← Quay lại trang sách

Chương IX

Suốt chặng đường từ Sài Gòn lên Lộc Ninh, Lê-ông La-phác-sơ tự tay lái chiếc xe Pho cóc gặm của mình, để cho gã lái xe kiêm hộ vệ ngồi dựa ngả mé sau như một ông lớn. Gã này người da đen Trung Phi, mặt không rạch, thân cao vừa thôi nhưng rất vạm vỡ, bắp thịt nổi vồng từng tảng dưới lớp áo dệt kim màu lá sẫm. Nhác trông dễ tưởng gã đang lim dim ngủ gật, nhìn kỹ mới biết gã sẵn sàng nổ súng: cái ba-lô hình cóc to tướng kê sau lưng vẫn mắc hai quai vào vai, thắt lưng đầy băng đạn và bao đạn rời thít ngang bụng, cây tiểu liên Tuyn kẹp giữa hai đùi đã rút báng ra và bật dựng băng, bàn tay phải luôn đặt hờ bên cái cần mở cửa xc.

Đại úy Pi-e La-phác-sơ ngồi ghế trước cạnh cha, lơ đãng nhìn những chuỗi nhà tranh chen lẫn tre cau lướt vun vút như quất roi qua lớp kính pléc-xi rất dày, từng lúc đột ngột nhường chỗ cho đồng ruộng kẻ ô bàn cờ xoay tròn chầm chậm quay một trục quay nào đó ở chân trời. Những người nhà quê quảy gánh trên vai dạt cả xuống vệ cỏ xa mặt đường nhựa, còn trẻ chăn trâu đều tụt xuống đất, túm dây mũi trâu kéo chạy trên bờ ruộng. Bọn lính say thường thách nhau bắn bia vào những bóng nhỏ hằn cao trên lưng trâu bò, trong khi xe chạy nhanh. Cũng chẳng cần say: mấy chiếc xe bọc thép mở đường trước xe kia thỉnh thoảng quét trọng liên hay đại liên vào những bụi bờ gò đống đáng ngờ, hoặc những ai có điệu bộ hơi khác thường.

Trong đoàn xe hơn trăm chiếc, với một đại đội thiết giáp và một trung đội công binh đi hộ tống, riêng cha con La-phác-sơ góp vào bốn chiếc chạy quãng giữa. Chiếc thứ nhất là một GMC mười bánh, xe chỉ huy, bên trong bàn ghế xếp, tủ tài liệu, hai giường vải hẹp và nhiều giàn giá dưới vòm mui đu-ra. Chiếc nhì chất đày những thùng gỗ to nhỏ, rơm lót thòi qua các kẽ, cũng là GMC mui kín, kéo theo một rơ-moóc phủ bạt. Chiếc ba là một xe ca loại trung mười hai chỗ đã tháo bớt ghế để chở nhiều va-li, hòm bọc kẽm, có bốn người châu Á ngồi thiu thiu. Tới chiếc Pho du lịch khó coi của cha con lão. Nếu bị Việt Minh phục kích lén, chỉ có nó không bị đạn nhọn xuyên thủng, và nó đủ thấp nhỏ để luồn lách xuống đuôi hay lên đầu công-voa, chạy trốn với tốc độ cao nhất trong khi các xe to chịu phơi sườn cho địch bắn quét. Hai cha con đều mặc thường phục, đeo túi dết đựng súng ngắn và tài liệu, tiền bạc. Những thứ quan trọng hạng nhì nhồi vào ba-lô để bên người, còn các va-li xếp trong thùng đuôi xe chỉ chứa áo quần và đồ dùng riêng.

Mới qua khỏi thị xã Thủ Dầu Một chừng bốn cây số, phía đầu đoàn xe bỗng rộ lên tiếng súng máy lớn nhỏ, hàng chục khẩu cùng bắn. Tiếp súng cối 60 đập thùng nhịp đôi. Chiếc xe ca chạy trước chớp đèn hiệu báo dừng. Lão Lê-ông cẩn thận hãm xe đúng cự ly 50 thước đã quy định, bật ngay cửa, trong khi gã da đen Rơ-nê vọt xuống đường và kéo cơ bẩm tiểu liên, mắt gườm gườm, sẵn sàng nhào sấp xả đạn. Pi-e cáu kỉnh:

- Mẹ kiếp, cái phô-ni lại lắp trong xe chỉ huy. Hay ta tháo đem xuống đây, ba?

- Khó lắm, không có chỗ đựng ăng-ten. Hết quãng nguy hiểm ta đổi xe thôi, cố chịu tí. Con đang đóng vai dân sự kia mà!

Pi-e đóng vai mà không thể nhập vai Pháp kiều buôn thuốc. Đi đường trường dưới sự che chở của bọn cấp dưới láo xược, chiếc sơ-mi thể thao trắng cọ vào da hắn không hiểu sao lại gây ngứa lưng và vai, còn đôi giày bát-két mềm cứ bắt bàn chân ngọ nguậy. Hắn quay nhìn ra sau: lá cờ Pháp trên đỉnh tháp canh ở ngoại vi thị xã vẫn trông thấy rõ. Du kích Việt Minh chặn đánh xe ngay trong tầm súng và tầm ống dòm của quân gác đường!

Một tiếng nổ trầm sâu bùng lên mé trước, súng lại rào rào bắn tiếp. Trò gì vậy? Sao đến bây giờ mìn địch mới nổ? Lũ lính hộ tống bắng nhắng kia đang làm gì? Và cứ bò lê dọc đường thề này, bao giờ mới đến Viêng-chăn?

Mới tám giờ rưỡi sáng mà nắng đã chói chang. Không khí nóng hừng hực, cái nóng đẫm hơi nước của tháng đầu mùa mưa xứ Nam Kỳ. Lão Lê-ông vung tay thành vòng tròn ra hiệu cho gã Rơ-nê trông chừng chung quanh, gọi Pi-e vào ngồi trong xe, bật cho quạt điện quét gió, lại gài số ra-lăng-ti cho máy nổ rì rì phòng ắc-quy cạn điện. Pi-e phải tập vài tiếng mới quen lái chiếc xe đua trá hình mặc áo giáp này. Hôm kia hắn chơi một trò quái ác: cởi áo sĩ quan, vốc bùn bôi kín biển số, phóng xe như điên trên đường Ô Cấp - Sài Gòn, lách chen qua lại hình chữ chi giữa hai dòng xe các loại đang xuôi ngược, cười ha hả khi thấy người ta đâm nhau, quệt nhau, nhào xuống ruộng hay húc cột đèn để tránh hắn, chắc hẳn ném theo vô vàn tiếng thét chửi. Các kiểu xe quân cảnh đuổi bắt hắn chỉ là rùa theo thỏ.

Đoàn công-voa lại nổ máy chạy tiếp. Từng chiếc bò chậm qua chỗ bị du kích đào đường, đắp hai ụ hai đầu chặn xe, gài mìn chống ra-đa trong ụ, có lẽ là thuốc nổ nhồi trong hũ đất nung với đá củ đậu chất đầy chung quanh: còn rất nhiều đá rơi vãi trên mặt đường. Phải đến chỗ nghỉ mới biết được bao nhiêu lính “xơi quà Việt Minh”. Công binh đã kê nhiều thanh sắt và gỗ cho xe qua tạm, trong khi chờ bọn đồn trú ăn hại đái nát đến sửa đường.

