← Quay lại trang sách

LỜI NÓI ĐẦU

Vào tháng Mười năm 1944, khi Hà Lan vừa được giải phóng khỏi ách Quốc xã, sử gia Hà Lan vĩ đại Pieter Geyl hoàn tất một trong những cuốn sách độc đáo nhất trong số nhiều chục nghìn cuốn sách về Napoleon đã xuất hiện trong 215 năm vừa qua. Sự độc đáo của nó không nằm ở bản thân cách nhìn nhận Napoleon của Geyl (dù cuốn sách đương nhiên thể hiện rõ những gì tác giả nghĩ về ông) mà ở cách nó thuật lại cách nhìn nhận của những người khác, cũng như ở cách nó lần theo những giai đoạn khác nhau về tiếng tăm của Napoleon từ năm 1815 cho tới thời đại của chính tác giả. Vì Napoleon là một nhân vật đồ sộ đến vậy trên sân khấu chính trị cũng như lịch sử trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, vừa được lãng mạn hóa vừa bị bôi xấu tới mức độ cao, những quan điểm được Geyl chắt lọc ra thường đối lập trực diện với nhau (một điều không đáng ngạc nhiên) và nhìn chung phản ánh lập trường chính trị của tác giả viết ra chúng. Sau cuốn sách Geyl viết, trải nghiệm của châu Âu trong Thế chiến Thứ hai đã tác động tới cách luận giải các sự kiện trên lục địa vào thời kỳ Napoleon – một điều cũng không hề ngạc nhiên, nhưng tôi tin là nhầm lẫn – và đến giờ đôi khi vẫn phủ bóng lên chúng.

Khi viết cuốn sách này, tôi đã cố không để bị ảnh hưởng thái quá bởi những cách luận giải trước đây, mà tìm về những lời nói của chính Napoleon và những người đích thân quen biết ông càng nhiều càng tốt. Tất nhiên, ngay cả ở đó cũng có những khác biệt sâu sắc về ông: gần như tất cả những tường thuật cùng thời đều thiên lệch nặng nề, tùy theo vị trí của tác giả trong thời gian Napoleon còn sống hay sau đó. Với những tác phẩm được viết ngay sau khi ông thoái vị, sự cám dỗ của chỗ làm việc hay một khoản trợ cấp, hay chỉ đơn thuần là quyền được xuất bản dưới triều Bourbon đã hủy hoại sự khách quan trong hàng chục trường hợp. Chẳng hạn, những lá thư của Claire de Rémusat gửi cho chồng mình, một trong những triều thần của Napoleon, từ năm 1804 tới năm 1813 đều rất có thiện cảm với Hoàng đế, song tới năm 1818 hồi ký của bà này lại mô tả ông như một con quái vật “không thể có được sự rộng lượng”, hơn thế lại có “một nụ cười ma quỷ”. Những gì đã xảy ra giữa hai thời kỳ này là việc chồng bà ta muốn kiếm một chân tỉnh trưởng từ triều đình Bourbon. Bà ta đã đốt sạch những ghi chép đương thời của mình vào năm 1813, rồi cố gắng đánh thức dậy cái mà Chateaubriand gọi là “ký ức về ký ức” của bà ta.

Hay lại nữa: rất nhiều những hiểu biết chúng ta có được về Napoleon đã bị tác động bởi tập hồi ký rất đáng ngờ từ người bạn học cũ của ông, Louis-Antoine de Bourrienne. Được chỉ định làm thư ký riêng của Napoleon trong thời gian đàm phán với Áo tại Leoben năm 1797, Bourrienne sau đó không còn được phép dùng cách xưng hô thân mật “tu” với Napoleon, điều ông ta nói là “một hy sinh dễ dàng” cho vinh hạnh được trở thành người đứng đầu cabinet (văn phòng riêng) của ông, nhưng Napoleon đã phải bãi nhiệm Bourrienne hai lần vì tham nhũng và hai người bạn chia tay nhau một cách tồi tệ. Hồi ký của Bourrienne đã được các sử gia cho rằng nhìn chung là khách quan, dù thực ra nó được viết bởi cây bút phóng tác Charles Maxime de Villemarest (bên cạnh những người khác). Năm 1830, một bộ sách hai tập gồm 800 trang được xuất bản bởi những người biết rõ Napoleon, bao gồm anh trai Joseph của ông, đã phản bác hàng chục tuyên bố của Bourrienne. Tôi đã sử dụng Bourrienne một cách cảnh giác, và chỉ để minh họa cho phần tường thuật của tôi vào những thời điểm ông này được biết là đã đích thân có mặt.

