Chương X
Nằm duỗi dài trên bờ phải của Mè Nặm Khoỏng, con sông lớn và dài nhất nước Lào, làng Hạt Khẹ còn giữ được cái tên đời xưa để lại. Nghe truyền rằng các cụ tổ đi thuyền độc mộc đến quãng bờ hoang vắng này, định ghé vào nấu ăn, chợt thấy trên mép bãi hàng trăm hàng ngàn con cá sấu nằm ghếch đầu như vô số chiếc thuyền kéo nửa thân lên cạn. Chèo ngược dòng trở về làng cũ, các cụ sắp sẵn nhiều lao có ngạnh buộc dây chắc, nhiều súng kíp để trị những con vùng quẫy mạnh nhất, nhiều trai săn sấu giỏi, kéo cả đoàn thuyền xuôi xuống lúc tờ mờ sáng, đánh úp bầy sấu một trận tơi bời. Được nhiều sấu đến nỗi chỉ kịp lột da, cắt lấy khúc mũi và đoạn đuôi, còn thịt vất xuống nước tế thần Sông Mẹ. Về sau đến lập làng mới mé trên bãi, các cụ đặt luôn cái tên Bãi Sấu để con cháu nhớ mãi ngày hỗn chiến dọn chỗ. Mấy năm đầu lũ sấu còn tiếc cái bãi dẹt và dài chúng quen đến ngủ khi ăn no, cứ lảng vảng gần đấy, thỉnh thoảng đớp một con chó khờ hay cắn chân trâu nghé bò non lôi ra xa. Dân làng phải rình bắn, đâm, thả câu bằng những con sóc và chuột rừng sa bẫy, chúng mới bỏ đi gần hết.
Làng Hạt Khẹ hôm nay mở hội Thả thuyền trong khi chờ lúa chín. Dân làng hầu hết đã ra ở trại ruộng, lại kéo về thăm sửa nhà cửa, quảy theo các thứ mặc đẹp và ăn uống trong ngày hội. Con buôn đánh voi hay chở thuyền đến bán hàng khá đông, lính địch đóng đồn cách ba cây số cũng xuống chơi nhiều.
Đội xung phong công tác số 6 chọn ngày này để móc nối với mấy người trong làng được coi là cảm tình It-xa-la, đứt liên lạc ngót một năm qua. Họ gồm bốn đồng chí, hai Lào hai Việt, thêm Cả Chanh tức đồng chí Chăn-thi cùng đi là năm.
Nơi ở của đội là cái lán nhỏ lợp lá mây giữa rốn một khu rừng mây. Mỗi lần ra đi lúc nhá nhem tối, anh em dùng mươi cây nạng chống nâng các lùm mây song rậm gai, luồn thật khéo bên dưới, mờ sáng về lại rút nạng đem cất. Từ ngày gây được cơ sở trong hai làng ven sông, anh em thường mang về những típ[1] xôi kèm thức ăn, giảm bớt nấu nướng cho để lộ bí mật.
Hôm qua, đội trưởng Thoong Xẩy đột vào trại ruộng của bác Chum, một nông dân lầm lì ít nói nhưng đã từng biếu bộ đội một con trâu thịt và ba chục mừn[2] thóc nếp, khi Liên quân Lào - Việt đến làng Hạt Khẹ lần đầu và Pháp chưa đóng đồn. Bác nghe giảng giải rất lâu mà không hỏi, không nói. Cả Chanh ngồi nín lặng, thấy trên mặt bác hiện vẻ hoài nghi pha chút gì như thương hại. Mới vượt sông lớn cách hai hôm, đây là lần đầu anh gặp người dân vùng sâu bị chiếm, sát đồn địch. Ra về, Thoong Xẩy cam đoan với Chanh rằng trưa mai, đúng trống ngọ, mấy bà con được mời sẽ ra rừng gặp đội. Chanh nhớ rõ bác Chum không hứa một tiếng nào cả trong khi Thoong Xẩy dặn đi dặn lại việc cần làm.