Xe chạy nhanh dần, thỉnh thoảng nhảy chồm chồm trên những hố phá hoại mới lấp vội bằng đất không lót đá. Lão Lê-ông nhăn mặt, chửi thề và làu bàu:

- Mấy thằng Tàu cứ tưởng đường sá Đông Dương cũng trơn tru như phố Hồng-công của chúng, cãi cù nhầy. Ba ép mãi, chúng mới chịu lót rơm dày một tấc... ái chà. xóc... không thì bao nhiêu dụng cụ thủy tinh nát vụn hết... mẹ kiếp, đường với sá...

Pi-e đang thèm ngủ. Đêm qua hắn cùng thằng bạn đại úy thiết giáp - người vừa che chở vừa ăn trộm đồn điền Ri-sô - chơi một trận động trời ở nhà thổ dành cho sĩ quan. Nhưng xe quăng quật thế này, du kích lại đe dọa, ngủ gật dễ vỡ quả gáo lắm. Hắn gợi chuyện cho tỉnh táo:

- Ba nói gì về Thanh Bang, hôm nọ con chưa hiểu mấy. Với lại ba quen thằng trùm trộm cướp Ghê-ri-ni ở Mác-xây, nó nắm trong tay nhiều xưởng chế ma túy ngầm, sao không thuê vài thằng chuyên gia người Pháp cho tiện, lại thuê bọn Tàu?

Lão Lê-ông gật gù ưng ý khi thấy Pi-e bắt đầu chú ý đến những chi tiết lắt léo trong công việc đang làm.

- Lũ Ghê-ri-ni được chính quyền chống cộng ở Mác-xây che chở, nhiều lần dùng để chống phá biểu tình, bãi công. Nhưng bọn cộng sản và công nhân theo cộng ở Mác-xây thính mũi kinh khủng, hay bới những vụ bê bối trên mặt báo, phiền lắm. Thuê bọn Tàu rất tiện... Thanh Bang cũng là phe trộm cướp, buôn lậu, kiêm tay sai chống cộng của Tưởng Giới Thạch, nhưng quy mô lớn gấp trăm lần lũ người Coóc-xơ của Ghê-ri-ni, lại hoạt động tự do thả cửa dưới chế độ độc tài, dễ hơn nhiều chứ. Thằng trùm Thanh Bang được lão Tưởng “con trời” phong đến chức trung tướng, ghê chưa?

- Con cứ yên trí bọn Tàu thích làm việc với Anh, Mỹ, Nhật. Ít dính dáng tới người Pháp ta...

- Bọn Thanh Bang có khác. Ba mươi năm trước chúng đã đặt tổng hành dinh buôn thuốc phiện lậu trong tô giới Pháp ở Thượng Hải, lập xưởng nấu thuốc phiện tự do, tất nhiên là nộp tiền bẫm, hối lộ từ trên xuống dưới. Lấy đất Pháp làm bàn đạp, quan chức Pháp làm người che dù, chúng tỏa ra đè bẹp cánh Hồng Bang cạnh tranh, lần hồi làm chủ thị trường thuốc phiện khổng lồ là Trung Quốc. Từ thuốc hút đến moóc-phin, đến hê-rô-in, đến giúp sức cho Tưởng lùng bắt cộng sản, đến quyền bính vào tay, con thấy rõ chứ? Năm ngoái quân đỏ của Mao tiến như núi tuyết lở, bọn Thanh Bang phải cuốn gói chạy tóe ra Hồng-công, Đài Loan. Bộ máy buôn lậu quốc tế đang còn, tay nghề bào chế cực kỳ giỏi, nhưng bị mất nguồn thuốc phiện sống từ Tứ Xuyên và Vân Nam trút xuống, thiếu phương tiện xuất lậu hê-rô-in sang châu Mỹ, châu Âu. Còn quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương nắm nguồn thuốc phiện ở khu Tam giác vàng, sẵn máy bay ô-tô, được bộ áo giáp của bí mật chiến tranh phủ kín, nhưng chưa có kỹ thuật chế biến giỏi và lũ chân rết đông đảo đi nhét từng lọ con bột trắng vào tay khách qua đường. Hai bên ráp vào nhau, khuýp, tuyệt vời!

Pi-e liếc nhìn miệng cười đắc ý của cha, chợt thấy nghi ngờ. Hay vì nghiện mà ông ấy thổi phồng việc buôn thuốc phiện lên đến tầm cỡ quốc tế chăng?

- Con hỏi thật, ba cho rằng “Kế hoạch X” sẽ thu lãi đáng kể đối với chi phí của Quân viễn chinh? Hay chỉ đủ mua cho mỗi lính một sợi dây giày?

Lão Lê-ông nhăn trán bực dọc. Thì ra thằng con không thèm đọc bản đề án do lão cùng mấy người nữa trong “Phòng hành động” soạn rất công phu, mất ngót một năm đi điều tra tận các vùng núi hiểm trở và đào bới các kho lưu trữ tài liệu. Một bản đề án tối mật đã khiến cho đại tá Ben-lơ, người cầm đầu Phân cục Tình báo chiến lược ở Đông Dương phải sửng sốt và dành hẳn hai ngày bàn tính với nhóm của lão trước khi họp với tướng Xa-lăng, tổng tư lệnh Quân viễn chinh. Sau đó đại tá kể rằng Xa-lăng mừng cuống quýt khi đọc đề án, hứa sẽ phối hợp hết sức mình, còn giục phải làm ngay, làm mạnh, miễn sao đừng lộ bí mật là đủ.

Chính trong không khí hồ hởi đó, Lê-ông đã được tháo khoán năm chục ngàn đô-la Mỹ, và được cấp trên điều con trai ra khỏi vùng chiến sự ác liệt để giúp lão. Nhung Pi-e khiếu nại dằng co mãi, chỉ chịu về Bộ tham mưu làm sĩ quan xây dựng lực lượng biệt kích, không chịu chuyển hẳn sang ngành tình báo mà xưa nay hắn vẫn coi khinh chẳng kém bọn quân báo Phòng nhì. Nể mặt lão, người ta không trị viên đại úy bướng bỉnh mà xếp chỗ theo lời hắn xin. Thôi đành, dù sao Pi-e cũng xa họng súng Việt Minh hơn trước, lão tự an ủi thế.

Chính vì thói cứng đầu của con mà trong chuyến áp tải người và phương tiện này, hai cha con là đại diện của hai tổ chức khác nhau đang chung sức thực hiện Kế hoạch X: Quân viễn chinh và Tình báo chiến lược[1].

