← Quay lại trang sách

Chương 4

Đây là nhà của ông Bảo trưởng [1] . Bảo trưởng mới chết ba năm, ánh mắt vẫn sống động sắc sảo. Mù này, mày đúng là mù thật đấy, ông lão nghĩ, mày làm sao lại có thể đái ở cửa nhà Bảo trưởng vậy? Ông lão dựa rìu vào khung cửa, sau khi cúi người vái ba vái, lại quỳ xuống dập đầu trước Bảo trưởng ba cái, nói, Bảo trưởng à, trong mấy trăm dặm xung quanh dãy núi Bá Lâu, gặp phải hạn hán nghìn năm không gặp, già trẻ trai gái đều chạy nạn rồi, cả thôn, cả thế giới chỉ còn lại tôi và con chó mù này thôi. Chúng tôi ở lại để giữ thôn làng. Chúng tôi đã ba ngày nay chưa được ăn một bữa nào ra hồn rồi, hôm nay đến nhà ông vay chút lương thực tích trữ, năm sau trả lại không thiếu một cân một lạng. Lại nói, Bảo trưởng à, ông lo việc của mình đi nhé, tôi biết trong năm hạn này, lương thực của mỗi nhà đều giấu ở đâu. Nói xong, ông lão đứng dậy, phủi phủi bụi trên gối, xách túi lương thực vào phòng phía đông, nhìn lướt qua cái vại, cái vò. Khỏi phải nói, tất cả vò vại đều trống không. Nhưng ông lão không hề biếng trễ, dường như ông biết lương thực các nhà sẽ không để trong vại dễ nhìn thấy. Ông biết chỗ nên tìm là ở dưới gầm giường. Mượn ánh sáng chiếu qua cửa sổ, ông quan sát tỉ mỉ dưới gầm giường của phòng phía đông. Thời buổi tháo nạn đều bỏ đi này, chẳng ai để lương thực lại cho kẻ trộm. Nếu là mình thì cũng phải chôn lương thực dưới gầm giường. Nhưng dưới gầm giường của nhà Bảo trưởng chỉ còn lại chậu nước tiểu bằng sứ xanh đã sinh kiềm trắng, quả thực không có một chút dấu vết đất xốp và dấu hiệu đáng nghi nào. Ông lão lại dịch cái vại trống không ra, tìm trong góc tường và dưới gầm bàn, lật tìm trong tủ ngoài tủ, tiếng lạch cạch trong ba gian phòng không dứt bên tai, tìm đi tìm lại một khoảng thời gian khá dài, mạng nhện trên người, trên mặt, bụi phủ khắp trời khắp đất, cũng không tìm thấy một hạt lương thực nào.

Ông lão từ trong phòng bước ra phủi bụi trên tay, nói, Bảo trưởng ơi Bảo trưởng, khi ông còn sống, tôi chưa từng làm gì có lỗi với ông, cho dù tôi sinh sớm hơn ông nửa tháng, nhưng cả đời tôi nhìn thấy ông đều gọi bằng anh, nhà không có lương thực dư thừa thì ông cứ nói, để tôi mất công lục tìm cả nửa ngày trời, cứ như là tôi còn dư sức vậy, cứ như là rời khỏi nhà ông thì không phải vay lương thực nữa.

Tất nhiên, Bảo trưởng không nói gì.

Bảo trưởng không nói gì, ông lão liếc nhìn ông ta một cái, nói thật là, tôi đã phí ba cái vái lạy dập đầu với ông rồi. Sau đó, ông lão vỗ vỗ mặt chó mù nằm ở ngoài cửa. Nói, đi, tao đây không tin là một khi trăng lặn lại không nhìn thấy các vì sao.

