← Quay lại trang sách

LỜI CẢM ƠN

Sau khi dành thời gian cho việc nghiên cứu và viết cuốn sách này còn dài hơn cả thời gian mà chính Napoleon đã trải qua ở St Helena và Elba cộng lại, tôi đã tập hợp được một số lượng lớn đến mức bối rối những người tôi mong muốn cảm ơn vì sự hào phóng trước sau như một, tính cách dễ mến, thời gian và sự giúp đỡ của họ. Những người này bao gồm: Tổng thống Nicolas Sarkozy vì những hiểu biết sâu sắc của ông về cách nhìn nhận Napoleon ở Pháp ngày nay; David Cameron và Rodney Melville vì đã cho phép tôi tìm hiểu thư tín của Napoleon tại Chequers;(*) Xavier Darcos tại Viện Hàn lâm Pháp và Tổng Hàn lâm viện Pháp quốc vì những lần giới thiệu tại Paris; Mervyn King vì các suy nghĩ của ông về các món nợ tài chính của Pháp và Anh trong Chiến tranh Napoleon; Carole Aupoix vì đã cho tôi xem một con rận giống như những con vật ký sinh đã gieo rắc bệnh sốt chấy rận từng tàn phá các đạo quân của Napoleon tại Nga; Đại công tước Otto von Habsburg đã quá cố vì những quan điểm của ông về cuộc hôn nhân “không môn đăng hộ đối” của Marie Louise với Napoleon; phu nhân Mary Berry vì đã cho tôi xem những chiếc ghế được sử dụng tại Hội nghị Vienna; Jayne Wrightsman vì đã cho tôi xem bộ sưu tập gáy sách thời Napoleon của bà; Robert Pirie vì sự động viên của ông; phu nhân Alexandra Dacre đã quá cố vì những hồi ức của bà về Hoàng hậu Eugénie; Dusan Frybort tại Austerlitz vì đã cho tôi bắn thử khẩu súng hỏa mai thời Napoleon của ông; cô Evan Lattimer vì đã cho phép tôi xem mẫu vật được cho là “gân” của Napoleon; Charles-Henry và Jean-Pascal Tranié, Jerry và Jane Del Missier vì lòng hiếu khách tuyệt vời của họ tại hồ Geneva; Nicholas Steed vì những báo cáo của ông về Napoleon ở Malta; vợ chồng Bá tước Carnarvon vì đã cho tôi xem chiếc ghế bành của Napoleon lấy từ Fontainebleau và chiếc bàn viết từ Tuileries; Robin Birley vì sự hào phóng lớn lao của ông; nữ Bá tước Rosebery vì đã cho tôi thấy thư viện di động của Hoàng đế; Tiến sĩ Henry Kissinger vì những suy nghĩ của ông về Hội nghị Vienna; Giáo sư Charles Esdaile vì đã mời tôi tới hội thảo tuyệt vời mang tên “Napoleon tại đỉnh cao của ông” tại Đại học Liverpool năm 2007; Deborah Edlmann, Rurik Ingram, các em họ Philip và Sandra Engelen vì đã đón tôi tại Cape Town trên cuộc hành trình tới St Helena của tôi (khiến tôi mất hai tuần; chủ yếu trên tàu của Royal Mail); Zac Gertler vì lòng hiếu khách và sự hào phóng của ông tại Tel Aviv; Caroline Dalmeny vì đã cho tôi mượn một món tóc của Napoleon, món tóc đó đã luôn hiện diện trên bàn viết của tôi, tạo cảm hứng cho tôi; và Baudoin Port tại BNP Paribas vì đã cho phép tôi tới thăm căn phòng nơi Napoleon và Josephine từng kết hôn. Tôi cũng muốn gửi lời xin lỗi chân thành nhất tới Jérôme Tréca và đội ngũ nhân viên tại cung điện Fontainebleau vì đã kích hoạt chuông chống trộm trong phòng đặt ngai của Napoleon không dưới ba lần.