Im lặng một lát, rồi Lê-ông lại phải đóng tiếp cái vai ông gia sư nhẫn nại cố nhồi hiểu biết vào đầu đứa học trò lười học và trái chứng trái nết:

- Nếu không tin, ba dính vào làm gì! Ta thử làm vài con tính nhỏ cho dễ hiểu... Vùng Tam giác vàng là khu vực trồng thuốc phiện lớn nhất thế giới và khó kiểm soát nhất thế giới. Nó trải rộng trên năm nước: Trung Hoa, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, xếp theo thứ tự quan trọng. Chi riêng hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam đã hằng năm làm ra từ hai chục ngàn đến hăm lăm ngàn tấn thuốc phiện sống, xuất lậu xuống Đông Nam Á nhiều hơn bán trong nước, phía nam này đường ngắn và sẵn hàng đổi. Bây giờ quân đỏ của Bắc Kinh bắt đầu khóa biên giới, nhưng bọn tàn quân Quốc dân đảng vẫn buôn như điên qua hàng rào còn thưa, chúng đánh nhau rất tồi, mà đứng đầu thế giới về nghề buôn lậu thuốc phiện xuyên rừng núi. Bốn nước còn lại góp phần khiêm tốn hơn: Miến Điện khoảng bảy tám trăm tấn. Thái Lan hơn hai trăm tấn, Lào và Việt Nam chỉ xấp xỉ sáu chục thôi.

- Thế thì chẳng bõ công!

Lê-ông đưa tay vuốt mảng tóc nâu còn lại bên trên vành tai, cười khẽ:

- Đừng vội chê. Mảnh đất Thượng Lào bé nhỏ sẽ là cửa khẩu, là miệng vòi, là họng phễu để vùng Tam giác vàng rót thuốc phiện vào mồm dân nghiện trên toàn thế giới! Con quên rằng trong năm nước vừa kể, chỉ ở Đông Dương mới có đạo quân lớn đủ sức chặn thổ phỉ, dùng máy bay chở hàng đến đổi chác và chở thuốc phiện đi? Những đoàn ngựa thồ lâu nay phải leo núi hàng tháng để đưa thuốc phiện đến đầu mối đường ô-tô chạy xuống Băng-cốc hay Rang-gun, sẽ rẽ cương sang phía các tiền đồn cắm cờ Pháp. Các máy bay trinh sát nhẹ thu góp từng tạ nhựa một đưa đến Viêng-chăn, những chiếc DC.3 chở từng tấn về kho mật trong các sân bay quân sự chung quanh Sài Gòn, từ đó “nàng tiên nâu” sẽ tung cánh bay sang Hồng Công, Mác-xây hay Niu Yoóc!

- Phí tổn sẽ rất lớn, nuốt hết lãi...

- Con chịu khó nhớ vài con số nhé. Bọn chúa đất bản xứ người Mẹo, Thái, Lào, Việt bao thầu thu mua thuốc phiện, bán cho ba mỗi ki-lô thuốc phiện sống giá chừng 25 đô-la Mỹ. Ba chế biến nó thành hê-rô-in loại bốn, loại cao giá nhất, tốn thêm chừng 5 đô-la nữa, vị chi ba chục, được một lạng hê-rô-in. Cái lạng ấy chở không mất tiền sang Mác-xây hay Pa-ri bán gọn cho lũ trùm buôn lậu được 200 đô-la, sang đất Hoa Kỳ vọt lên 1300 đô-la hay hơn nữa, theo giá bán buôn từng lô lớn nửa tạ đến một tạ. Chưa hết đâu, chia nhỏ ra cho đám tay sai bên dưới và dưới nữa, mỗi lớp pha chế thêm các thứ tá dược rẻ tiền vào, đường lắc-tô-da hay một thứ bột hòa tan vớ vẩn nào đấy cùng màu trắng, khi đem bán giúi tay trên vỉa hè từng lọ con thì cái lạng hê-rô-in của ba đã thành hai ha chục lạng, thu vào không dưới 11.000 đô-la. Một đồng vốn, áng chừng 370 đồng lãi, thấy chưa nào?

- Giê-xu Ma-ri-a!

- Chúa Giê-xu hóa phép một con cá với một ổ bánh đủ nuôi hàng trăm người, chúng ta cần noi gương Chúa. Trong bản đề án, ba chỉ đặt mức dè dặt là trong năm nay ta mua vào một trăm tấn nhựa sống, thật ra có thể đạt gấp đôi. Mức sang năm là ba trăm rưởi tấn, chế ngay tại Viêng-chăn thành moóc-phin cho nhẹ cân, thế nhưng mấy thằng Tàu ba dắt theo lần này có thể chế hê-rô-in loại bốn tại chỗ luôn. Ba đã chừa lề khá rộng phòng bất trắc, cũng để kiếm thêm phần ba tí chút phụ trội...

- Ba trăm rưởi tấn, ba thử tính lãi bao nhiêu?

- Bán tại Pháp lãi 60 triệu đô-la Mỹ. Bán buôn tại Hoa Kỳ lãi chừng 440 triệu. Thế thôi, mạng lưới bán lẻ không nằm trong tay ta.

Pi-e hết hẳn buồn ngủ, mở to cả mắt lẫn mồm trước những con số kinh khủng. Thì ra cha hắn đã tìm được câu thần chú “Vừng ơi, mở ra” đi vào kho vàng giấu kín ở vùng núi Bắc Đông Dương! Còn hắn cứ bĩu môi cười khinh tất cả những gì không có chất nổ đùng đoàng, không được dán nhãn “Danh dự quân nhân”!

-... Nghề buôn lậu thường lên voi xuống chó, phải trù liệu hết mọi đàng. Mức lãi ba vừa nói là trung bình, hao hụt vừa phải, giá cả ít biến động. Gặp lúc xuống chó, ví dụ cái chuồng ngựa chứng là Quốc hội Pháp bị áp lực quốc tế nổi lên chống ma túy rầm rộ, phái sang Đông Dương thật nhiều nhân viên công khai và bí mật để phá đám, chúng ta sẽ chở thẳng chất nhựa quý từ các xưởng trong rừng rậm Thượng Lào sang bán tại Hồng công hay Băng-cốc, tạm bằng lòng với số lãi còm ba chục triệu đô-la cho ba trăm rưởi tấn ấy. Ngược lại, nếu Chúa ban phép màu cho giá ma túy hiện đang tăng cứ tăng lên mãi, gấp đôi chẳng hạn, lại cho chúng ta dăng được mạng lưới bán lẻ tại Hoa Kỳ... ái chà chà, bảy hoặc tám tỉ đô-la thu vào không khó! Và nếu chúng ta mua được gấp ba gấp bốn lần mức dự kiến...

- Thì sẽ dùng vàng để lát đường!

- Vàng đáng kể gì so với hê-rô-in! Theo giá lúc này, ở chợ đen Niu Yoóc, một cân hê-rô-in bán ngang 130 cân vàng. Nhớ nhé: một-trăm-ba-mươi lần đắt hơn!

Một tiếng nổ lớn bùng lên phía trước, mấy phát súng lẹt đẹt, rồi các xe hộ tống lại xả đạn rào rào. Lần này đoàn xe chỉ dừng độ mươi phút để đẩy chiếc GMC vỡ toác sang bên, xếp lính chết và bị thương lên xe khác, lại chạy tiếp. Quả mìn chỉ khoét một lỗ bằng cái nia, các xe lách qua được, mãi quá trưa mới đến Lộc Ninh. Phải mất đến bốn tiếng rưỡi để vượt chặng đường non 140 cây số!

Từ trên đầu, một chiếc Gíp chạy chậm xuống. Viên trung sĩ Pháp đứng bên người lái, báo lệnh của đại úy chỉ huy quân hộ tống là nghỉ đêm tại đây, qua vài ba xe lại nhắc to một lần.

