các khóa sinh, đi hàng đôi, vừa đi vừa hát bài «khoẻ vì nước» để nhập trại. Em thử tưởng tượng coi, chân tay anh cứng đơ ra như gỗ, người như con gà đông lạnh sau cái tin là em Hải vào Nam. Vậy mà vẫn đi, vẫn hát. Quân đội là thế.

Nhưng cái giây phút đó cũng chưa kinh hoàng bằng buổi sáng hôm nay. Đêm qua, quân trường bị tấn công. Vào lúc hai giờ khuya, rồi cứ thế kéo dài đến sáng thì địch bị đẩy lui, bên ta toàn thắng, chỉ có mỗi khóa sinh bị thương, trong khi phía Việt Cộng bỏ lại đến hai mươi mấy xác.

Giữa lúc cả quân trường nô nức mừng chiến thắng, viên sĩ quan kiểm soát trận bỗng nói thêm một câu chú thích:

– Toàn bọn chánh qui Bắc Việt cả, mà sao toàn mươi tám đôi mươi không à. Thằng nào thằng đó mặt non choẹt, còn hôi sữa.

Em biết sao không? Câu nói tầm thường này bỗng làm anh lạnh toát. Toàn 18, 20, những mặt non choẹt. Có cái giây gì run bần bật trong người anh. Em Hải của chúng ta cũng đã vào Nam, cũng 18, 20, cũng non choẹt. Thế là không nghĩ ngợi gì hết anh tình nguyện xung ngay vào đội tạp dịch ra thu dọn chiến trường.

Trời tờ mờ sáng, anh cùng các bạn ra khỏi trại, các hàng rào kẽm gai, những bờ bụi còn dính đầy sương và vết máu.. Xác chết nằm rải rác, kẻ vắt qua hàng rào kẽm gai, kẻ nằm úp mặt bên bờ cỏ. Anh không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Em biết sao không? Có cái gì đó kéo anh chạy ào tới trước. Xác chết mà anh gặp đầu tiên là một xác chết nằm nghiêng, anh cúi xuống. Anh vừa cúi xuống đã bật ngay dậy. Xác chết anh gặp là một thiếu niên khoảng mười sáu mười bảy, cũng có thể mười bảy mười tám. Lạ một điều là xác chết này khác hẳn những xác chết khác đang nằm rải rác quanh đó, mặc một cái áo đen đúa, khuôn mặt gầy, nhưng có sống mũi cao, vừng trán cao sáng rực sự thông minh lanh lợi. Mai ơi, có phải em Hải đã vào Nam, em Hải của mình cũng nhỏ như thế này, lanh lợi như thế này. Nhưng mà không phải, không thể phải được…

Mai ngừng đọc để thở. Thật ra, có lẽ không phải để thở mà để nuốt một cái gì đó đang nghẹn trong cổ. Căn nhà im phăng phắc, rồi đột ngột có tiếng la lớn:

– Trời ơi, anh em nó giết nhau rồi, thằng Đoàn giết mất em nó rồi.

Bà Nội kêu lên một tiếng, rồi gượng ngồi dậy, nhưng chưa ngồi dậy được đã ngã xuống. Cứ như thế, bà gượng gạo trong sự chống trả kiệt lực. Lá thư trong tay Mai rơi xuống đất. Mắt Mai cũng vừa hoa lên, một vòng ánh sáng ngũ sắc xoay tít trước mắt, rồi vòng ánh sáng đó tan đi, khuôn mặt bà Nội trắng nhợt, hai mắt trợn trừng, đưa tay ra trước quơ quào trong không khí như đang ôm một người vô hình nào đó. Tóc bà Nội xổ tung, bà kêu trong chiếc miệng há lớn, cứng sững:

– Đúng rồi, thằng Hải cũng khuôn mặt nhỏ nhỏ, mũi cao. Thôi rồi, đúng rồi. Cha mẹ ơi là cha mẹ ơi…

Khuôn mặt đang tái nhợt của bà Nội bỗng tím ngắt, rồi hai tay bà cứng luôn, miệng bà ú ớ. Ông Nội kêu lên:

– Chết rồi, bà bây…

Cô Thoa ngồi thẳng dậy, tụt xuống đất chạy đi lấy dầu, vừa chạy vừa la:

– Nó giết mẹ tao rồi, nó giết mẹ tao rồi.

Chai dầu khuynh diệp đã mang ra. Ồng nội, cô Thoa lật đật xoa dầu cho bà. Căn nhà nhỏ bỗng như đảo lộn sau màn nước mắt đã ứa ra trên mặt Mai không biết từ bao giờ. Ông ơi. Ông đang nghĩ gì đó ông. Bàn tay ông đừng có đè trên bộ ngực xương xẩu của bà Nội mạnh quá, quả tim cùa bà sẽ bể mất.