Một sử gia quân sự không tới thăm các chiến trường cũng giống như một thám tử chẳng bận tâm tới thăm hiện trường tội ác. Trong quá trình nghiên cứu cho cuốn sách này, tôi đã tới thăm 53 trong số 60 bãi chiến trường của Napoleon, phần lớn với sự tháp tùng của sử gia quân sự lỗi lạc John Lee. Một trong những niềm vui lớn nhất trong việc viết cuốn sách này là được cùng John bước đi trên mặt đất ở Montenotte, Mondovi, Lodi, Mantua, Arcole, Castiglione, Rivoli, Rovereto, Dego, Marengo, Ulm, Austerlitz, Jena, Eylau, Friedland, Abensberg, Landshut, Eggmühl, Ratisbon, Aspern-Essling, Wagram, Maloysroslavets, Lützen, Bautzen, Dresden, Leipzig, Reichenbach, Brienne, La Rothière, Champaubert, Montmirail, Château-Thierry, Vauchamps, Montereau, Craonne, Lâon, Reims, Arcis-sur-Arbe, và St-Dizier. Những lời khuyên và hiểu biết sâu sắc của John trong vô vàn email trao đổi giữa chúng tôi quả thực là vô tiền khoáng hậu, những ghi chú về các trận đánh trong các chiến dịch của Napoleon đã chứng tỏ hoàn toàn vô giá, và tình bạn của ông là một niềm vui. Tôi không thể cảm ơn đủ với ông cũng như Celia, vợ ông, người đã rất thường xuyên sắp xếp để ông cùng tới thăm các chiến trường với tôi.

Trong số 69 kho lưu trữ, thư viện, bảo tàng, và viện nghiên cứu mà tôi đã tới thăm ở 15 quốc gia trong quá trình nghiên cứu của mình, tôi đã luôn gặp sự giúp đỡ hữu ích và tình bạn, và tôi muốn đặc biệt cảm ơn:

Pháp: Sacha Topalovich và Florence Tarneaud tại Tàng thư Quốc gia, Paris; Y. Bamratta và Laurence Le Bras tại các cơ sở của Thư viện Quốc gia lần lượt tại Tolbiac và Richelieu; Anne George-Liskenne tại Trung tâm Tàng thư Ngoại giao, La Courneuve; Claude Ponnou và Thisio Bernard tại Cục Lịch sử Quốc phòng, Vincennes; Sylvie Biet và Danièle Chartier tại Thư viện Thiers; Gérard Leyris tại Bảo tàng Carnavalet; Ngài Peter Westmacott, Đại sứ Anh tại Paris, và quản gia của ông, Ben Newtek, vì đã chỉ dẫn cho tôi thăm ngôi nhà của Pauline Borghese tại Paris, ngày nay là Sứ quán Anh; Susanne Wasum-Rainer, Đại sứ Đức tại Paris, vì đã chỉ dẫn tôi đi thăm nơi ở của bà, dinh thự de Beauharnais, món quà tuyệt vời bà tặng con trai Eugène của mình; Léonore Losserand tại St-Joseph-des-Carmes; David Demangeot, người quản lý cung điện cũ St Cloud; Aurore Lacoste de Laval tại Học viện Quân sự; Christopher Palmer, Bí thư thứ nhất Sứ quán Mỹ tại Paris, và bà Robin Smith, Giám đốc Trung tâm Marshall tại dinh thự Talleyrand; Angélique Duc tại bảo tàng Napoleon ở Brienne-le-Château; Fanny de Jubecourt tại điện Invalides và bảo tàng Quân đội; Tiến sĩ Thierry Lentz và Giáo sư Peter Hicks vì đã đón tiếp tôi nhiệt tình đến vậy tại Quỹ Napoleon tuyệt vời; Alain Pougetoux tại lâu đài Malmaison; Xavier Cayon tại Hội đồng Quốc gia ở Palais-Royal (trước đây là Viện Tư pháp); bà Marianne Lambert tại lâu đài Maison-Laffitte của Thống chế Lannes; ông bà Benoit d’Abonville; Quentin Aymonier tại pháo đài Joux Ở Jura; con trai Henry và con gái Cassia của tôi vì đã đi cùng tôi tới Corse; đội ngũ nhân viên tại điện và bảo tàng Binh đoàn Danh dự, Paris; bảo tàng Sở cảnh sát Paris; trường học của Binh đoàn Danh dự tại St-Denis; Panthéon, bảo tàng Fesch và bảo tàng Quốc gia dinh thự Bonaparte tại Ajaccio, Corse.