Đóng cửa lại cho nhà Bảo trưởng y như cũ, luồn dây khóa vào móc cửa, ông lão vào từng nhà, từng nhà một, liên tục cạy hơn mười ổ khóa, đã vào bảy nhà, vò lương thực vại lương thực, trong tủ ngoài tủ, gầm giường gầm bàn, nhà ai cũng tìm kĩ từng li từng tí, cuối cùng vẫn không tìm thấy một hạt lương thực nào. Khi từ nhà thứ bảy đi ra, ông lão cầm một cái cân thức ăn gia súc, một cái roi đánh ngựa (đây là gia đình có xe lớn, ông lão từng đánh xe cho nhà họ), đến đường làng thì đột nhiên đứng lại, ném cái cân sang bên đường, ném roi đánh ngựa xuống giữa đường, nói, mình cần cái cân này làm gì, nếu tìm được lương thực, mình có thể dùng nó để cân, năm sau còn biết đường trả lại đúng số lượng đã vay cho người ta, nhưng lương thực, mày ở đâu cơ chứ? Nói, mình cần cái roi ngựa làm gì? Tuy roi có thể bảo vệ mình như súng (ông lão từng dùng roi quất chết một con sói), nhưng động vật hoang dã trên núi đều chạy trốn hết rồi, đến một con thỏ cũng không có, cái roi này chẳng phải là đồ bỏ đi sao? Kẽ hở trên cổng của các gia đình đều bị nắng chiếu cho rộng hơn trước rất nhiều, ông lão nheo mắt nhìn lên trời, thấy mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, lại sắp đến giờ ăn trưa rồi, vẫn chưa ngửi thấy một mảy lương thực nào, cảm giác hoang mang trong lòng dâng lên lan tỏa đến vô biên. Ông để cho con chó mù ngồi dưới bóng bức tường ven đường làng, nói, mày ở đây đợi nhé, hai mắt mù đen, đến nhà ai mày cũng không nhìn thấy lương thực giấu ở chỗ nào, sau đó ông đi về phía một con hẻm khác. Ông lão chỉ chọn cạy khóa những nhà khá giả, nhưng liên tục ba nhà liền, túi đựng lương thực trong tay vẫn lép kẹp trống không. Khi từ con hẻm đó trở về, ánh mặt trời chiếu làm mặt ông trở nên xanh xao, những vết tím trên mặt lấp la lấp lánh, sự đen đủi vừa nồng vừa mạnh chảy tràn và chất đống trên những khe rãnh đầy trên mặt. Tay ông xách một hũ muối. Trong hũ có nửa nắm muối hạt. Ông lão ngậm một hạt muối trong miệng, đi đến chỗ con chó lại nhét một hạt muối vào miệng nó.

Con chó mù nhìn ông như muốn hỏi, lẽ nào không tìm thấy một nắm lương thực sao?

Ông lão không trả lời, đột nhiên cầm chiếc roi đánh ngựa ở dưới đất lên, đứng giữa đường, quất vun vút về phía mặt trời. Chiếc roi da bò mềm mảnh, giống như con rắn lúc thẳng lúc cong trong không trung, ngọn roi nổ ra từng tiếng sét trắng xanh, quất toàn bộ ánh mặt trời và không khí đến mức lả tả như hoa lê rơi xuống, khắp mặt đất đều là những mảnh nắng vỡ vụn, khắp thôn làng đều là âm thanh giống như tiếng pháo ngày Tết, mãi đến khi ông lão đã mệt, mồ hôi nhỏ tong tong xuống đất mới thu roi lại nhìn về một phương.

Con chó mù đột nhiên đứng trước mặt ông, hốc mắt mịt mờ ngân ngấn ướt.

Ông lão nói, mù ơi, không cần phải sợ, sau này tao có một bát, thì sẽ cho mày nửa bát, tao thà chết đói, chứ không để mày chết đói.

Mắt con chó mù trào ra hai giọt lệ. Giọt nước mắt rơi xuống độp một tiếng, đập trên mặt đất tạo thành hai hố nhỏ giống như hai hạt đậu.

Đi thôi, ông lão xách vại muối, cầm cái roi đánh ngựa và chiếc cân, nói, trở về nương lại đi cuốc hạt giống.

Tuy nhiên, vừa đi được hai bước, chân ông lão liền đóng đinh trên mặt đất. Ông nhìn thấy một đàn chuột xám từ bên ngoài tiến vào thôn, con nào cũng vừa tròn vừa béo giống như hồi được mùa, xám đen trùi trũi dưới bóng bức tường ở cửa thôn, dáo dác nhìn vào trong thôn làng, nhìn ông lão và con chó mù. Trong chốc lát, trong đầu ông lão ầm ầm tiếng một cánh cửa lớn mở toang ra.

Ông lão cười cười.