– Ông ơi, bà ơi…

Mai kêu lên, rồi trong không khí đang đóng băng, tiếng khóc được bật ra, nhỏ to, thút thít. Mai khóc. Bà Nội khóc. Cô Thoa khóc. Còn ông Nội thì cứ nhấp nhỏm đứng lên ngồi xuống, thở ngắn thở dài.

Một lát, bà Nội đã lấy lại sức, cô Thoa đỡ bà ngồi lên dựa vào tường.

– Thôi rồi, ông ơi…

Ông tôi gượng gạo:

– Rồi sao nữa, cháu đọc tiếp đi Mai.

– Nó có nhận ra thằng Hải không? đọc tiếp đi, đọc đi. Cha mẹ ơi là cha mẹ ơi, đời thủa nhà ai mà anh em lại thảm thế này…

Bà Nội nói rồi lại khóc, tiếng khóc thúc thít như những móng sắc gẩy vào những sợi dây vô hình đang căng trong thân thể Mai. Tiếng kêu này đầy khổ đau, tiếng kêu khác êm ái, tiếng kêu nọ thân yêu, thống thiết. Lá thư dưới đất đã được Mai lượm lên cầm nơi tay. Phải đọc tiếp, xem còn có gì nữa. Mai tưởng mình phải nghẹn ngào khi đọc tiếp lá thư. Nhưng không. Tiếng nói của Mai như một kẻ xa lạ nào, dội lại vào chính đầu óc Mai từng chữ một:

Mai ơi, em biết sao không, lúc đó anh nhìn sững vào khuôn mặt của xác chết trẻ trung đó, một tiếng kêu thê lương nào như của một người nào chứ không phải của anh nữa, mà anh nghe thấy. Rồi anh như điên cuồng, anh lật hết xác này tới xác khác. Anh lật mãi, lật và nhìn mãi chừng đó xác chết anh lục soát không còn người nào có giấy tờ gì. Họ đã trở thành những kẻ vô danh mất rồi. Bạn bè trong khoá tưởng anh điên. Mày làm cái gì vậy, cái gì mà đi lật hết xác này qua xác khác vậy, dọn đi chứ. Nhưng không, anh không thế nào dọn được nữa. Không phải, không có Hải, nhất định thế. Anh ôm mặt và chạy thẳng một mạch vào trại. Sau lưng anh, anh nghe nhiều tiếng cười chế nhạo. Tiếng cười đó đuổi theo anh, bao kín anh cho đến lúc anh nằm thẳng cẳng như chết trên chiếc giường sắt.

Anh đã nằm thật im để tưởng tượng ra hình dáng em Hải. Nhưng làm thế nào anh hình dung được một Hải bây giờ. Khi mẹ bồng nó đưa anh em mình đi ở Bến Sáu Kho Hải Phòng, nó mặc cái áo len đỏ, mới có 6, 7 tuổi.

Thôi, chuyện đã làm cho em khóc rồi phải không? Anh xin lỗi em. Mấy đêm nay anh không ngủ được. Sự ám ảnh càng ngày càng nặng nề đối với anh. Nhưng dù sao anh vẫn tin là em Hải còn sống. Em Hải chưa chết được, khi anh chưa chết, ông Nội bà Nội chưa chết. Mình phải tin như thế. Tin như thế để mà sống, để mà còn thương yêu được nhau, để còn hy vọng có ngày về Bắc nhìn thấy thầy mẹ.

Anh Lý có thể trở về sống được. Tại sao em Hải lại không biết được con đường đó.

Nhưng em cũng đừng nói cho ông bà biết việc này. Bà mà nghe trại anh bị tấn công, chắc bà xỉu luôn quá.

Anh nhớ nhà ghê lắm. Nhưng anh biết mình đã lớn rồi, đâu trẻ con để ngồi khóc. Anh cũng đã viết cho Hồ một lá thư, gửi đi ngày kia, nhưng chắc lá thư sẽ đến sau lá này.

Quên nói với em một chuyện nữa là trong bọn khóa sinh với anh, có một tên đoán tử vi hay không chịu được. Lần sau, nhớ có lên thăm anh, em nói ông Nội lục lá số tử vi lấy cho anh hồi còn nhỏ để nó đoán xem sao. Biết đâu mình biết trước được số phận anh em mình. Như trong số tử vi có ghi là năm nay anh phải bỏ văn theo võ thì mới tốt đó.

Em nói với chị Phấn chỉ nên mua cho anh ít quà thôi, cơm trong này anh ăn đã quen và đã ngon miệng. Thức ăn ở đây thì hỗn tạp lắm, nhưng nếu chị gửi thì chỉ nên gửi trái cây thôi. Đời lính phải tập gian khổ cho quen, chắc thằng Hồ đã nói với em những điều ấy.

Anh sợ em sẽ buồn sẽ khóc vì những điều anh viết ở trên. Nhưng anh cũng nói thêm một điều cho em yên lòng là anh cười được rồi, cười được và ngủ lại được nữa. Làm sao lại dại dột đi nghĩ tới những điều bi thảm như thế. Phải không em.

