← Quay lại trang sách

Chương 7

Mặt trời đã hoàn toàn giằng thoát khỏi dãy núi rồi, trong ánh nắng, từng sợi lông chuột đen bạc, xám bạc bay lượn, lơ thơ như tơ liễu mùa xuân tháng Ba. Ông lão thở phào một hơi trên sườn núi, từ đó đi xuống, tiếng bước chân trong buổi sáng thanh tĩnh, hiện rõ sự già nua không chút sức lực, đến bên cây ngô được quây trong chiếu cói, ông nhìn thấy con chó đang hướng đôi mắt mù về phía sườn núi. Mồ hôi lạnh từng giọt từng giọt treo trên đỉnh tai nó.

Ông hỏi, sợ không?

Con chó chẳng nói gì, đi đến nằm thượt bên chân ông lão.

Ông lão lại hỏi, là sắp có đại tai đại nạn rồi sao?

Con chó không nói gì, nhìn nhìn cây ngô thân xanh lá xanh.

Ông lão sững ra một chút. Ông nhìn thấy trên lá ngô rất nhiều nốt trắng, giống như hạt vừng. Đây là bệnh đốm lá mà khi hạn hán thiếu nước thì cây ngô mới có thể mắc phải. Nhưng cho dù trời đại hạn, cây ngô này chưa bao giờ bị thiếu nước mà. Ông lão đã lấy đất đắp một vòng quanh cây ngô, dường như mỗi ngày đều tưới nước vào trong vòng quây đó. Ông ngồi bóc đất nâu trong cái vòng quây đó, sâu dưới đất khô một ngón tay, ướt đến mức có thể vắt ra nước. Ông lão nắm một nắm đất ẩm đứng lên, hiểu rằng bệnh đốm lá đó không phải do khô hạn, mà là vì mùi khai của chuột phủ khắp núi đồi.

Trong tất cả các loại phân, phân chuột là loại mạnh nhất, nóng nhất. Ông lão nghĩ, khỏi phải nói mùi khai của chuột này cũng mạnh và nóng như vậy. Mùi khai của chuột cả đêm vây lấy cây ngô, nó sao có thể không bị nóng đến mức đốm lá? Áp sát tai lên lá cây, ông lão nghe thấy tiếng mọc lên rin rít cực nhanh của những đốm lá đó. Quay người hít hít, lại ngửi thấy mùi chuột khai vừa khét vừa đen sầm sập từ bốn phía xung quanh đổ tới, giống như dòng sông chảy về phía cây ngô.

Có nghĩa là, cây ngô này lập tức sẽ bị mùi chuột đốt cháy rồi.

Có nghĩa là, nếu muốn cây ngô này sống tiếp thì phải lập tức có mưa, đem mùi chuột khai như khí độc khắp núi này ép vào sơn dã, rửa trôi khí độc trên cây ngô.

Con chó mù cảm nhận được nỗi hoang mang của ông lão, nó cứ nhìn chằm chằm vào ông. Ông lão nói, mù ơi, mày gác nhé, tao phải về làng gánh nước. Ông không đợi nó đáp, gấp rút quảy thùng nước về làng.

Trong làng vẫn yên tĩnh đến mức không có một chút tiếng động nào. Cứt chuột trên đường làng thành một lớp dày di dày dít, mặt trời không thay đổi mảy may chiếu nứt rộng khe cổng của các gia đình. Ông lão không quan tâm đến những việc khác nữa, ông đi thẳng lên bên đài giếng, lúc vắt đệm nước buộc dưới giếng, trọng lượng trên tay đột nhiên nhẹ đến mức dường như không có gì, tiếng giọt nước tí tách từ đệm rơi xuống giếng vào giờ này những ngày trước đã biến mất. Ông lão nhìn xuống giếng, vừa nhìn, mặt ông liền biến thành sắc trắng xanh, hai tay cứng đờ trên cái thanh ròng rọc.