Đây là lần ông cười thành tiếng đầu tiên kể từ khi người trong làng tháo nạn, tiếng cười cứ khà khà giống rang đậu lửa liu riu, vừa khàn, lại vừa giòn. Ông lão nói, có thể làm trời chết đói, đất chết đói, có thể làm ông lão này chết đói được sao.

Ông lão dắt con chó mù đi về phía lũ chuột đang kinh hãi, nói, mù ơi, mày có biết lương thực đều giấu ở đâu không? Tao biết, lão già này biết.

Đêm hôm đó, ông lão ở trên nương bới ba cái hang chuột, moi lên được một thưng hạt giống. Lúc chập tối, ông đã ngủ một giấc ngắn trên gác lều, đến lúc quá nửa đêm, khi trăng sáng sao thưa, mặt đất một vùng trăng mênh mông, ông lão để cho chó mù canh giữ bên tấm chiếu quây quanh cây ngô đó, một mình ra giữa mảnh ruộng không đào được hạt giống ngồi xuống, nín thở, không động đậy. Cứ lặng lẽ như vậy nửa giờ, ông liền nghe thấy tiếng chuột kêu chít chít, không phải là tiếng trêu đùa vui vẻ, mà là tiếng chạy và đánh nhau tranh giành lương thực, rồi lại ghé sát tai xuống đất, xác định chính xác chỗ chuột kêu, cắm một cái gậy đánh dấu ở đó, trở về vác cuốc, xới đất quanh cái gậy khoảng ba thước, sâu khoảng một thước, quả nhiên có một cái hang chuột. Trong mỗi hang chuột, rõ ràng là có nửa bát hạt giống ngô. Không bỏ hạt nào, vốc cả hạt dính cứt chuột vào bát, ông lão đến một mảnh ruộng không đào được hạt giống thứ hai dùng y cách đó.

Không ngờ vấn đề ăn lại có thể giải quyết như vậy.

Một khoảng thời gian rất dài sau đó, cuộc sống của ông lão rất bận rộn nhưng sung túc. Sáng ngủ dậy, về làng vắt đệm nước lấy từ dưới giếng, trở về ăn cơm xong, nhặt cứt chuột trong lương thực ra, đựng vào trong một cái bát tô, sau khi bát đầy liền chôn cứt chuột bên cạnh cây ngô đó. Sau bữa trưa, ngủ trưa là điều nhất định cần phải làm, ánh nắng trên gác lều tuy sắc nhọn, nhưng không hầm hập bốc hơi như trên mặt đất, có lúc còn có một ít gió man mát thổi qua, ngủ như vậy yên giấc. Tỉnh giấc cũng là lúc mặt trời đỏ ở núi tây. Đứng dậy, trở về làng để vắt nửa thùng nước, màn đêm liền buông xuống như thường lệ. Ăn cơm tối xong, cùng với con chó, ngồi bên cây ngô hóng mát trong sự tĩnh mịch âm u đáng sợ, hỏi con chó và cây ngô những vấn đề mà ông thường suy nghĩ nhất, như vì sao hoa màu mọc từng lá từng lá một, mà rất nhiều lá cây, hoa cỏ lá lại mọc từng đôi, từng đôi? Hỏi đến mức con chó và cây ngô im bặt chẳng nói gì, ông liền rất đắc ý châm một tẩu thuốc, hút từng hơi dài nối tiếp nhau, nói, thôi thì để tao nói cho chúng mày nghe nhé, vì nó là hoa màu, nên phải mọc từng lá từng lá một; vì người ta là cây cối và hoa cỏ, thì người ta phải mọc từng đôi từng đôi lá một. Có những đêm, gió núi hiu hiu thổi, ông lão sẽ nêu ra những vấn đề và nghi hoặc sâu xa hơn với con chó và cây ngô, ông nói, chúng mày biết không, khi Bảo trưởng còn sống, có một người làm nghiên cứu từng đến làng, ông ấy nói trái đất này quay, quay một vòng thì là một ngày, chúng mày nói xem người làm nghiên cứu đó có phải nhàn cư vi bất thiện mà nói phét không? Trái đất quay thì sao chúng ta ngủ trên giường lại không bị ngã xuống đất? Vì sao nước trong vò không bị đổ ra? Nước dưới giếng vì sao không chảy đến đầu làng thành một dòng sông? Con người khi đi vì sao đầu luôn hướng lên trời? Chân vì sao luôn rơi xuống đất mà không phải chổng lên trời? Ông lão nói, theo như mấy lời phét lác mà người đó nói, trái đất đang hút nên chúng ta ngủ mới không rơi xuống đất, nhưng chúng mày nghĩ xem, trái đất đang hút chúng ta, vì sao chúng ta đi đường vẫn có thể nhấc chân lên? Những nghi hoặc và vấn đề sâu sắc mơ hồ như hũ nút này, khi ông lão bàn luận, sắc mặt trở nên cực kì thiêng liêng nghiêm túc, tẩu thuốc đã châm trong tay cũng không để ý hút nữa. Cuối cùng, tất cả nghi vấn đều nước rút đá phô, vấn đề đều bày ra trước mặt con chó và cây ngô, ông lão liền có chút ân hận nằm trên ruộng, quay mặt song song với trời xa, để ánh trăng rửa mặt cho mình, nói, tao đã quá giữ thể diện cho người học hành đó, anh ta ở trong làng ba ngày, tao không đến hỏi tận mặt anh ta. Tao sợ trước mặt tất cả mọi người trong làng, anh ta không trả lời được thì không biết giấu mặt vào đâu. Ông lão nói, anh ta kiếm miếng ăn bằng học vấn, tao nỡ nào đập vỡ bát cơm của người ta.