Nga: Alexander Suhanov và Elvira Chulanova tại bảo tàng Quốc gia Borodino vì đã dẫn tôi đi thăm chiến trường Borodino; Oleg Aleksandrov của Three Whales Tours vì đã đưa tôi tới chiến trường Maloyaroslavets; Maciej Morawski tại City Events vì đã đưa tôi tới chiến trường Eylaud và Friedland tại vùng lãnh thổ Kaliningrad thuộc Nga; Konstantin Nazarov tại bảo tàng Lịch sử Quân sự Maloyaroslavets; Aiexandr Panchenko tại bảo tàng Lịch sử Bagrationovsk ở chiến trường Eylaud; Valery Shabanov và Vladimir Ukievich Katz tại Tàng thư Lịch sử Quân sự Nhà nước tại Moscow, và Marina Zboevskaya tại bảo tàng Toàn cảnh Borodino tại Moscow.

Belarus: Giáo sư Igor Groutso vì đã chỉ dẫn cho tôi chiến trường tại sông Berezina, và Rakhovich Natalya Stephanovna tại bảo tàng Hỗn hợp Borisov.

Israel: Tiến sĩ Eado Hecht vì đã dẫn tôi đi thăm các chiến trường tại Kakun, Jaffa và núi Thabor, và Tiến sĩ Alon Keblanoff vì đã dẫn tôi tới thăm vị trí cuộc vây hãm Acre; Giáo sư Azar Gat tại Đại học Tel Aviv, và Liat Margolit tại bảo tàng Khảo cổ Tel Dor.

St Helena: Michel Dancoisne-Martineau, Lãnh sự danh dự Pháp và người phụ trách bảo tồn vô cùng mẫn cán tại Longwood vì những ngày vô cùng thoải mái của tôi tại đó; Aron Legg vì đã dẫn tôi tới thăm Mount Pleasant, Dianas Peak, Prosperous Bay, The Briars, Sandy Bay và Jamestown, và Andrew Wells, cựu Tổng thư ký của St Helena.

Bỉ: Ian Fletcher và Đại tá John Hughes-Wilson, người đã dẫn tôi tới thăm Waterloo; Benoît Histace, Giám đốc bảo tàng Trận Ligny, người đã dẫn tôi đi quanh chiến trường tại Ligny, và Bá tước François cùng nữ bá tước Susanne Cornet d’Elizius, chủ nhân của La Haie Sainte.

Anh: Lucy McCann tại thư viện Rhodes House, Oxford; Leigh McKiernan tại phòng đọc Các bộ Sưu tập đặc biệt ở thư viện Bodleian, Oxford; Giáo sư Nick Mayhew tại phòng Tiền xu Heberden ở bảo tàng Ashmolean, Oxford; Josephine Oxley tại Apsley House; Paul Roberts tại bảo tàng Anh; Katy Canales và Pim Dodd tại bảo tàng Quân đội Quốc gia; Hilary Burton và John Rochester tại bệnh viện Hoàng gia, Chelsea; Richard Daniels tại Học viện Thông tin liên lạc London; Richard Tennant tại ủy ban Lịch sử Quân sự Anh, và đội ngũ nhân viên bảo tàng Hải quân Hoàng gia tại Porthsmouth, bảo tàng Anh và bảo tàng London.