Rất lâu sau, ông lão mới cuộn hết dây thừng từ giếng vào ròng rọc. Đệm nước không còn nữa. Đệm nước chỉ còn lại một lớp vải trăm nghìn lỗ rách vết lở, trên vải có một tầng chuột chết ngấm nước trương phềnh lên, khi đến miệng giếng lại lộp bộp lộp bộp rơi xuống mười mấy con.

Đệm nước bị lũ chuột khát nước nhảy xuống giếng ăn hết rồi.

Ông lão bắt đầu đi về phía nhà nào đó tìm đệm hoặc chăn.

Trước tiên ông lão đến nhà mà ông đã tới tìm lương thực, đến mỗi nhà, ông chỉ dừng lại một chút trước cổng. Làng bị chuột cướp sạch rồi. Hòm, bàn, tủ, chân giường… của các nhà, phàm là những thứ đã từng đựng lương thực quần áo, đều bị cắn lỗ chỗ to nhỏ giống như nhụy hoa hướng dương nhân đã bị ăn hết hạt. Mùi gỗ màu trắng vàng cùng mùi khai của chuột hòa lẫn vào nhau, vừa nồng nặc trong nhà, vừa lan tràn khắp sân.

Ông lão đi hơn mười hộ gia đình mà vẫn về tay không.

Từ trong hẻm thôn đi ra, tay ông lão xách ba thanh trúc dài, ông buộc nối ba thanh trúc lại, lại đến hố xí ở sân sau tìm một cái bát gỗ nhỏ dùng để múc phân (tất cả quạt gió, bàn bếp, bát gỗ, bát sứ trong nhà bếp của nhà người khác đều bị chuột cắn vỡ nát), ông buộc cái bát gỗ vào đầu cành trúc, ba lần thò xuống giếng múc nước, kéo lên đều là chuột chết. Mượn ánh mặt trời trên đỉnh đầu, ông lão nhìn xuống giếng, ông thấy giếng đã cạn nước rồi, một đống chuột giống như nửa hầm khoai lang đã rữa nát chất đống dưới đáy giếng, còn có mấy con chuột sống chạy trên người những con chuột chết đó, trèo lên thành giếng được mấy thước, rồi lại rơi xuống bộp một cái, tiếng kêu bi thương chói tai dâng lên theo thành giếng.

Ông lão gánh thùng không trở về nương Tám Dặm Rưỡi.

Dãy núi trống trải trải ra bốn phía xung quanh mênh mông vô tận, xung quanh ngoài mấy dặm, mấy chục dặm, chỗ dãy núi và trời nối tiếp nhau, đều bốc cháy như ánh lửa rừng rực. Khi ông lão đến bên nương, con chó mù đã chạy lại. Ông lão nói giếng đã cạn rồi, không còn nước nữa, bị lũ chuột chết lấp đầy rồi. Lại hỏi, ở đây có chuột đến không? Con chó hướng về ông lắc đầu một cái. Ông nói, mày và tao đều sắp chết trong tay chuột rồi, lại còn cây ngô nữa, chúng ta không sống nổi mấy ngày nữa.

Con chó ngơ ngẩn đứng trong bóng râm của gác lều nhìn lên trời.

Đặt thùng xuống, ông lão vào chiếu quây nhìn xem thế nào, vết đốm trên mỗi lá ngô đều đã to như móng tay. Ông lão trầm lặng trước cây ngô, dằng dặc hồi lâu không nói, khi trân trân nhìn hai đốm trên chiếc lá thứ mười một cứ thế to ra rồi liền lại với nhau, biến thành một vệt dài dài giống như quả đậu bị phơi khô, ông chớp chớp đôi mắt tối sẫm, gân xanh trên cổ vểnh lên giống như rễ cổ thụ nổi trên mặt đất. Ông rời chiếu quây, lấy chiếc roi ngựa trên gác lều xuống, nhắm vào chính giữa mặt trời, vun vút vun vút, thân hình không ngừng chuyển động, quất mười mấy roi liên tiếp, quất rụng rất nhiều tia sáng và bóng râm loang loáng trên mặt đất từ trong ánh sáng mặt trời, sau đó gân xanh trên cổ xẹp xuống, ông lão treo roi lên gác lều, gánh thùng nước, chẳng nói chẳng rằng, đi lên sườn núi.