Cây ngô lớn lên một cách rất thuận lợi, lá to bằng bàn tay, tầng tầng thẳng từ mặt đất vượt ngoài cái chiếu cói. Nó đã cao hơn cái chiếu hai cái đầu, âm thanh của sự sinh trưởng trong đêm trở nên chắc khỏe mà lặng lẽ. Ít ngày sau, cây ngô có thể coi là đã hoàn toàn trưởng thành. Để thuận lợi cho việc ra vào, ông lão liền tháo một mặt của chiếc chiếu cói ra, bảy ngày trước ông lão đã vào đo với cây ngô, cây ngô mới gần cao đến cổ ông, nhưng chỉ hai ngày sau, nó đã cao tới trán ông. Hôm nay, ông lão lại ra đo, ngọn của nó đã vượt quá tóc của ông rồi. Ông lão nghĩ, nửa tháng nữa, chắc nó sẽ nhú ngọn, nửa tháng tiếp nữa chắc sẽ trổ bông rồi. Sau ba tháng, sẽ có cây ngô trổ bắp dưới bầu trời. Ông lão nghĩ, ở trên dãy núi không một bóng người này, ông đã trồng được một cây ngô trổ bắp, tách ra sẽ được một bát hạt, từng hạt từng hạt giống như châu ngọc, sau khi hạn hán qua đi, mưa rơi xuống, người trong thôn lại từ bên ngoài thế giới trở về, có thể lấy bát hạt này làm giống, mùa này tiếp mùa khác, trên dãy núi này lại có thể dào dạt mênh mông một thế giới xanh biếc của ngô, khi mình chết họ sẽ lập một tấm bia ghi công đức đặt trước mộ của mình.

Ông lão tự nói với bản thân, mình thực sự là người có công đức vô lượng, công đức vô lượng rồi. Khi liên tục nói như vậy, ông liền chìm vào trong mộng một cách vô cùng thoải mái. Hoặc là sau khi nói mơ xong, ông vẫn ở trong mộng, nhưng người lại bò từ trên gác lều xuống, mộng du đến bên cây ngô vừa cuốc xong, lại cuốc một lượt rất kĩ càng. Tiếng xới đất trong đêm yên tĩnh, đơn điệu mà lảnh lót, giống như một khúc độc tấu nhạc dân gian, trên dãy núi âm thanh thong dong nhàn nhã truyền đi rất xa. Cuốc đất xong, ông không về ngủ mà lại vác cuốc đến một mảnh ruộng khác nín thở, tìm hạt giống ngô trong hang chuột. Đến ngày hôm sau tỉnh dậy, ông phát hiện ra trong bát vốn trống không giờ đã đầy hạt ngô và cứt chuột, liền đứng sững sờ rất lâu bên cái bát, vừa cười vừa hỏi chính mình, bảo vật này từ đâu tới vậy? Là từ đâu tới vậy?