Cho anh gửi lời thăm cả nhà, ông bà, cô Thoa, anh Lý và tất cả.

Mai gấp lá thư lại. Ngoài sân như vừa bừng lên chút ánh sáng còm cõi của buổi chiều leo lét trên khoảng đường sắt sửa soạn nhường chỗ cho ngọn điện đường đang chờ đợi. Bà Nội vẫn còn nằm lặng lẽ với nước mắt, ông Nội vẫn ngồi yên vị trí cũ. Còn cô Thoa, cô nhìn Mai, nhìn lá thư, và khi biết thư đã hết rồi, cô đưa mấy ngón tay lên bẻ rắc rắc. Tiếng bẻ ngón tay vang giữa sự yên tĩnh làm ông Nội như chợt tỉnh. Bà Nội lại khóc tấm tức và đưa tay chùi mắt. Ông Nội đứng dậy, bỏ chỗ ngồi nơi cái ghế kê gần hầm cát, đi lại ngồi chung với cả nhà nơi cái đi-văng. Và ông đưa bàn tay nhăn nheo lên sờ trán bà:

– Coi chừng không khéo bà nó đau lại thì phiền lắm.

– Không đâu ông. Tôi còn khỏe lắm.

Nói xong bà lại khóc. Ông Nội đi vào với cái ra-dô, cái điếu thuốc lào và mấy tờ báo. Cô Thoa xuống bếp dọn dẹp. Mai ngồi với bà, thoa dầu đấm lưng cho bà. Một lúc sau bà Nội chợp mắt ngủ. Mai không khỏi ngạc nhiên. Tại sao bà có thể ngủ dễ dàng quá? Bà ngủ mà trên mi còn đọng những giọt lệ. Mai ngồi ngắm khuôn mặt bà, đưa tay sờ mặt bà. Bà Nội sao mà dễ thương đến thế. Bà đã làm một việc lớn lao quá: bà sinh ra mẹ, mẹ sinh ra Mai. Vậy mà bây giờ bà chỉ còn bộ xương thế này, gắng gượng sống và chờ đợi. Mai gục đầu vào ngực bà, lùa tay vào tóc bà, vuốt vuốt làn da nhăn nheo nơi trán, nơi má bà, rờ rẫm từng nốt da đồi mồi, từng tàn nhang mốc meo. Đó là những biểu hiệu cũ kỹ của hạnh phúc, thứ hạnh phúc yên lành, bình dị, bền bĩ, tự nhiên có sẵn trong đời sống, nhưng phải tinh lắm mới nhìn thấy, mới hưởng được.

Tối đó cô Thoa ngủ chung với bà, Mai ngồi một mình trên căn gác rộng. Lúc này đối với Mai căn gác vừa nóng vừa chật đó lại rộng mênh mông. Mai đọc đi đọc lại lá thư của anh Đoàn và không cầm được nước mắt. Em Hải, khuôn mặt mờ mịt, nhưng sao trong điểm sáng nhỏ nhấp nháy trong đầu Mai, khuôn mặt em Hải lờ mờ, tươi tắn, vui cười, lúc nào cũng nhấp nháy theo. Rồi khuôn mặt Hồ, khuôn mặt thầy mẹ, cứ quay cuồng trong đầu óc Mai mãi.

Bắt đầu từ sáng hôm sau là bà Nội ốm nặng. Thì ra giấc ngủ dễ dàng chiều hôm trước chỉ biểu lộ sự yếu đuối đến cùng cực. Vào nửa đêm, bà thức dậy kêu khát nước và khóc như một đứa trẻ. Bà không ngớt kêu tên thầy mẹ, gọi tên thằng Hải. Đôi lúc, mê sảng, bà hát những bài ru em miền Bắc, như đang dỗ giấc cho đứa cháu nhỏ dại. Ông Nội nhìn thấy sự đau đớn leo lét của bà cũng không thể nào cầm được nước mắt. Bà bỗng nhiên in hệt một đứa trẻ con, chân tay bà nhỏ nhắn, tinh thần bà u mê và bà khóc lóc, vòi vĩnh. Nhưng có lúc, khi đã tỉnh lại đôi chút, bà chỉ nằm lịm người đi và nước mắt không ngừng chảy trên đôi má nhăn nheo và vành mắt thâm quầng, sâu hoắm. Cả nhà chạy đôn đáo đi tìm thầy tìm thuốc.