Pi-e cáu kỉnh dẫm chân, chửi rất tục. Lão Lê-ông rút khăn lau bộ mặt nhăn nheo và cái trán hói tận đỉnh đầu, can con:

- Ăn trưa xong đã hai giờ chiều, từ đây đến Kra-chê đường rất xấu, rừng rậm, Việt Minh với It-xa-rắc Khơ-mc quấy phá nhiều. Nghỉ lại là phải con ạ.

Lão vẫy tay ra hiệu. Gã da đen Rơ-nê gật đầu, đến xua ba người trên xe chỉ huy: một hạ sĩ lái xe, một lính cần vụ của Pi-e, một y tá. Cả ba mang hết hành lý xuống chiếc xe Pho, trong khi Rơ-nê chuyển đồ đạc của hai cha con lên xe chỉ huy. Gã căng rất nhanh một lều bạt chống nắng trên nóc đu-ra phẳng, các trụ và móc đều được lắp sẵn và xếp gọn khi đi đường.

Pi-e ngẩn ra nhìn cha thả cầu thang xuống đất, mở cửa sổ lắp kính phủ lưới hai bên thành xe, bật quạt chạy bằng ắc-quy xua không khí nóng, gọi hắn lên. Lão mở tủ bằng tôn dày lấy đĩa giấy, cốc giấy, khăn ăn giấy đặt lên mặt bàn xếp vừa dựng, mở tủ lạnh trong góc lấy các thứ của ngon: đùi heo ướp, trứng luộc, pho mát, dồi nêm tỏi kiểu Đức, cam và táo tây. Lão mở nhanh hai hộp xúp rau, một gói bánh mì cắt lát sẵn, cuối cùng mới rút ra một chai rượu vang Boóc-đô hai phần ba lít và hai chai bia. Chưa ăn vội, lão đặt lên cái khay nhôm bánh mì, cam, một hộp ra-gu thịt cừu, giơ tay gạt tấm rèm treo trên vách ngăn giữa thùng xe và ca-bin, mở cái cửa sổ lắp kính vừa hiện ra. Gã Rơ-nê đã ngồi sẵn chỗ lái, tiểu liên treo vào cửa xe, quay lại đón khay thức ăn kèm một chai bia, nói cụt ngủn: “Cảm ơn ông”. Lão gật đầu, đóng cửa sổ và kéo rèm.

- Trưa nóng, ta ăn bữa nguội và tạm gác rượu mạnh đến tối, đại úy bằng lòng chứ? Ba có hai bếp cồn, tối ta sẽ ăn nóng. Quán ăn khá chỉ có ở Xtung-treng, Pạc-xê, Thà-khẹc, nhưng chắc mấy đứa cộng sự sẽ mời tiệc... Nào, nâng cốc chức sứ mệnh chúng ta thành công rực rỡ!

Pi-e ăn thong thả, ngắm kỹ căn buồng nhỏ đầy đủ tiện nghi loại mới nhất, được xếp đặt rất khoa học và đẹp mắt. Hầu hết các máy móc và đồ dùng mang nhãn hiệu Mỹ. Lão Lê-ông cười thích thú:

- Mười tám ngàn đô-la đấy! Ba xem hàng chục mẫu nhà lưu động, chọn những chi tiết ưng ý nhất, đặt đóng theo ý mình tại Hồng Công. Đã có bán máy điều hòa không khí, ba chưa mua vì hỏng không có nơi sửa. Bộ ắc-quy đủ chạy quạt, tủ lạnh, đèn nê-ông trong hăm bốn tiếng, hết thì sạc bằng điện thành phố hay cho chạy máy phát kéo theo kia. Các kiểu nhà lắp bánh của Mỹ đều dài rộng hơn thế này, lại phải dùng xe khác kéo theo, cồng kềnh lắm, lên Thượng Lào gặp đường xấu là tắc tị. Túp lều hèn mọn này được đặt trên GMC mười bánh, ba cầu, có thể dùng tời trước mũi và xích lắp vào lốp để leo dốc cao hay vượt hầm hố, giúp chúng ta ăn ở đàng hoàng ở những nơi hoang dã...

- Và đưa chúng ta chạy trốn nếu Việt Minh tổng phản công, quân của Mao đánh tràn xuống Đông Dương!

- Tại sao không? Ba thích câu ấy của một nhà thám hiểm Pháp. Trong chiến tranh tất cả đều có thể xảy ra. Nhưng các nhà chiến lược của ta đoán rằng khả năng đánh nhau dằng dai là lớn hơn đánh tốc chiến tốc quyết. Mao mới làm chủ phần Trung Hoa lục địa rất nghèo đói và đầy rẫy tay chân của Tưởng, chẳng dễ gì mở hai mặt trận cùng một lần. Triều Tiên và Đông Dương. Ấy là thiển ý của viên đại nhất lê-dương, thưa đại úy!

- Một chai vang cho hai người, ông chủ chưa chi đẹp...

- Ừ thì thêm một chai. Một thôi nhé. Hành quân chiến đấu phải rất tỉnh, các ngài sĩ quan biết hơn ai hết!

Sau bữa cơm, Pi-e đi dạo dọc phố cho dãn gân. Ghé vào tiệm ăn Tàu ngồi nhấm nháp thêm một phần tư lít cô-nhắc nữa cho đủ liều, cũng để cha hắn làm một chầu ma túy. Dọc đường ông ấy mới hút bốn năm điếu thuốc lá tẩm hê-rô-in, chắc phải xài thêm các thứ khác: uống thuốc viên, hít bột vào mũi, đốt bột ra khói để hút bằng phễu, chỉ ít ưa kiểu tiêm vào tĩnh mạch. Cha nghiện ma túy thì con nghiện rượu, cánh đàn ông đã qua khói lửa dễ tha thứ cho nhau hơn, phần giảng đạo để nhường vợ chồng con em Gia-nét!

Tất cả dân bản xứ đi bộ hoặc xe đạp đều dồn ép sang mép đường bên kia, càng xa dãy xe đậu càng tốt. Hai đứa trẻ ăn xin ngờ nghệch lại băng ngang lòng đường, đến các cửa sổ ô-tô ngửa nón van vỉ. Thấy hai cánh cửa sau xe của Pi-e còn mở rộng, chúng ghé tới gần, chìa cả nón lẫn bàn tay gầy đen như cẳng cò, ngước mặt lên ấp úng. Trên bàn, tất cả đĩa cốc giấy và thức ăn thừa đã được cho vào túi giấy dầu, chắc cha hắn quen nếp sống dân sự còn đợi xe ra khỏi thị trấn mới vất xuống đường. Pi-e cầm túi thả xuống đất. Trong khi hai đứa hối hả nhặt những mẩu bánh thịt văng ra nhét trở vào túi, Pi-e giơ cao hai vỏ chai rượu thả xuống hai cái đầu bờm xờm. Một đứa trúng vai kêu thét, bỏ chạy. Đứa kia trúng gáy, chỉ rít một tiếng và lăn ra giãy giãy, lại bị thêm mảnh chai xóc vào bắp chân tóe máu.