Trong túi đựng lương thực treo trên cột lều, ngô đã đầy một nửa, ông đã bóp những lo âu trong cuộc sống biến mất không còn chút dấu vết nào. Buổi trưa ba hôm trước đó, ông lão đang ngủ, con chó mù đột nhiên hầm hầm hừ hừ kéo ông từ trên gác lều tỉnh giấc, cắn vào áo lót của ông, đưa ông đến một góc ruộng cách đó hơn mấy chục bước. Ở đó, ông lão liền phát hiện ra một hang chuột, trong hang có một vốc đầy hạt ngô, về cân được bốn lạng rưỡi. Hóa ra con chó mù có thể tìm được hang chuột, nó đâm đầu đâm trán lượn vòng quanh một mảnh ruộng, mũi ngửi dưới đất, chỗ có hang chuột nó liền ngửa mặt lên trời sủa vui vẻ sung sướng.

Túi lương thực đầy lên nhanh chóng, ông lão không cần phải nửa đêm canh ba ẩn nấp ở ruộng nín thở im lặng nữa. Ông chỉ cần dẫn con chó ra ruộng, hang chuột ở trong ruộng liền có thể xuất hiện ở dưới lưỡi cuốc của ông không hề sai sót (nửa số hang chuột không có lương thực). Dù sao đi nữa, lương thực đã dành dụm được rồi. Cái túi lương thực trong mấy ngày đã đầy tới miệng. Tuy nhiên, khi ông lão cao gối vô lo, ông quên mất rằng mình sắp đào hết các hang chuột trên dãy núi này. Ông chẳng biết những con chuột đó không còn đào được những hạt ngô trong hốc trồng hạt giống, ngậm vào hai bên miệng, vận chuyển về hang cất đi nữa. Đám chuột bị tiếng chó sủa và tiếng cuốc của ông lão làm cho thức giấc, chúng như đang thi với ông trong việc tiêu hao lương thực cất giữ. Mãi đến một hôm, mặt trời dường như gần hơn gấp nhiều lần so với trước kia, khi đất trên dãy núi đều biến thành một tấm sắt bị nung đỏ, ông lão không ngủ được, muốn đem lương thực ra cân, lấy cái cân, ở chỗ râm cân được một lạng, nhưng dưới ánh nắng mặt trời cân lại được một lạng hai.

Ông lão có chút hoài nghi kinh hãi, mang cân lên dốc núi nơi mà mặt trời gay gắt hơn, lại cân được một lạng hai lăm. Ông lão vô cùng kinh ngạc. Hóa ra khi ánh mặt trời khốc liệt, soi chiếu lên bàn cân lại có thể tạo ra trọng lượng. Thế là ông chạy lên chỗ cao nhất trên sườn núi xa hơn, trên đỉnh núi đó lại cân được một lạng ba mốt, bỏ đi một lạng bàn cân, thì ánh mặt trời nặng ba hoa mốt. Ông lão chạy liền một mạch đến bốn sườn núi chỗ xa, sườn núi này cao hơn sườn núi khác, ánh mặt trời trên sườn núi cao nhất nặng năm hoa ba.

Từ đó, ông lão liền không ngừng đi cân ánh mặt trời. Vào buổi sáng khi mặt trời mọc, ánh mặt trời xung quanh gác lều là hai hoa, đến buổi trưa tăng lên hơn bốn hoa, khi mặt trời lặn lại trở về hai hoa.

Ông lão còn cân xem bát cơm nặng bao nhiêu, thùng nước nặng bao nhiêu. Có một lần, khi ông cân tai của con chó mù, con chó cựa một cái, cán cân liền đánh vào mặt ông, ông liền đánh mạnh vào đầu con chó một cái.

Khi ông lão lại một lần nữa nhớ đến việc cân từng bát, từng bát lương thực trong cái túi đó, thì cũng đã là sau bốn ngày đi cân ánh mặt trời, đã ăn hết mấy phần cái túi lương thực đó rồi, tính tổng của từng bát từng bát một, ông lão hơi thừ người ra một chút. Lương thực còn lại nhiều nhất cũng chỉ đủ ông và chó mù ăn nửa tháng.

Lúc này ông mới nhớ ra mình và con chó mù đã rất nhiều ngày không ra ruộng đi tìm hang chuột.