Những “nguồn” đương thời cần được xử lý thật thận trọng như thế hiện diện khắp nơi trong những gì viết về Napoleon. Bá tước de Montholon, người đã ở cùng Napoleon trên đảo St Helena, đã viết cái được cho là “tự thuật” về thời gian của ông này trên đảo hơn 20 năm sau đó mà không hề có các ghi chép từ đương thời, và hồi ký của ông này được chấp bút bởi tiểu thuyết gia Alexandre Dumas, người cũng đã chấp bút cho hồi ký của Taima, diễn viên ưa thích của Napoleon. Laure d’Abrantès bị Napoleon trục xuất khỏi Paris năm 1813, và khi hồi ký của bà xuất hiện vào những năm 1830, bà đã là một con nghiện thuốc phiện song dẫu vậy vẫn tuyên bố còn nhớ như in những cuộc trò chuyện dài, riêng tư với Hoàng đế. Một số trong 18 tập hồi ký của bà được Balzac chấp bút và được viết để có tiền trả cho các chủ nợ. Hồi ký của Fouché, trùm cảnh sát của Napoleon, thực ra do cây viết thuê Alphonse de Beauchamp viết ra; hồi ký của Cô George, một trong những nhân tình Napoleon ưa thích, cũng do một nhà văn ẩn danh chấp bút, song bà thấy chúng nhạt nhẽo tới mức đã gia vị phong tình thêm cho chúng bằng những câu chuyện Napoleon nhét từng nắm tiền vào trong áo ngực của bà.

Vào thời kỳ trước khi có luật bản quyền, người ta thậm chí có thể xuất bản những hồi ký được coi là do những người trong cuộc sống cùng thời viết ra như Joseph Bonaparte, Thống chế Marmont và Bộ trưởng Ngoại giao của Napoleon là Armand de Caulaincourt, mà họ không thể viện tới bất cứ sự can thiệp nào của luật pháp. Một kẻ giả mạo có tên Charlotte de Sor xuất bản thứ bà ta tuyên bố là hồi ký của Caulaincourt vào năm 1837 dựa trên việc đã gặp ông này một thời gian ngắn vào năm 1826 (hồi ký thật của ông mãi tới năm 1934 mới được xuất bản). Cho dù những phần về thời kỳ Napoleon trong hồi ký của Talleyrand do ông này viết vào những năm 1820, nhưng chúng đã bị viết lại rất nhiều vào những năm 1860 bởi Adolphe de Bacourt, một người chống Napoleon sâu sắc. Hồi ký của Vương hầu Metternich cũng do một cây bút ẩn danh viết, bên cạnh việc cực kỳ vụ lợi; hồi ký của Paul Barras, người từng có thời là nhân tình của Josephine, là một tượng đài của ác ý, tự than và sự trả thù nung nấu chống lại Napoleon. Người bị Napoleon lật đổ trong chính biến Brumaire, Louis Gohier, hứa hẹn trong lời nói đầu cuốn hồi ký của mình rằng ông sẽ là “một người viết không thiên vị” đem tới “công bằng trọn vẹn cho Napoleon”, nhưng trên thực tế hồi ký này chẳng hơn gì hai tập sách đầy những thóa mạ cay cú. Cả vị Bộ trưởng Lazare Carnot lẫn Thống chế Grouchy đều không viết hồi ký của chính mình, mà chúng được tập hợp từ những tài liệu họ để lại, một số cùng thời diễn ra các biến cố, một số thì không. Cái được gọi là hồi ký của nhà ngoại giao André-François Miot de Melito được con rể ông viết hơn nửa thế kỷ sau những biến cố nó mô tả.