Pi-e nghĩ thầm: “Dạo này mắt và tay mình kém trước. Phải bớt rượu mới được”. Hắn móc túi lấy hai tờ giấy một đồng xếp tư, thả xuống bên thằng bé đang lỉnh dần, đóng sập cửa sau xe, cởi giày, ngả lưng xuống giường vải. Gió quạt xoáy lộng, mát hơn hẳn khi hắn ngồi trong quán, cha hắn quả đã hết sức lo xa. Hắn ngủ thiếp đi tức khắc.

*

* *

Bọn lính Lào gác cổng sân bay đã quen với chiếc xe Pho tả tơi và người lái da đen của cha con đại úy La-phác-sơ, không hỏi giấy, chỉ nhấc cây ngáng và đứng nghiêm chào.

Khi làm mới và nối dài sân bay này về phía Nam, người ta bỏ đi một đoạn đường băng ngắn ở đầu mút phía Bắc. Nó rẽ vào một dãy ba nhà chứa máy bay làm bằng khung sắt lợp tôn và che vách ván, sẽ được tháo dỡ đem dựng nơi khác. Gần đây khúc đường phụ và khu nhà lẻ loi bỏ trống ấy được sửa sang, dăng hai lần thép gai bọc kín, dù chung quanh sân bay đã sẵn nhiều lớp lô-cốt, rào thép rào tre, bãi chông xen mìn chi chít. Nhiều xe chở người và thùng bao to nhỏ đến. Khói bốc suốt ngày qua các ống khói mới lắp thêm. Tiểu đoàn giữ sân bay được biết đó là xưởng LX.01 chế thuốc chữa bệnh cho quân đội. Các sĩ quan bĩu môi: chỉ bào chế thôi mà làm ra vẻ quan trọng gớm!

Mấy chục lính biệt kích gác và tuần bên ngoài xưởng đều là người Mẹo từ núi cao xuống, mỗi tháng đổi quân một lần. Làm việc trong xưởng có độ hai chục người Á và Âu, hầu hết nói được tiếng Pháp, ăn ngủ luôn tại chỗ. Họ rất kín tiếng, chỉ lâu lâu về Viêng-chăn một lần bằng xe ca riêng, mua sắm xong là lên xe ngay. Ra vào nhiều và chuyên giao thiệp với Ban chỉ huy sân bay là cha con ông La-phác-sơ, được xếp nhà riêng trong cơ quan Bộ chỉ huy quân khu Thượng Lào đóng tại Viêng-chăn, cách sân bay tám cây số.

Hai chiếc máy bay nhỏ kiểu Bi-vơ thay đổi nhau đáp xuống sân bay này, giờ giấc tùy thời tiết, trung bình mỗi ngày một chuyến hạ cánh. Sĩ quan trực được điện báo trước, nhìn qua số hiệu có chữ LX mở đầu, khoát ngay tấm biển xanh cầm tay cho chúng chạy rẽ về phía xưởng. Vài tiếng sau, chúng được một xe GMC phủ mui đu-ra bịt bùng kéo đến bãi đậu quân sự, xếp hàng chung với các máy bay trinh sát nhẹ. Và mỗi tuần một lần, lão Lê-ông La-phác-sơ chìa ra lệnh điều động của quân khu, dùng hẳn một chuyến máy bay vận tải Đa-cô-ta để chở hai ba tấn hàng đóng thùng về Vũng Tàu, nói thêm rằng đấy là dược phẩm mới sơ chế. Chẳng ai hiểu vì sao dược phẩm không về Sài Gòn mà giao tại Vũng Tàu, người nhận lại là sĩ quan thuộc Phòng GCMA[2] chứ không phải ngành quân y. Áp tải hàng là những người hầu như câm điếc nhưng rất rộng tay giúi tiền puốc-boa cho những ai góp công vào chuyến bay ấy...

Bọn lính Mẹo gác trước cổng xưởng thích tâng công theo lối máy móc: chúng mù cả chữ Pháp lẫn chữ Lào, nhưng làm ra vẻ săm soi xem rất kỹ tấm thẻ ra vào, so ảnh với người, gí mắt vào con dấu tròn của Pháp và con dấu ba đầu voi che lọng của chính quyền vương quốc. Pi-e cáu tiết, giật lại mảnh bìa cứng, tiện tay tát như trời giáng vào mặt tên đốc gác, gõ mạnh giày đi thẳng vào xưởng trong khi cha hắn vỗ vai đứa bị đánh, nói dịu ngọt một câu tiếng Lào trước khi nối bước theo hắn.

Các hăng-ga chứa máy bay giữ nguyên mặt ngoài lở lói đen sạm, bên trong được sửa rất kỹ: láng nền xi-măng bóng, lát ván làm trần nhà, đặt thêm rất nhiều quạt chống nóng, chia các ngăn bằng vách gỗ, tất cả đều sơn trắng toát. Điện sáng dăng dăng giữa ban ngày. Các bếp lò than củi đang cháy đỏ, có phễu hút khói đưa xuyên qua mái. Từng dãy thùng nồi to nhỏ bằng tôn hoặc sắt tráng men được nối vào nhau bằng những ống cong và thẳng lượn lên xuống qua lại. Một làn hơi nước loãng pha mùi nồng của nhiều thứ hóa chất đang đun nấu bốc lên trộn lẫn dường như không làm cho những nhân viên bào chế mặc bơ-lu trắng cảm thấy khó chịu. Họ đi lại ít mà đứng ngồi nhiều hơn để trông chừng các bếp, thỉnh thoảng mới nói khẽ với nhau một câu ngắn.

Lão Lê-ông khoát tay chỉ hệ thống lò nối dài bên trái, giảng cho con:

- Dây chuyền này điều chế moóc-phin thô thành hê-rô-in số 3... Thuốc phiện sống là một thứ nhựa nhão nhoẹt màu nâu đen, mùi hăng, dân bản xứ chở đến bằng ngựa thồ hay gùi cõng. Ba đã dạy cho các nhóm thu mua tự nấu nó thành moóc-phin. Rất dễ, chỉ cần một cái thùng, ít vải lọc, vôi bón ruộng và am-mô-nhắc đậm đặc. Qua hai lần nấu và lọc thì lấy được moóc-phin, chỉ nặng bằng một phần mười thuốc sống. Nơi gần chở về đây bằng ô-tô, nơi xa dùng máy bay nhẹ... Nó đây này!

Lão cúi xuống bốc một nhúm moóc-phin trong cái thùng mở nắp bên cạnh, bỏ vào tay con. Đó là nhũng hạt trắng méo mó bằng xấp xỉ hạt đậu xanh, tựa hồ không bà con gì với những ống moóc-phin nước trong túi cấp cứu của y tá để tiêm giảm đau cho thương binh nặng, thường bị lính nghiện ma túy ăn cắp sạch.