Chú Vạn lại lái cái xe cũ kỹ tới đậu trước sân, nơi cây trứng cá. Mấy ông bác, mấy ông chú lại thường xuyên lui tới. Chị Phấn dẹp cả sạp vải, bắt thằng Cu Tý ở nhà với các anh chị nhớn của nó, sang ở luôn tại nhà săn sóc bà Nội. Nội việc dùng thuốc mà cả nhà cũng đủ cãi vã nhau om sòm. Không khí gia đình bỗng nặng nề, đầy tiếng khóc, đầy sự hờn dỗi, cãi vã. Ông Nội đôi lúc cũng không dấu được sự cáu kỉnh, chị Phấn yên lặng đến lầm lì. Còn Mai đối với cô Thoa thì vẫn đều đều cãi nhau, hết đem nhau lên gác lại lôi xuống nhà bếp. Cô Thoa quá quắt lắm, cô nói vì lá thư anh Đoàn mà giết bà Nội, mẹ của cô, Mai cũng không dằn được. Mẹ của cô chẳng phải là mẹ của thầy, là bà của Mai sao.

Mai cãi với cô thì cô lại mím môi, trợn mắt, đưa tay lên ngực mà hét như đứt hơi:

– Thì không ai giết hết, nó giết, nó giết.

Và cô lại ôm mặt, chúi nhủi một góc mà khóc. Mai cũng mệt mỏi lắm rồi, không còn sức để thương cô nữa. Chú Vạn thỉnh thoảng thấy hai cô cháu hầm hè với nhau cũng phải gắt:

– Chúng bây làm cái gì thế? Làm như thế rồi có được gì không đã chứ. Mới có một chút đã rầm lên, cả thế giới, cả thiên hạ người ta chết, người ta khổ chứ bộ.

Những lần như thế ông Nội lặng lẽ rít một hơi thuốc lào, rồi rút vào với cái ra-dô, ông bắt đầu sốt ruột với cái hội đàm ở đâu đâu, và ngóng các tin tức của các đài ngoại quốc. Ông thức rất khuya, nhưng nhiều khi nửa đêm Mai thấy ông ngồi dậy, như định gọi cả nhà dậy báo một tin tức gì, rồi ông lại thở dài, nằm xuống gác tay lên trán.

Bà Nội bệnh mỗi ngày mỗi nặng thêm. Cho tới hôm thứ tư, sau một đêm bà thôi khóc nằm lịm đi trong một giấc mê mệt, sáng ra, bà bắt cả nhà ngồi quanh bà, và bà nói bằng một giọng hết sức trịnh trọng:

– Phải cúng ông ơi, Phải cúng. Tôi nằm mơ tôi thấy thằng Hải nó tìm về với tôi. Nó đứng nơi cửa rồi nó đi vào nhà. Đúng rồi, nó mặc đồ nhà binh mà. Nó mặc đồ như thằng Phước, nó đội cái mũ, nó có gắn lon nữa. Ờ, nó đi giày như đôi giầy thằng Đoàn. Cái chân nó giống cái chân thằng Đoàn lắm. Nó khóc nó nói phải cúng cho nó. Không, ông phải cúng cho nó không thì… thì tôi không về Bắc, tôi không thèm đợi hòa bình nữa, tôi chết, tôi đi theo nó cho ông coi…

Ông Nội cố giải thích cho bà nghe là đó chỉ là vì thương nhớ quá rồi đâm ra mộng mị, nhưng bà Nội nhất định không tin. Chú Vạn ghé nhà nghe ông Nội kể lại thì cười nối với bà:

– Bác nằm mơ sai rồi, lính Việt cộng đâu có đồ nhà binh như lính quốc gia, bác lo quá rồi mơ đó.

Nhưng bà Nội vẫn nhất định tin tưởng:

– Tao nói gặp là tao gặp. Nó không có áo quần thì nó mượn của bạn bè nó thiếu gì. Nó mượn của lính quốc gia. Bộ về dưới âm phủ cũng đánh nhau nữa hay sao mà mầy không tin tao nói, hở cái thằng Vạn gàn dở kia.

Rồi bà kể lại:

– Nó nhớn 1ắm, sao mà nó giống cái thằng anh nó thế không biết. Ban đầu bác tưởng Đoàn về, sau nó nói nó là thằng Hải. Nó khóc nữa, nó nói làm sao nhắn về cho bố nó biết. Trời ơi, ai mà nhắn dùm đây trời.

Nước mắt bà Nội lại tuôn ra dàn dụa, tay chân da thịt bà càng ngày như càng co rút lại. Đôi khi nhìn bà nằm đắp chăn kín mít, Mai thấy bà như một đứa trẻ con. Vào đời, lớn, đau khổ, trước khi chết không răng, không trí nhớ, không khôn ngoan, tay chân lóng ngóng in hệt như đứa trẻ. Bà Nội cũng đã như thế. Bà lại thường nói những câu rất ngây thơ nữa. Chẳng hạn như bà hỏi Mai: Hôm nay trời nắng lớn không cháu. Mai trả lời nắng lớn thì bà nói: Ừ, nắng to như thế này hồi xửa hồi xưa ở Bắc, hồi bà nhỏ xíu đó, bà đi tắm sông, tắm sông mát lắm.