Dẫu vậy, vì có quá nhiều người muốn ghi lại ấn tượng của họ về con người phi thường này, nên cũng có đầy rẫy những hồi ký từ những người gần gũi với Napoleon đã duy trì những ghi chép vào cùng thời và đã không gièm pha ông để có thể tìm được một công việc dưới chính thể mới hay phóng đại sự thân cận với ông nhằm kiếm tiền. Chẳng hạn, sự đáng tin cậy của bản tường thuật từ Hầu tước de Caulaincourt về giai đoạn 1812-1814, nhật ký của Henri Bertrand về những biến cố tại St Helena, và hồi ký của Cambacérès càng được củng cố bởi thực tế chúng không được viết ra để xuất bản tức thì, mà chỉ xuất hiện lần lượt vào những năm 1930, 1950, và 1970. Hồi ký của Nam tước Louis de Bausset-Roquefort vốn ít được biết đến, người gần gũi với Napoleon hơn Bourrienne nhờ cương vị Tổng quản cung điện của ông, được công bố một cách can đảm trong thời kỳ Bourbon, và những bức tranh cân đối tương tự về Napoleon cũng đã được để lại từ hai thư ký riêng của ông sau Bourrienne, Claude-François de Méneval và Agathon Fain. Tất nhiên, tất cả các tư liệu này cần được đối chiếu với những gì chúng ta biết được từ các nguồn khác, và đối chiếu với nhau, nhưng sau khi việc này được thực hiện, chúng có xu hướng thể hiện một bức chân dung mạch lạc và đáng tin cậy về Hoàng đế hơn so với “Truyền thuyết Đen” được vẽ nên bởi các kẻ thù của ông và những cây bút viết thuê cho những người này không lâu sau khi ông mất.

Trong quá trình lần tìm một con đường qua mê cung này, cuốn tiểu sử Napoleon viết năm 2014 có một lợi thế lớn so với những cuốn tiểu sử của tất cả các thế hệ trước đây: kể từ năm 2004, Quỹ Napoleon tại Paris đã biên tập và xuất bản thật tuyệt hảo 33.000 lá thư hiện còn lưu được của Napoleon, có tới một phần ba trong số này trước đây chưa từng được công bố hay đã bị cắt xén hoặc lược bỏ theo cách này hay cách khác trong những ấn bản trước xuất hiện vào những năm 1850 và 1860. Ấn bản mới đồ sộ này cho phép một sự đánh giá lại thực sự về Napoleon, và nó chính là nền tảng cho cuốn sách của tôi.

200 năm sau thất bại của ông trong trận Waterloo, giờ đây mọi khía cạnh trong cuộc đời của Napoleon đã được tập hợp thành tư liệu, khai thác và xem xét tới tận từng chi tiết đáng kinh ngạc nhất. Chẳng hạn, vào Thứ năm 19 tháng 7 năm 1804, ông đã dừng lại uống một cốc cà phê sữa ở ngôi nhà của một thợ rèn gần Buigny-St-Maclou tại Picardie và phân phát một ít tiền vàng cho những cư dân hân hoan đầy kinh ngạc nơi đây. Một bài luận dài tới 15 trang đã được viết về chỉ nguyên biến cố này. Thế nhưng sự xem xét cực kỳ kỹ lưỡng và vô vàn chi tiết thực tế về ông đã không dẫn tới một sự đồng thuận chung về tính cách, các chính sách, động cơ hay thậm chí cả những thành quả của ông. Cuốn sách của tôi rõ ràng nằm trong một truyền thống lâu dài của việc bình luận về Napoleon và được mở đầu, như tôi thuật lại trong Chương 1, trước khi ông 30 tuổi, khi cuốn tiểu sử đầu tiên của ông được xuất bản. Vào năm 1817, sử gia Thụy Sĩ Frédéric Lullin de Châteauvieux đã viết rằng “Với sự mạnh mẽ của cơn cuồng phong, ông đã quét băng đi những cản trở thối nát ngăn bước sự tiến bộ và đạt được nhiều thành tựu cho loài người hơn cả 800 năm cai trị của triều Habsburg hay 600 năm của triều Bourbon”. Vào năm 1818, phu nhân de Staël, trong những lời được công bố sau khi bà qua đời, đã gọi ông là một “Condottiere(*) thô lỗ, không tổ quốc, không nhân cách, một bạo chúa phương Đông, một Attila mới, một chiến binh chỉ biết cách mua chuộc và hủy diệt”. Johann Wolfgang von Goethe, nhân vật vĩ đại nhất của văn học Đức, người từng gặp Napoleon năm 1808, mô tả ông “luôn ở trong trạng thái khai sáng thường trực”. Ông là một kẻ hủy diệt hay một người kiến tạo? Một người giải phóng hay một bạo chúa? Một chính khách hay một kẻ phiêu lưu? “Cuộc tranh luận sẽ còn tiếp tục”, Geyl đã viết trong câu cuối cùng của cuốn sách của ông. Ở cuối cuốn sách của mình, tôi hy vọng độc giả sẽ không còn nghi ngờ vì sao tôi đã gọi nó là Napoleon Đại đế .