Tất cả đội cùng đến để làm quen với số cảm tình mới móc nối. Qua cánh đồng lúa nếp đã lên xanh đậm rập rờn, với những bờ ruộng chừa rất hẹp tuy không thiếu đất, những tiếng vui của hội làng bay tới họ được gió trộn vào nhau. Nổi rõ nhất là tiếng trống, tiếng xập xõa, rồi đến tiếng rung dồn dập của những đĩa đồng trên đàn khoỏng-vông, những phím gỗ trắc kết chuỗi trên đàn la-nạt. Mỗi khi gió dịu xuống mới nghe được tiếng khèn thoi thóp hòa theo một bài lăm ân tình hay ghẹo quấy nào đó, từng lúc điểm một loạt tiếng hú khen ngợi hay tiếng cười giòn giã. Chanh lên Lào đã dự hội Pháo thăng thiên trong một làng vùng giải phóng, tò mò hỏi kỹ các kiểu đàn và điệu hát trong ngày hội trần tục chơi xả láng này, rất gần với kiểu rước ông Đùng bà Đà mà một anh bạn Nam tiến đã tả lại. Hội Thả thuyền chắc là ít nghịch ngợm, lại thêm lính địch xuống đông, khó mà vui thoải mái như trong vùng ta.
Chùa làng chợt nổi hồi trống chính ngọ, báo giờ dâng cơm trưa. Các tiếng ồn ã tắt dần. Anh em bắt đầu căng mình nhìn qua cành lá, đợi người đến chỗ gốc cây đa ven rừng.
Một bóng thấp thoáng bước tới, chỉ dừng mấy tích tắc lại bỏ đi ngay. Thoong Xẩy thì thào bên tai Chanh:
- Bác Chum đấy, thấy chưa? Chắc đi gọi thêm số kia.
Một giờ qua. Hai giờ. Gốc đa vắng ngắt.
Bị buộc phải ngồi rời nhau trông chừng các hướng, bốn anh em cố tránh ngủ gật bằng những hài hát lẩm nhẩm trong miệng không thành tiếng. Bắt đầu đói nữa. Thoong Xẩy bảo không cần đem cơm nguội theo, bà con ra gặp làm gì chẳng có các món ngon ngày hội. Bun là phúc, dân Lào mở bun, chơi bun là để làm phúc và hưởng phúc, trong ngày bun không ai hẹp bụng với ai.
Mặt trời xuống chỉ còn một con sào, vẫn không ai đến.
Thoong Xẩy buồn rười rượi, rẽ lá đi xem quanh gốc đa. Người ban nãy đặt ở đấy hai nắm xôi gói lá chuối, bấy nhiêu thôi. Không có thư bên trong. Đành ăn vài miếng đỡ đói rồi về lán hay đi gặp cơ sở làng khác vậy.
Một đội viên bẻ đôi nắm xôi, bỗng sững người, run tay chìa ra hai nửa nắm. Thoong Xẩy cầm xem, mặt dần dần tái xanh. Giữa ruột xôi là một nhúm tro bếp lẫn than vụn.
Bác Chum trả lời khá rõ. Anh thăm tôi thì tôi thăm lại. Anh đói, tôi bố thí cho, nhưng cái hạng anh chỉ đáng ăn như con heo con chó!
Thoong Xẩy thả rơi miếng ăn nhục nhã xuống, dựa vào thân cây gồ ghề, nhắm mắt. Hai giọt nước trào xuống khuôn mặt đen gầy có một mảng lang ben trắng dưới cằm, hằng ngày luôn tươi nở. Đồng chí trung đội phó Lào này mới được điều sang sông nắm đội công tác số 6 cách vài tháng, chắp mối lại với làng quê mình và làng quê vợ rất dễ dàng, đến Hạt Khẹ mới vấp lần đầu.
Chanh giữ ý, bước tới chỗ ba đồng chí kia đang bàn thì thào, nói khẽ với cậu Òn:
- Ta đừng về Rừng Mây vội. Có chỗ nào vui, ta đến chơi.
- Chơi thật à?
- Chớ sao! Cả ngày ngồi nghe người ta đánh đàn thổi khèn, ăn nhậu tơi bời trong làng, bây giờ tới lượt chúng mình mở bun!
Òn liếc anh Chăn-thi, không thấy vẻ gì chế giễu, toét mồm cười ngay. Cậu đội viên Lào hai mươi tuổi này đang tán tỉnh cô Xi, con gái rượu của một ông thày cúng già. Trại ruộng của ông ở tách riêng ven rừng hơi xa làng Phôn Khảo, cách đây chừng bốn cây số, đội công tác cũng thường lui tới. Của cải ông làng nhàng thôi, chỉ có chừng năm chục hày[3] ruộng với bốn con trâu, sưu thuế lại nặng, nhưng ông thích rủ cán bộ It-xa-la đến chơi để hỏi đủ chuyện trên trời dưới đất.