Không ngờ, mọi thứ đã muộn. Trong mấy ngày, đám chuột dường như đã gọi nhau ăn hết lương thực tích trữ trong hang. Suốt cả một chiều, ông dẫn con chó mù tìm bảy mảnh ruộng, khoét ba mươi mốt cái hang chuột, người mệt đến mức gân cốt như muốn đứt lìa, mới đào được tám lạng ngô. Khi mặt trời lặn, ánh tà dương đỏ máu chiếu từ núi tây, rơi trên sườn núi như than lửa, lá ngô cuộn trong cả ngày đã bắt đầu mở ra thở một hơi dài. Ông lão bưng nửa bát hạt ngô có lẫn cả phân chuột, ý thức được rằng chuột trong dãy núi này đã bắt đầu tranh đoạt lương thực với ông và chó mù rồi.

Ông lão nghĩ, chúng đã chuyển hết lương thực đi chỗ nào rồi đây?

Ông lão nghĩ, dù có thông minh đến đâu, mi có thể thông minh hơn ông lão này sao?

Ban đêm, ông lão và con chó đến một thửa ruộng xa hơn để nghe trộm chuột kêu, cả đêm đã đi tận ba mảnh ruộng, trong tai vẫn trống rỗng, không nghe thấy một chút tiếng chuột nào. Khi phương đông hừng sáng, ông lão và con chó trở về, ông hỏi chó là bọn chuột đều chuyển nhà đi đâu rồi? Chuyển đến đâu rồi cơ chứ? Chúng chuyển đến đâu, chỗ đó nhất định có lương thực, ta buộc phải tìm thấy chúng đấy. Lúc đó, ánh mặt trời trên con mắt khô của con chó chiếu đến mức cứng đanh mà tuyệt tình. Con chó quay đầu sang một bên, cõng ánh mặt trời đi. Nó không nghe thấy chuỗi câu hỏi của ông lão.

Thế là ông lão nói to hơn, mù à, lũ chuột liệu có nấp ở nơi nào đó đối đầu với chúng ta không?

Tiếng bước chân của con chó dừng lại rồi, nó ngoảnh đầu bắt lấy tiếng nói của ông lão đang truyền đến.

Nhưng ông lão không muốn nói gì thêm nữa, ông trở về dưới gác lều, sau khi kiểm tra thân cây ngô to bằng cổ tay trẻ em, phải đến thôn làng kéo đệm nước dưới giếng. Gánh hai cái thùng nước, gọi con chó đi cùng, con chó lại nằm ở dưới cột lều không động đậy. Ông lão nói, đi thôi, vào trong làng xem xem chuột ở trong nhà ai, hễ ở nhà ai thì chúng ta đến nhà đó tìm lương thực. Nghe xong những lời này, con chó mới đi về thôn cùng ông. Trong thôn, ngoài việc kéo lên hai con chuột nhỏ khát nước bị chết đuối từ dưới giếng, ở ngõ hẻm hai gia đình mà họ đã cậy khóa cửa, đến cái bóng của một con chuột cũng không có. Khi ông lão gánh chưa đến nửa thùng nước trở lại nương Tám Dặm Rưỡi, sự tình đã trời long đất lở rồi. Khi họ còn cách nương hơn một dặm, con chó đột nhiên hoang mang bất an, thỉnh thoảng phát ra tiếng kêu có chút sợ hãi, từng hồi từng tiếng, mang theo sắc máu bầm và mùi tanh tao. Ông lão bước nhanh hơn. Trèo lên một sườn núi, khi ruộng nương xuất hiện trước mặt, con chó mù đột nhiên không sủa nữa. Nó lao như một mũi tên về phía ruộng gác lều như bị điên, có mấy lần, chân trước của nó chạm vào vách đá suýt rơi xuống vực. Theo tiếng chân lộp bộp lộp bộp của nó, ánh mặt trời trong chỗ ruộng cứng đanh bị nó giẫm nứt ra, phát ra tiếng nổ cháy rừng rực giống như tiếng bình thủy tinh bị nung vỡ. Theo thân mình và bước chân nhảy lên hạ xuống của nó, tiếng sủa gay gắt cuồng liệt cũng đầm đìa máu rơi vãi trên ruộng.

Lúc này, ông lão đưa ánh mắt nhìn theo thân hình nhấp nhô lên xuống của con chó mù, đột nhiên kinh hãi bất động.