Italy: Lario Zerbini tại bảo tàng Rivoli; con gái tôi Cassia vì đã đi cùng tôi tới Elba; Nello Anselmi tại Santuario della Madonna del Monte Ở Marciana, Elba; Elisabetta Lalatta tại Quỹ Serbelloni Ở Palazzo Serbelloni của Milan; Ricardo Bianceli tại Palazzo Ducale ở Mantua, và đội ngũ nhân viên Bảo tàng Napoleon tại Rome, bảo tàng Marengo tại Spinetta Marengo, biệt thự Reale tại Monza, và biệt thự San Martino, Elba.

Cộng hòa Séc: Simona Lipovska tại bảo tàng Đài Kỷ niệm Hòa bình và Jana Slukova tại lâu đài Slavkov ở Austerlitz.

Áo: Helmut Tiller tại các bảo tàng Aspern và Essling; Rupert Derbic tại bảo tàng Wagram; và đội ngũ nhân viên cung điện Schönbrunn và bảo tàng Heeresgeschichtliches tại Vienna.

Bồ Đào Nha: Mark Crathorne và Luiz Saldanha Lopes vì đã dẫn tôi đi thăm các pháo đài 40, 41, 42, 95 của phòng tuyến Torres Vedras; và đội ngũ nhân viên bảo tàng Quân sự tại Lisbon.

Đức: Đội ngũ nhân viên Bảo tàng Quân đội Bavaria tại Ingolstadt, Bảo tàng 1806 tại Jena Cospeda, Bảo tàng Torhaus tại Markleeberg trên chiến trường Leipzig.

Mỹ: Jay Barksdale tại phòng Allen và Elizabeth Denlinger tại phòng Pforzheimer của thư viện Công cộng New York; Declan Kiely tại thư viện Pierpont Morgan; Kathryn James tại thư viện Beinecke và Steve Ross tại thư viện Kỷ niệm Sterling ở Yale; Elaine Engst và Laurent Ferri tại Sưu tập Bản thảo của thư viện Carl A. Kroch ở Đại học Cornell; gia đình Merrill, những người đã hào phóng tài trợ cho việc làm giáo sư thỉnh giảng của tôi tại Cornell; Giáo sư Barry và Tiến sĩ Marcia Strauss tại Cornell về sự hiếu khách vui vẻ của họ cũng như các sinh viên của tôi, những người đã đưa ra những lý do của riêng mình cho việc vì sao Napoleon tấn công Nga; Giáo sư Rafe Blaufarb, Giám đốc Học viện về Napoleon và Cách mạng Pháp, vì đã làm cho thời gian lưu lại bang Florida của tôi thật thoải mái; Eric Robinson tại thư viện Hiệp hội Lịch sử New York; Katie McCormick tại thư viện Robert Manning Strozier thuộc Các Bộ sưu tập Đặc biệt của Đại học bang Florida; Elisabeth Fairman tại Trung tâm Nghệ thuật Anh ở Yale; Tiến sĩ Robert Pickering, phụ trách bảo tàng Gilcrease tại Tulsa, Oklahoma, và Tiến sĩ William J. Lademan, Giám đốc phòng Tập trận tại phòng Thí nghiệm Tác chiến của Thủy quân lục chiến.

Thụy Điển: Aviva Cohen-Silber vì đã dẫn tôi thăm khu phòng Bernadotte tại cung điện Hoàng gia ở Stockholm.

Thụy Sĩ: Paola Gianoli Tuena tại lâu đài Le Coppet bên hồ Geneva.

Canada: Bruce McNiven vì đã dẫn tôi đi thăm các phòng trưng bày về Napoleon tại bảo tàng Mỹ thuật Montreal.