Giọng lão Lê-ông lộ rõ vẻ tự hào nghề nghiệp khi giảng các phép bí truyền:

- Làm ra loại 3 không khó. Chỉ cần bám sát quy cách, sao cho moóc-phin hóa hợp tốt với a-xít a-xê-tic thành đi-a-xê-tin-moóc-phin tức là hê-rô-in, lấy được phần lớn các chất dư thừa... xem đây: trong các bình thủy linh lớn này là mười cân moóc-phin trộn với mười cân an-hy-đrit a-xê-tic, phải đun đều sáu giờ ở đúng 85 độ C, không được tăng giảm. Còn phải qua ba bước phù thủy luyện thuốc nữa, dùng clô-rô-phoóc, các-bô-nát xô-đi-om cồn, than hoạt tính mới lấy được hê-rô-in màu hơi xám chứa khoảng bốn mươi phần trăm tinh chất. Loại này dùng để hút, uống, hít vào mũi, dân châu Á xài ngày càng nhiều thay chất nhựa nấu cũ kỹ. Bên Mỹ và Tây Âu chuộng thứ bột trắng mịn loại 4 hơn vì hòa tan nhanh trong nước, tiêm một tí xíu là thoả cơn nghiện. Thuốc sang đến đấy đắt lòi con ngươi, mấy ai đủ tiền mà hút!

- Này ba, mấy thằng Tàu cùng đi chuyến xe hôm nọ đâu cả?

Lê-ông kéo con ra xa những người làm việc:

- Ở đây chỉ có bọn Tàu ở Chợ Lớn và Viêng-chăn, thuê rẻ thôi. Bọn Hồng Công tự giam mình trong cái nhà gạch xây rời chỗ góc kia. Trả lương ngang đại tá Pháp mà còn vòi thêm... Chúng dùng cồn, a-xit clo-hy-đric, đặc biệt nhiêu ê-te để chế hê-rô-in số 4 là thứ có trên 90 phần trăm tinh chất. Bước này ít tốn kém nhưng mất nhiều thì giờ, công phu, lại nguy hiểm nữa, có thể nổ bay cả người lẫn nhà. Ba mày mò rất lâu không ăn thua, đành bấm bụng rước các vị con trời vô. Chúng giấu nghề rất ghê, ba đang tìm cách ăn cắp kỹ thuật.

- Thì ra cứ xuất loại thấp, đã sao?

- E hèm... Từ số 3 sang số 4, thuốc mạnh lên nhiều lần mà trọng lượng vẫn giữ nguyên. Nó gây nghiện không cai nổi, lại dễ chuyển, dễ ngụy trang, dễ tiêm, vì thế giá bán tăng vọt gấp năm gấp mười, lãi to lắm. Chỉ bị cái khó điều chế... Có phải nơi nào trên thế giới cũng lập được xưởng hiện đại to đùng, có máy bay riêng và lính gác cổng như ta đâu! Bọn trùm buôn lậu ranh hơn cáo, biết bỏ tiền mua thuốc đắt còn lợi hơn thuê thợ rước thầy, đặt xưởng ngầm, chở nguyên liệu đến, chuyển hàng đi, lộ tẩy như chơi! Mấy căn hầm kín của phe thằng Ghê-ri-ni lần lượt bật nắp, nay nó mới chịu mua loại 4 của ba đấy, trước kia nó chỉ nhận moóc-phin sơ chế thôi!

- Nghĩa là chiến tranh Đông Dương càng dằng co kéo dài, ba sẽ càng giàu sụ, phải không?

- Cả gia đình ta chứ! Xin Chúa giúp cho được như thế!

*

* *

Chiếc máy bay nhẹ một động cơ cánh quạt ngoi lên trên trần mây đen đặc giội mưa xuống đất, gặp ngay ánh nắng rực rỡ chói mắt. Bay trong mùa mưa Lào kéo dài nửa năm đã khổ cực, còn hạ cánh xuống một tiền đồn trên núi cao, chỉ dọn được một đường băng dã chiến dài hai ba trăm mét, quả thật là liều mạng. Người lái phụ lật bản đồ, xoay cho đúng hướng la bàn, lẩm nhẩm tính gì đấy rồi ghé tai nói mấy câu với phi công chính. Tay này gật đầu, quay về phía sau kêu ồm ồm:

- Bắt đầu xuống, tắt thuốc lá, gài thắt lưng an toàn, không làm ồn!

Khoang chung dành cho lái và bốn hành khách của chiếc “tắc-xi bay” này được cách âm tốt, không phải dùng dây nói nội bộ. Hai người lái chụp ống nghe vô tuyến vào tai, đẩy ống nói đến trước miệng, bắt đầu gọi mặt đất dồn dập:

- Tổ én X.16 đâu? Đây Chim én 342, Chim én 342 gọi Tổ én X.16, hãy trả lời...

Họ nói tiếp nhau gọi mỗi lúc một to, rồi chen thêm những tiếng chửi mỗi lúc một nặng. Hình như dưới đất không đáp.

Đại úy La-phác-sơ liếc sang phải thấy trung tá Gra-lê cau mày nhăn trán, vã mồ hôi lấm tấm trên thái dương. Hắn ngầm thích chí: tay cấp trên ưa làm ra vẻ bác học này sợ rồi! Hắn càng cố nén hồi hộp, giữ vẻ mặt lạnh như tiền của người chiến binh lão luyện.

Mặt đất bên ngoài cửa sổ từ từ dâng lên, phủ kín khung chữ nhật, đẩy màu trời biến mất. Máy bay đang quần nghiêng. Một mảng đất đỏ nâu nổi rõ. Trên đầu núi tròn, mấy nóc tôn gỉ và tranh cũ ngả đen hằn những hình chữ nhật vây quanh một tháp canh cao. Lá cờ ướt sũng dính vào cột, xem kỹ mới nhận ra ba màu xanh trắng đỏ. Một tấm thảm mây xám đang từ từ trôi ra xa, chòm núi lúc này sáng rõ, thế là gặp may rồi. Nhưng cái đồn GCMA này đang nằm trong tay ai? Nó ngậm câm một cách đáng ngờ. Bọn It-xa-la cùng Việt Minh đã đôi lần núp lại sau khi diệt đồn để chờ đánh quân viện hay lấy dù tiếp tế.

Mươi chấm nhỏ từ các nhà và lô-cốt túa ra sân. Một lá cờ tam tài quạt ngang qua lại như múa lụa. Pi-e nhấc ống dòm trước ngực đưa lên mắt, vặn nút chỉnh: đúng thằng thiếu úy Vi-nhan đang phất cờ. Hắn cứ để mặc cho phi công xoay xở.

Chiếc máy bay chuyển sang quần số 8 rất thấp. Sân bay dã chiến nền đất được khoét vào sườn núi thấp hơn đồn. Bọn lính lố nhố ở đầu sân bay có lẽ vừa sực nhớ ra, vội căng chữ T bằng vải trắng và bắn lên một pháo hiệu xanh. Viên phi công cho máy bay rà sát trên mặt sân cách vài mét như đo thử lần cuối, vòng ra xa, quay lại thật chậm và đáp xuống đất. Người ngồi trong khoang bị vật qua lại khá mạnh trong khi bánh xe trượt trên bùn và vấp ổ gà liên tiếp trước khi dừng hẳn. Đã quen với những sân bay rất hẹp, phi công tắt máy luôn chứ không chạy chậm để xoay đầu. Bọn lính sẽ xúm vào đẩy, vần, xeo thay cho động cơ.