Con chó mù nhìn chăm chăm về hướng ông lão đi, trong ánh mắt đen kịt muộn phiền, có rất nhiều dư vị của nước mắt và buồn bã, mãi đến khi tiếng bước chân cô độc buồn tẻ của ông lão nhỏ dần rồi hoàn toàn biến mất, nó mới từ từ quay lại, nằm canh giữ trong ánh mặt trời dưới cây ngô.

Ông lão đi tìm nước.

Ông lão cho rằng hướng lũ chuột trốn đến nhất định có nước uống, không có nước thì làm sao chúng có thể chịu được từ lúc đại hạn đến tận bây giờ cơ chứ! Ông lão nghĩ, sở dĩ chúng di chuyển ồ ạt, chắc chắn là vì không có cái ăn nữa, nếu có cái ăn thì vì sao chúng ăn sạch tất cả những thứ có mùi lương thực, mùi quần áo, đồ gỗ trong làng? Ông lão nghĩ, cuộc di cư lớn tuyệt đối không phải là vì không có nước mà vì không có cái ăn. Ánh mặt trời chiếu thẳng mà sáng đỏ, khi ông lão đi một mình trên dãy núi, ánh sáng đó hiện rõ vẻ thô ngắn và mạnh mẽ, giống như thanh sắt bị nung đỏ, mỗi chùm, mỗi cột đều có thể đếm được bằng mắt. Đôi thùng nước trống không trước vai sau vai ông, phát ra tiếng cót két khô nẻ ai oán, giống như tiếng thở của đất khô cháy. Ông lão nghe âm thanh ảm đạm đó và tiếng lẹp xẹp màu đất cô đơn buồn tẻ dưới chân mình, sự trống trải trong lòng còn lớn hơn rất nhiều trận hạn hán của thế giới này. Ông đi liền qua ba thôn trang, trong giếng làng ở đó, cọng cỏ và rơm lúa mạch chất đầy, đến ngay cả mùi ẩm ướt của nấm mục cũng không có. Ông quyết định không vào thôn trang tìm nước nữa, nếu trong thôn có nước thì sao thôn dân lại phải tháo chạy cơ chứ? Ông thử đi từng con rạch sâu, từng con rạch sâu một tìm kiếm, men theo đáy rạch tìm xem trên mặt đất có chút bùn ẩm và ướt nào không. Khi ông vượt qua mấy con đường trên sườn núi, khi ông nhìn thấy một cây cỏ tranh sau lưng của một tảng đá trong một con rạch rất hẹp, ông nói, mẹ kiếp, trời làm sao có thể tuyệt đường của con người được? Sau đó, ông ngồi trên tảng đá đó nghỉ một lúc, nhổ từng cái rễ từng đoạn cỏ tranh lên, nhai lấy nước ngọt trong rễ cỏ tranh, rồi lại nuốt bã vào bụng, nói, trong con rạch này nếu không có nước thì mình sẽ đâm đầu chết ở tảng đá này.

Ông bắt đầu từng bước từng bước đi vào trong con rạch, tiếng thở hổn hển rơi xuống theo từng bước chân, giống như vỏ thông mùa đông rơi trước mặt. Ông không biết đã đi được bao xa, lúc nãy khi nhai rễ cỏ tranh, mặt trời vẫn còn nửa đỏ nửa trắng áp sát sườn núi phía tây, nhưng bây giờ khi phát hiện ra đất khô nẻ dưới chân đã bị thay thế bởi cát trắng từng hạt từng hạt đều đặn, mặt trời lại thành một mảng đỏ máu ở bên kia núi rồi.