Hoặc bà hỏi Mai có thích đánh thẻ, hay nhảy dây không, hồi xưa bà chơi những môn đó giỏi lắm. Bà thích bắt chuồn chuồn, thích đi hái trộm mơ. Rồi bà kể chuyện thầy hồi nhỏ: Nó bướng hơn thằng Đoàn nhiều, lúc nào cũng chạy rong, giờ ăn đi gọi nó tìm cả làng không thấy.

Cứ những chuyện xa xưa vậy đó, mà bà Nội kể đi kể lại, như là chuyện mới xẩy ra hôm qua, làm đôi khi Mai không cầm nổi nước mắt. Càng thương bà bao nhiêu, Mai càng xót xa bấy nhiêu. Mai viết thư cho Hồ, kể chuyện bà Nội bị bệnh.

Có lá thư Hồ viết về, kể chuyện trên đơn vị của Hồ ở Tân Cảnh có tổ chức một đêm liên hoan thật vui. Mai đọc cho bà Nội nghe. Tức thì bà lại hỏi:

– Liệu thằng Hải đi lính nó có vui được vậy không nhỉ.

Chuyện gì thì chuyện, nhưng cả nhà không thể làm lơ chuyện cúng với bà được. Bà nhắc đi nhắc lại mãi:

– Phải cúng ông ạ. Ông không lo thì tôi lo. Rõ ràng thằng Hải nó về nó đòi cúng. Tính nó hồi nhỏ đòi gì là đòi cho bằng được. Ông nhớ hồi tôi về Hải-Phòng nó lăn cù ra giữa nhà đòi đi theo đấy không? Không cúng cho nó là tôi không thể chợp mắt nổi.

Ông Nội không còn cách gì khác, đành nhìn lên cuốn lịch Tam Tông Miếu trên tường, rồi bỗng ông giật mình:

– Ờ, tháng bẩy rồi thật bà. Tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân. Thôi, để tôi cúng.

Thế là ông Nội phải đứng ra lo việc cúng nhưng ông Nội đã đổi ý nghĩa buổi cúng cầu siêu thành buổi cầu an cho Hải cho anh Đoàn và cả Hồ nữa. Bà Nội tỏ ra vui mừng lắm.

Họ hàng hôm đó đến không được đông lắm nhưng có anh Lý, chú Vạn. Chú dẫn một người bạn cũng nhà báo đến, và trong khi cúng hai người ngồi nói chuyện thời cuộc. Thỉnh thoảng ông Nội cũng hỏi chen một câu. Bà Nội bắt cô Thoa là chiếc áo gấm xanh rộng thùng thình, Mai thương bà vô hạn. Bà mặc áo đẹp nhưng không còn sức để đi đứng được nữa. Chú Vạn đã rước được mấy vị sư, đến tụng niệm cầu an cho em Hải. Bà Nội nghe kinh có lúc cứ tưởng đó là kinh cầu siêu, và khi mấy nhà sư đọc kinh bà lại nằm khóc âm thầm. Bà hướng đôi mắt tới bàn thờ, kê sát hầm cát, bằng con mắt vô cùng thành khẩn.

Rồi bà khóc lóc kêu tên em Hải. Nhớ ngày nào cháu đỏ hỏn trên tay bà. Nhớ ngày nào cháu nhức đầu sổ mũi. Nhớ ngày nào mẹ cháu đánh cháu một roi mà ruột bà như bị ai cắt đứt ra. Thảm quá, cháu vào Nam mà chi. Đứa nào bắt cháu vào. Bà Nội vừa khóc vừa kể lể và bắt Mai lạy trước bàn thờ. Anh Lý đứng khoanh tay sau lưng mọi người. Khi thấy bà Nội khóc lóc, Mai ái ngại nhìn anh, và anh mỉm cười lại, nụ cười buồn bã nhưng cũng đầy thương yêu. Mai thấy mình như hòa tan vào không khí thiêng liêng của buổi cúng, hòa tan trong tình thương yêu và trong cả nỗi tủi nhục mà cả nhà đang chịu. Phải, ở đâu có đau khổ mới nở ra thương yêu, sự thương yêu mới có giá trị. Mai khóc âm thầm mà cũng kiêu hãnh âm thầm: tôi chẳng thương yêu là gì, bà Nội chả thương yêu là gì. Chúng tôi sẵn sàng đau khổ và cũng sẵn sàng thương yêu, thương yêu nổi cả máu mủ của cuộc chiến tranh này nữa.

Nhưng rồi, giữa buổi cúng cầu an, mà bà Nội tin là cầu siêu, bà lại nhìn anh Lý và hốt hoảng hỏi:

– Liệu thằng Hải nó còn sống không hở cháu?

Anh Lý ngồi xuống cầm tay bà, chiếc tay xương xẩu khuất trong tay áo rộng:

– Cháu tin là Hải còn sống.

– Sao cháu tin vậy được?

Anh Lý chỉ vào ngực:

– Cháu còn sống đây này. Biết đâu giờ này Hải chưa vào tới miền Nam thì sao. Tuổi trẻ chán gì người, đi đông lắm chứ đâu phải chỉ một mình em Hải.