Trung tá Gra-lê sửa cặp kính trắng, nhấc tấm thân thấp lùn và rất phì nộn trong khi người lái phụ mở cửa, thả cầu thang. Đôi ủng da đánh xi rất bóng lún ngay vào bùn đỏ bầm đến mắt cá. Viên thư ký đeo lon thượng sĩ xuống sau trượt chân ngã ngồi, đế giày hất văng bùn lên tận vai bộ quân phục rất chỉnh tề của trung tá. Pi-e nháy cậu trung úy chỉ huy phó GCMA, cố nghiêm mặt làm lơ trong khi một chuẩn úy Lào dẫn mươi lính chạy đến đón, rập chân chào vị thượng cấp đang cầm khăn tay lau bộ mặt đỏ rựng đầy tức giận. Cả đoàn bước rón rén ỳ ạch, leo dốc lên đồn.

Trong bốn đội GCMA thuộc tiền đồn 974, hai đội đi vắng, còn lại 43 người kể cả bộ phận chỉ huy. Nghe thiếu úy Vi-nhan báo cáo xong, trung tá nhìn lướt qua lũ lính biệt kích mặc đen tuyền từ áo quấn đến mũ nồi, đi giày vải bết bùn, dựng bên đùi những khẩu trường Mát đã mòn lớp hun đen bóng, xếp thành nhiều hàng ngang xộc xệch. Chúng giống kẻ cướp hơn là lính, đôi mắt của trung tá nhìn chúng lại hệt mắt quan tòa hỏi cung phạm nhân. Lão khoát tay với vẻ cáu kỉnh và chán ngấy, đi thẳng vào phòng khách, mỗi bước chân để một mảng bùn trên nền xi-măng. Vi-nhan và chuẩn úy đồn phó khúm núm mời các vị quan trên rửa ráy tạm trước khi làm việc. Bốn năm tên biệt kích cởi giày bỏ ngoài thềm, khom lưng rất thấp bước men vào, quỳ hai gối xuống dâng nước và khăn cho quý quan rửa mặt, lại quỳ để lau sạch giày quý quan, vẫn quỳ để cọ nền nhà. Một tên quỳ đón chiếc áo vấy bấn của ngài trung tá đem đi chải.

Sau hai tháng ở Lào, Pi-e không còn ngạc nhiên trước cảnh và người rất nhếch nhác ở các đồn biệt kích hay cách quỳ lạy hắn chưa từng thấy khi kẻ dưới ra mắt người trên. Hắn tập làm quen với sắc lính mới, kiểu sống mới, với rượu nếp Lào và các cô xảo nùm[3] xinh nhỏ như búp-bê, với các món nhậu Lào khá lạ miệng. Ở Viêng-chăn như thế tạm ổn. Cứ để mặc cha hắn bám cái xưởng bí mật nhu tu sĩ luyện thuật giả kim thời trung cố, thỉnh thoảng giúi tiền cho hắn tiêu thêm, xấp sau thường dày hơn xấp trước. Chất độc kinh khủng kia đắt hơn vàng hàng trăm lần, không có nhà giả kim nào lãi bằng cha hắn, nhưng hắn chẳng dại gì giam thân trong khu nhà tù ấy. Hắn muốn làm giàu, giàu to, nhưng giàu đến đâu phải được hưởng đến đấy chứ không ki cóp để dành cho tuổi già. Đời thằng sĩ quan nhà nghề chuyên đi hỏi tội dân thuộc địa, tránh sao khỏi viên đạn vô tình hay những con vi trùng hiểm ác!

Bọn lính khiêng hai thùng rượu và đồ hộp dành riêng cho sĩ quan vào góc phòng khách. Viên thư ký đã thay quần áo, mở vài chai với dăm hộp bày lên bàn để nhấm nháp trong khi làm việc.

Thiếu úy Vi-nhan thuộc hạng khá trong số vài chục sĩ quan chỉ huy GCMA, còn trẻ mà đã chừa một bộ râu cố đạo màu hung để làm oai với dân bản xứ. Y lật sổ báo cáo ngắn gọn về hoạt động của It-xa-la trong khu vực, thành tích chiến đấu của bốn đội biệt kích dưới quyền, kết quả thu mua thuốc phiện sống trong mùa xuân vừa qua. Hai phần trên không có gì nổi bật, riêng phần cuối được nhận là vượt mức nhiều...

Gra-lê cầm cốc vang trắng nhấm nháp, mắt lờ đờ khó hiểu sau kính trắng. Thấy viên thư ký ghi đều tay, Pi-e cũng hất hàm ra hiệu cho phụ tá của mình ghi chép để cấp trên vừa lòng. Hắn đã kín đáo làm luôn ba ly cô-nhắc “xua sương mù”, thấy tỉnh táo hơn.

Đột ngột, lão trung tá to béo đặt mạnh cốc vang xuống bàn, cắt ngang những câu kết luận của Vi-nhan:

- Trong khi chiếc Xét-xna quần thấp, tôi quan sát qua ống dòm, thấy một số bản trồng lúa nương trên diện tích dành cho cây thuốc phiện. Ông thiếu úy biết chưa?

Vi-nhan trả lời, đầy tự tin:

- Thưa trung tá, tôi đã đến tận nơi và hỏi kỹ. Dân bản xứ phát rẫy vào mùa xuân, đốt rẫy cuối mùa khô, nhưng chỉ có thể trồng thuốc phiện vào tháng chín... Trong khoảng cách chừng bốn tháng ấy, nếu không trồng trọt gì cả, mưa lớn sẽ làm trôi hết chất tro bón đất, họ phải trồng ngô hoặc lúa để ăn và giữ màu cho đất...

- Thì ra ông vẫn tưởng ngô và lúa giống hệt nhau? Lầm to. Người trồng ngô theo ta, người trồng lúa theo cộng sản!

- Thưa trung tá, họ vẫn ăn lẫn lộn hột ngô và cơm...

- Còn phải học nhiều, thiếu úy ạ. Tôi biết rõ các thứ giống của người Mẹo. Ngô của họ là giống ngắn ngày, lại trỉa trước khi mưa, tháng Tám đã bẻ xong, tiếp đó họ cuốc lại đất, trồng thuốc phiện rất đúng thời vụ. Còn lúa của họ mãi đến tháng Mười một mới thu hoạch, tức là trễ hai tháng sau vụ trồng thuốc phiện. Họ vẫn cứ trồng cho ông nhìn thấy, nhưng ông sẽ chịu thua khi cây thuốc phiện còi cọc không tiết ra nhựa trên quả. Họ sẽ bảo vì đất quá xấu, vì mưa nắng trái khoáy, vì con ma rẫy không phù hộ, gì gì nữa chỉ có Chúa biết!

Pi-e giật mình, rướn cổ nhìn trung tá chăm chăm.

- Bọn cộng sản đến đâu là xúi giục dân làng bỏ thuốc phiện đến đấy, trồng ngũ cốc để ăn và nuôi chúng. Còn chúng ta phải đốc thúc dân Mẹo trong vùng Tam giác vàng này cung cấp thuốc phiện cho cả thế giới, trước hết là đem đô-la về nuôi Quân viễn chinh. Ngày nào chúng ta còn đem gạo ngô và hàng tiêu dùng đổi được chất nhựa nâu ở các bản, ngày ấy chúng ta còn nắm được dân vùng này, đánh bại được bọn It-xa-la thù địch. Dân chúng chuyển sang trồng lúa nương là đã nghe lọt tai lời tuyên truyền cộng sản, chịu bỏ mối lợi lớn để giúp It-xa-la chống Pháp giành độc lập, các ông hiểu rõ chưa nào?