Tôi cũng muốn cảm ơn Josh Sutton, Charlie Mitchell, Katie Russell, và đặc biệt là Gilles Vauclair không biết mệt mỏi vì những nghiên cứu lịch sử của họ, cũng như Julie di Filippo vì phần dịch tiếng Đức, Beata Widulinska về phần dịch tiếng Ba Lan, Timothy Chapman về phần dịch tiếng Tây Ban Nha, Eado Hecht về dịch tiếng Hebrew, Tiến sĩ Galina Babkova về dịch tiếng Nga, và Annaliese Ellidge-Weaver, Helena Fosh, Maxine Harfield-Neyrand, Gilles Vauclair và Carole Aupoix về dịch tiếng Pháp. Maxine đã đặc biệt ủng hộ và hữu ích trong quá trình len lỏi qua những ngõ ngách đôi lúc thật bí hiểm của năm viện nghiên cứu tại Paris.

Cuốn sách này được viết trong khi tôi đang quay một bộ phim tài liệu truyền hình nhiều tập của BBC về Napoleon, và tôi muốn cảm ơn David Notman-Watt, Simon Shaps, David Barrie, Anna Dangoor, Patrick Duval, và Tony Burke vì đã làm cho toàn bộ quá trình này thật thú vị và kích thích suy nghĩ.

Vì cái chết của Napoleon đã trở nên bị tranh cãi quá nhiều – một cách không cần thiết theo quan điểm của tôi, nên tôi đã tìm kiếm tư vấn y học của chuyên gia về cái chết của Hoàng đế từ Tiến sĩ Tim Barrie, Giáo sư Ira Jacobsen tại Cornell, Tiến sĩ Albert Knapp, Tiến sĩ Robert Krasner, Tiến sĩ Archana Vats, Tiến sĩ James Le Fanu, Tiến sĩ Pamela Yablon, Tiến sĩ Guy O’Keefe, và Tiến sĩ Michael Crumplin, tôi xin gửi tới họ lời cảm ơn của mình. Tôi cũng muốn cảm ơn Tiến sĩ Frank Reznek vì những chẩn đoán của ông về những vấn đề nha khoa của Napoleon tại St Helena.

Tôi muốn cảm ơn Helena Fosh, Sudhir Hazareesingh, John Lee, Stephen Parker, Jurgen Sacht, và Gilles Vauclair vì đã đọc bản thảo của tôi cũng như vì những đề xuất vô giá của họ để cải thiện nó.

Người đại diện Georgina Capel của tôi tại Capel & Land và những người phụ trách xuất bản Stuart Proffitt và Joy de Menil tại Penguin đã là hình mẫu hoàn hảo về sự hiệu quả, tính chuyên nghiệp và sự cuốn hút như thường lệ, cũng như các biên tập viên Peter James và Charlotte Ridings. Công sức cần mẫn mà Stuart và Joy dành cho cuốn sách đã cải thiện nó lên rất nhiều, và tôi thực sự không thể nào cảm ơn họ cho đủ về điều đó. Tôi cũng rất biết ơn Richard Duguid, Imogen Scott, và Lisa Simmonds của Penguin.

Người vợ tuyệt vời Susan Gilchrist của tôi đã xem xét những lưỡi dao máy chém cùng tôi, đếm xương sọ của các tu sĩ bị tàn sát dưới hầm của nhà thờ nơi Josephine đã bị giam cầm, cùng đi xe với tôi dọc theo Tuyến đường Napoleon, và đi tới Giáo đường Hồi giáo Al-Azhar tại Cairo với tôi, không phải chỉ vì sự thú vị về kiến trúc và văn hóa nội tại của nó, mà vì đây là nơi cuộc bạo động năm 1798 bắt đầu và kết thúc. Tôi không thể viết được cuốn sách này nếu không có tình yêu và sự ủng hộ luôn thường trực của cô; cô là Josephine, Marie Louise, và Marie Walewska kết hợp làm một của tôi.

Cuốn sách này được dành tặng các em Ashley Gurdon, Matthew, và Eliot Roberts của tôi vì đã phải chịu đựng người anh cái gì cũng biết của họ lâu đến thế và theo cách dễ chịu đến thế.

•••

ANDREW ROBERTS Số 2, phố Augereau, Paris www.andrew-roberts.net