Bà Nội luống cuống:

– Ờ nhỉ. Nào đâu tao có biết, nhưng mà rõ ràng thằng Hải nó về, nó về thật mà, nó giống thằng bố nó ngày xưa như tạc làm sao nhầm được, hở trời.

Bà Nội nói xong lại khóc và nằm lịm người đi. Trước khi chưa cúng, bà Nội cũng đã quay quắt, nhưng bây giờ cúng rồi bà Nội lại quay quắt hơn. Mai biết trong lòng bà đang xáo trộn bao nhiêu buồn khổ, lo lắng và cả hối hận nữa.

Lúc Mai quỳ trước bàn thờ, bên cạnh anh Lý, nhìn trầm hương nghi ngút, tiếng chuông mõ nhịp nhàng, lòng Mai bỗng xúc động mạnh. Lúc này giả dụ linh hồn em Hải có thực, đang đứng lẩn quất ở đâu đây… Không, nếu giả dụ không có, thì trong căn nhà bé này cũng đã quy tụ biết bao nhiêu oan hồn kẻ Nam người Bắc. Một biến cố Mậu Thân, bao nhiêu người chết, rồi những đợt tấn công, rồi cuộc chiến tranh này đã vùi lấp bao tuổi trẻ. Mai muốn biết khuôn mặt anh Lý lúc này ra sao, nhưng không quay lại được. Chú Vạn quỳ sau Mai thì thầm: Đĩa xôi bự quá, ai nấu đó? Một lát chú lại nói: Mày coi thằng Lý nó quì, đồ vô thần quì có kbác.

Mai biết là chú Vạn cũng đang nghĩ một điều gì đó, và chú muốn che lấp. Cúng xong chú Vạn không kịp ăn cơm, cùng người bạn lên chiếc xe lọc cọc đi mất. Mai cố giữ anh Lý lại. Hôm nay là ngày nghỉ mà, ở lại không sao đâu. Mai năn nỉ mãi anh Lý mới chịu ở lại. Chính Mai, Mai cũng sợ không khí ngột ngạt này, làm sao anh Lý chịu cho nổi.

Buổi tối sau khi cùng với cô Thoa dọn dẹp và hầm hè nhau ở dưới bếp, Mai bỏ lên gác với anh Lý. Anh đang ngồi trên chiếc chiếu trải trên sàn gỗ, anh đánh đàn và hát sẽ. Mai ngồi xuống bên anh. Đợi anh dừng tiếng hát, Mai hỏi:

– Anh nghĩ sao về buổi cầu an hôm nay?

Anh Lý cười:

– Sẽ có ích cho Hải, nếu Hải còn sống.

– Anh tin Hải còn sống không?

– Khỏi lo, nếu còn sống nó sẽ mò về như anh cho coi. Thằng đó cũng mê hát hỏng lắm.

Hình như có một sợi tơ nào trong người Mai vừa rung lên. Anh Đoàn cũng thế. Thầy cũng thế. Bà Nội vẫn thường than thở: «Nó mà kháng chiến kháng chiếc gì, chỉ vì mê hát hỏng mà vậy. Dạo xưa cứ mỗi lần bọn cán bộ về hát múa trong làng là không còn tìm thấy nó đâu cả. Họp đàn họp chợ suốt ngày».

Bà Nội nói vậy, nhưng Mai vẫn nghĩ khác. Có thể quả thật thầy đã mê kháng chiến. Nhưng sao đã kháng chiến mà bây giờ ngoài Bắc thầy lại về dạy học, sống đạm bạc, tầm thường, như anh Lý đã kể.

Mai lại quay sang anh Lý hỏi tiếp:

– Lúc mấy thầy đọc kinh anh cảm động không?

– Cảm động chứ. Khi ấy anh nhớ đủ thứ.

– Anh nhớ những gì vậy?

– Nhiều lắm. Nhớ gia đình ngoài Bắc. Nhớ những người bạn chết rải rác dọc đường. Không biết bao giờ những oan hồn ấy mới có dịp về Bắc.

– Vậy là anh nghĩ cuộc chiến tranh này không bao giờ chấm dứt được sao?

Anh Lý trầm ngâm:

– Không. Anh chả nghĩ gì cả.

Tự nhiên, Mai phấn khởi một cách hết sức ngây thơ:

– Em thì khác. Em tin cuộc chiến tranh này sắp chấm dứt rồi. Mình phải về Bắc chứ anh? Nghe tin hòa bình, chắc bà Nội khoẻ lại như con gái quá anh ạ.

Anh Lý cười, nụ cười thật dễ dãi. Mai thấy anh dạo nầy có vẻ khá hơn, bớt xanh xao hơn hồi mới gặp. Mai tiếp tục câu chuyện:

– Rồi khi ra khỏi Trung Tâm anh định làm gì? Có tính đi lính không?