Pi-e bắt gặp luồng mắt của trung tá xói vào mình, chợt nóng rực hai tai. Lão chê mình quá dốt, nhưng chỉ mắng Vi-nhan cho mình đỡ mất mặt. Vi-nhan rướn vai lên, hùng hổ:

- Tôi sẽ trị chúng, thưa trung tá. Chúng đánh lừa tôi thật trắng trợn...

- Đừng vội, đừng vội. Trước hết ông hãy ra lệnh nhổ lúa, nhổ trụi, cho phép trồng rau ngắn ngày, nhất là cây họ đậu cho đất tốt thêm. Đến tháng Chín ông sẽ hạ lệnh tỉa bớt đậu, trồng thuốc phiện xen vào, đúng, kỹ thuật đấy, đừng ngại... Về mặt an ninh, ông cứ phớt lờ như người da trắng lạc vào xứ mọi, kín đáo gài đôi ba đứa chỉ điểm ở mỗi làng trồng lúa, cố gắng hót trọn ổ cả bọn It-xa-la ngoài rừng cùng những đứa ẩn trong bản, chớ nên ăn non mà phí...

Dễ thấy dáng vẻ ngoan ngoãn vâng dạ của cấp dưới đã khiến Gra-lê nguôi giận hẳn, tha cho cái tội tiếp đón quá luộm thuộm. Trong bữa cơm nửa Pháp nửa Lào sau đó với các món ăn và rượu của hai nước dọn ra xen kẽ nhau, lão lấy lại điệu bộ ưa thích nhất là nhà bác học chuyên nghiên cứu về Viễn Đông, sẵn sàng lên lớp cho lũ sĩ quan “mỏ trắng” chỉ biết đánh đấm hùng hục mà mù tịt về thiên nhiên và con người ở Đông Dương. Lê-ông La-phác-sơ đã cho con biết lão này sang Đông Dương từ khi trẻ, lần hồi ngoi lên đến chức giám binh chuyên trấn thủ các tỉnh biên giới phía bắc. Nhật đảo chính năm 1945, lão chạy thoát theo tàn quân của tướng A-le-xăng-đri sang Vân Nam, nhờ chiến công ấy được phong thiếu tá, nay lên một cấp nữa.

Rượu vào ngà ngà, lão nói nhiều và rất cởi mở:

- Hồi Quân viễn chinh mới sang Đông Dương, đô đốc Đác-giăng-li-ơ gà mờ cho rằng có thể lấy lại Nam Kỳ trong bốn tuần lễ, chiếm hết Đông Dương trong vài ba tháng. Bởi thế ông ta rất coi khinh đám quan chức Đông Dương kỳ cựu, chỉ tin dùng cái số từ chính quốc theo ông ta qua đây. Đánh nhau trật xương suốt bấy nhiêu năm, các quan lớn mới trắng mắt ra, hiểu rằng muốn thắng du kích cộng sản phải có du kích chống cộng, phải biết dùng độc trị độc. Người ta trở lại tin dùng tướng Xa-lăng và các sĩ quan thuộc địa, cho lập các đơn vị không chính quy, chịu o bế tất cả các phe phái chống cộng. Các ông biết đấy: bọn cướp Bình Xuyên biến thành cảnh sát Sài Gòn, vua Bảo Đại đánh đĩ với Nhật trở về làm quốc trưởng, thuốc phiện quốc cấm được coi như hàng xuất khẩu chiến lược. Mục đích biện minh cho phương tiện!

Lão cười to, cả mâm tiệc cười theo to hon. Lão nếm thử rượu ngô Mẹo vùng này, gật gù khen hương vị độc đáo, lập tức mọi người ồn ào chìa cốc ra cho mấy tên hầu bàn rót đầy rượu ngô, thưởng thức thứ men lá rừng bí truyền của thổ dân vùng núi cao này.

Đoàn kiểm tra ra về, say lảo đảo. Trong khi các quan dự tiệc, bọn biệt kích đã kịp sửa lại quãng dốc đi xuống sân bay, cuốc bậc ở những chỗ trơn. Chúng còn khiêng ván lấy từ giường chân niễng của mình đem lót thành một lối đi phủ gỗ đến tận chân cầu thang máy bay. Dù được mời mọc nhiều lần, hai người lái nhất định ở lại trong khoang, ăn đồ hộp xong ngồi ngủ gật. Họ đã bị đôi phen điếng hồn, không dám giao cho lũ lính rất giống thổ phỉ này canh giữ máy bay, chúng ăn cắp và phá phách như khỉ bầy xuống rẫy.

Chuyến về gặp may mắn hơn, không bị mưa to hay sương mù cản đường. Gra-lê vẫn còn ngấm men, ghé tai Pi-e nói qua hơi rượu thịt hôi nồng, đổi sang cách xưng hô thân tình:

- Điều tao nói về phe Đông Duong với phe chính quốc cũng khớp với hoàn cảnh của tao với mày đây, chú em ạ. Đám chóp bu chê tao lạc hậu quân sự, đẩy tao về nước, làm thằng cạo giấy ở Sở đồ bản thuộc Bộ tổng tham mưu. Tao vừa nộp đơn về hưu, bỗng dưng được lệnh giữ lại, thăng cấp, đưa sang Đông Dương làm trưởng phòng GCMA mới ra đời. Được thôi, đây là dịp kiếm chác thêm ít nhiều làm vốn, về già khỏi phải lãnh chân gác cổng... Còn mày, tao nghe nói đánh cộng sản rất hăng, rất táo bạo. Biết chúng nó phê vào hồ sơ của mày thế nào không? “Chỉ biết hành binh theo kinh nghiệm lỗi thời, thường vi phạm điều lệnh chiến đấu chính quy”. Đã thua bét be còn bám mãi cái chính quy khỉ gió ấy! Tao hỏi thêm ba mày với vài người quen nữa, mới xin điều mày về cái sắc lính rất xa chính quy của tao. Bọn sĩ quan từ võ bị Xanh-Xia ra hay chửi GCMA là bầy chó đểu. Tao đáp: đúng thế, nhưng chúng nó là bầy chó đểu của ta, chúng làm được những việc bẩn thỉu mà bàn tay đeo găng trắng của quý ngài không tiện mó vào! Tất nhiên, không một lời nào về Kế hoạch X!

Pi-e lễ phép cúi đầu:

- Trung tá dạy rất phải!

Tất cả những ý nghĩ chế giễu và khinh thường đối với vị quan trên béo lùn có dáng dấp một lão kế toán đã tan hiến hết. Sau ông thầy đầu tiên là cha mình, đại úy Pi-e hết sức ngổ ngáo đã gặp thêm một thầy mới.

Chú thích:

[1] Cơ quan này mang tên là SDECE (Cục điều tra đối ngoại và phản gián), không trực thuộc Quân viễn chinh.

[2] Tên viết tắt tiếng Pháp: Đội biệt kích hỗn hợp không vận.

(3) Tiếng Lào: gái trẻ