– Không. Ở ngoài Bắc anh cũng không muốn đi lính, tại bắt buộc thôi. Có lẽ anh sẽ xin làm ở Nha Công Tác, hoặc vào một đoàn văn nghệ nào đó.

– Lúc anh ra thì yên rồi.

– Mai thật dễ thương. Dễ thương nhờ tính dễ tin đó..

Mai lắc đầu:

– Không phải tin đâu mà em có linh tính.

– Linh tính thế nào?

– Em nói không được.

Anh Lý đứng dậy. Anh nói ra đứng nơi cửa sổ một chút cho mát. Mai đi theo anh, hai anh em nhìn xuống mặt sân rộng, rồi tới con đường sắt, và những mái nhà cao thấp chen chúc nhau bên kia đường. Ngọn đèn đường đã bật sáng, soi rõ một khoảng đường sắt nằm êm rơ. Anh Lý lại trở về buổi cúng ban chiều:

– Lâu lắm rồi anh mới trông thấy một buổi cúng cầu an. Hồi nhỏ hay xem ở chùa. Bây giờ thấy lại cảm động ghê.

– Anh thấy lễ cầu an với cầu siêu có khác nhau gì không?

– Anh không phân biệt được. Chỉ thấy cảm động lắm.

– Lúc đó anh nghĩ gì. Mà em thấy anh làm sao ấy. Chú Vạn cứ chỉ anh rồi bảo: «Mày coi, đồ vô thần quì có khác».

Anh Lý cười:

– Có lẽ lạ thật. Lúc nghe kinh rồi lạy trước bàn thờ, không hiểu sao anh cứ nghĩ lẩm cẩm đủ thứ.

Giọng anh Lý bỗng như âm thầm hơn:

– Em biết, ngoài mặt trận chết như rạ. Nếu phải cúng cầu siêu cho các oan hồn, chắc không còn đủ đất mà đặt bàn thờ. Chỗ nào cũng có người chết.

Mai vịn tay vào thành cửa sổ, nhìn ra ngoài đêm tối. Những mái nhà âm thầm chìm trong đêm cao thấp. Bên những dãy lầu cao, là những mái nhà lụp xụp chen chúc nhau. Mai nói với anh Lý:

– Không hiểu sao cứ mỗi lần em đứng đây nhìn xuống những mái nhà kia là em lại cảm động. Anh cứ nhìn mà coi, dưới mỗi mái nhà kia là cả một gia đình như gia đình mình. Cũng có đủ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái. Họ cũng có bàn thờ, cũng thương nhớ người xa cách, cũng cúng giỗ người chết, cũng lo lắng, mưu sống… Anh thấy không, họ cộng với gia đình mình là thành phố, là quê hương, tổ quốc..

Trong bóng tối thấp thoáng, anh Lý nhìn Mai thật êm đềm:

– Cảm động thật chứ. Nhưng cô làm tôi có cam tưởng đang nghe một thi sỹ nói chuyện. Cô nói có vẻ thi sỹ lắm..

– Anh đừng có làm em ngượng. Anh Đoàn thấy em tối tối hay ra đứng ở cửa sổ này nhìn trời nhìn đất, vẫn chê em là đứa mơ mộng.

Hai anh em không hẹn bỗng cùng nhìn lên trời. Trăng đã lên phía sau một khu nhà lầu cao. Vầng trăng thật tròn, long lanh tỏa ánh sáng trên vòm trời mênh mông. Anh Lý nói:

– Cô coi, vậy mà đã rằm tháng bẩy rồi đấy. Tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân. Mùa này ở ngoài mình là mưa dầm dề…

– «Tiết tháng bẩy mưa dầm sùi sụt» mà anh. À, mà anh nhớ bài «Văn tế thập loại chúng sinh» của Nguyễn Du không anh.

– Nhớ chứ. Cô chưa biết khi dạy học ở ngoài Bắc tôi dạy văn chương à. Năm kia, hồi lễ kỷ niệm 200 Nguyễn Du, tôi bị nhà trường bắt ra đọc văn tế thập loại chúng sinh giữa buổi lễ, phải bỏ ra cả đêm để học cho thuộc. Không ngờ sau này suýt tý nữa mình cũng thành oan hồn.

Giọng Mai bỗng náo nức:

– Vậy anh đọc lại cho em đi anh. Em chưa bao giờ được nghe đọc văn tế đúng giọng…

Hai anh em đứng sát vào nhau hơn bên khuôn cửa sổ. Mai thúc dục hơn hai ba lần, rồi anh Lý lấy giọng. Anh đọc nhỏ, giọng kéo dài lên xuống thê thiết:

Tiết tháng bẩy mưa dầm sùi sụt

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu

Cành lê tráng bạc, lá ngô rụng vàng

Đường bạch dương, bóng chiều man mác

Dặm đường lê lác đác sương sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Cõi dương còn thế nữa là… Ánh điện của thành phố hắt lên đang rực rỡ bỗng nhoè nhoẹt. Vầng trăng vừa lên đang long lanh bỗng mờ mịt. Anh Lý đứng sát cạnh Mai, nhưng giọng anh như từ một cõi xa xôi nào vọng về:

Trong trường dạ tối tăm trời đất

Cô hồn thường phảng phất u minh

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói kẻ hèn người ngu.

Không khí trên căn gác bỗng âm u hẳn đi. Hay là những oan hồn vất vưởng đâu đó nghe tiếng tụng niệm của anh Lý đang kéo nhau về đây.

Hai tay Mai bấu lấy song cửa, nước mắt dàn dụa. Nhưng tiếng anh Lý vẫn không chịu ngừng lại, như còn muốn kêu gọi thêm những hồn oan trở về. Nào những mái sa, ngói lở, những trâm gẫy bình rơi, những cô hồn thất thểu dọc ngang, những tên rơi đạn lạc, thịt nát máu trôi, những nắm xương vô chủ, những bó đóm đưa đêm, những hồn đường phách sá…

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập loè ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương…

Giọng anh Lý càng lúc càng như dài hơn, xa hơn, nghẹn ngào hơn. Rồi không biết vào một giây phút nào, hai song sắt mà Mai đang nắm chắc trong tay bỗng thấy lạnh lẽo quá, ghê rợn quá, và Mai thốt rùng mình, buông hai chấn song, chụp lấy tay anh Lý, kêu lên:

– Anh Lý. Thôi anh…

Giọng anh Lý đang kéo dài thống thiết ở câu «người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành», đột ngột sững lại như một giây đàn bị đứt. Cánh tay anh đang bị Mai bấu chặt, anh để yên, nhìn Mai, mỉm cười:

– Em lại khóc rồi đấy, phải không. Biết ngay mà…

– Anh nhìn tay em đây này. Em nổi gai ốc cùng người. Anh mà còn đọc thêm vài phút nữa, chắc em chết mất. Em thấy như có không biết bao nhiêu oan hồn ùa về đây…

Anh Lý gỡ tay Mai ra, rồi dùng cả hai tay anh nắm chặt lấy bàn tay còn run rẩy của Mai:

– Ấy là cô sống ở thành phố từ nhỏ mà còn thấy vậy đó. Còn những nơi khác. Cô biết, có nơi, trên một cánh đồng, có hàng trăm xác chết chồng chất. Hồi cuối năm ngoái, có lần tôi đứng ở một thung lũng dưới chân đồi, máu ngập đến mắt cá chân.

Mai nhìn anh Lý, dào dạt tình thương yêu thân thiết. Mai muốn nói một câu nào đó để an ủi anh, nhưng sao thấy mình yếu đuối quá. Mai rút tay khỏi tay anh, lau nước mắt.

Đêm tháng bẩy dần dần trong sáng trở lại.

Một lát, Mai nói với anh Lý:

– Em có con bạn người Huế, nó kể chuyện ở Huế có ngày 23 tháng 5 là ngày thất thủ kinh đô, cả thành phố đều cúng cô hồn, đâu đâu cũng có cháo thí, vàng hương, cầu kinh..

Thấy anh Lý không trả lời, Mai nói tiếp:

– Lại còn ngày mùng 2 tháng một, ngày chiến sĩ trận vong nữa anh.

Anh Lý trầm ngẫm một lát, rồi bảo Mai:

– Chưa hết đâu cô. Nước mình còn cần biết bao ngày như thế nữa. Cô coi, hồi kinh đô thất thủ, ba bốn trăm người chết, ăn thua gì với hồi tết Mậu Thân vừa qua, cả chục vạn người…

– Ghê quá đi, anh!

Ghê quá đi. Mai kêu lên và rùng mình trước.

Đêm nay, trong bầu không gian vô tận, trên quê hương mênh mông này, có biết bao nhiêu oan hồn đang vất vưởng. Anh Lý kể thêm cho Mai nghe về những xác chết rải rác giữa rừng, những người đi có tên tuổi, mà chết vô danh, vô thừa nhận. Anh Lý nói đúng. Phải có một ngày nào cho họ. Đâu phải chỉ có chiến sĩ chết để mà có một ngày chiến sĩ trận vong, một ngày kinh đô thất thủ. Còn có biết bao những bà mẹ già, những bào thai, những con trẻ chưa kịp nuôi lớn cũng đã chết. Nhất định phải có một ngày cho tất cả các oan hồn. Khi hòa bình trở lại, bao nhiêu oan hồn sẽ vào Nam, bao nhiêu oan hồn sẽ ra Bắc.

Bầu trời đang êm đềm, bỗng đỏ rực lên. Một trái hỏa châu đang bùng cháy trước mặt hai anh em. Mai lặng người: Biết đâu em Hải, anh Đoàn, Hồ… Liệu trong đám oan hồn vất vưởng ấy có tôi không, có gia đình tôi không?