Đội công tác ở lại trại đến khuya, nhắm rượu với thịt nai nướng, thổi khèn và hát lăm hàng chục điệu, còn bắt cô Xi mang rổ và gàu đi xúc tôm về băm sống làm món lạp cụng ngọt lừ, là để cậu Òn được dịp đi theo soi đuốc dầu rái và hộ vệ người đẹp. Thoong Xẩy bần thần hồi lâu rồi bị cuốn theo đà vui chung, nói cười ầm ỹ hơn ai hết. Anh vỗ lưng Chanh bồm bộp:
- Thố, anh Chăn-thi, bạn thân Chăn-thi ơi! biết anh nói dối nhé: anh bảo mới sang Lào vài tháng, không đâu, khôôông đâu... Anh ăn xôi, ở nhà sàn, mặc quần một ống đã vài ba năm rồi, đúng chưa, đúng chưưưa?
Chanh cười nghiêng ngả. Anh giữ dạ dày, chỉ giả vờ uống và giả vờ say, trong đầu vẫn xoay ngược xuôi tiếng chửi không lời nằm trong nắm cơm nhân tro bếp. Vì đâu nên nỗi?
*
* *
Còn một câu hỏi khác, na ná như thế nhưng nhằm vào Chanh, buộc anh phải trả lời hàng trăm lần: vì sao bỏ nghề xe lửa?
Tùy người hỏi, nếu không bông phèng cười trừ được thì anh tìm một lời đáp nào xuôi tai nhất. Vì thích nếm mùi khói lửa. Vì thức đêm ròng rã không chịu nổi. Vì đau dạ dày cần ăn xôi quanh năm, ở Lào tiện nhất. Vì ham biết thêm cuộc kháng chiến muôn màu muôn vẻ. Vì rất thù Tây, muốn tự tay giết vài thằng cho hả... Tiếp đó anh nhảy ngay sang chuyện khác, sực nhớ ra một điều gì đó chua hiểu và hỏi ngược lại dồn dập.
Khi bị buộc phải trả lời nghiêm chỉnh, Chanh đưa ra lý lẽ vững nhất: liên khu ủy kêu gọi đảng viên các tỉnh tự do xung phong đến các nơi khó khăn nhất, như Cực Nam Trung Bộ hay Hạ Lào - Đông Bắc Miên. Mà anh đã ở hậu phương rất lâu rồi, đi là phải.
Tất cả những điều anh nói, dù đứng đắn hay pha đùa cợt, đều có phần đúng sự thật. Đúng mà chua đủ. Phần sự thật còn lại, chỉ trong những lúc chờ giấc ngủ đến giữa những tiếng ngáy xa gần nặng nhẹ của đồng đội, anh mới gặp lại nó và chìm vào nó. Anh thấy nó như một làn mây xám có mùi khói khó thở cứ lởn vởn đâu đó, đợi lúc anh quay về mình sống với mình mới nhẹ nhàng tỏa đến bọc kín anh. Nó không là bão táp đâu, không mang theo xoáy lốc của trận đánh dưới bom đạn, không lòe sấm chớp của những va chạm gay gắt ta với ta, không nhoi nhói xăm kim vào da như trăm nỗi bực dọc hàng ngày thoắt đến thoắt đi. Anh nghỉ chữa bệnh đủ lâu để tất cả trôi dần vào màn sương của quá khứ, nó làm mờ bớt đi những nét phụ để giữ lại hình vóc chính thật tươi khỏe, vạm vỡ: năm năm kháng chiến đầu tiên theo nghề xe lửa để lại trong đời anh những đường khắc sâu không phai được.
Thế nhưng anh vẫn bỏ nghề. Ít nhất cũng tạm rời nghề đến khi thắng Tây, giành được độc lập.
Ấy là tại cái phần sự thật còn lại, cái đám mây ám khói chập chờn mà anh không thể tách riêng từng mảnh như tháo máy, không thể đặt cho một tên gọi chung vì nó vừa rắc rối vừa hư ảo. Hít mùi nhà cháy vào mũi, làm sao phân biệt được mùi riêng của cột kèo, chõng tre, bó đũa cùng bốc lửa? Sau nhiêu đêm tự tra vấn nghiêm khắc, cố tìm cách tự phân tích tỉ mẩn đến tận cùng, Chanh đành chịu thú nhận mình dốt đến nỗi không hiểu nổi mình nữa. Anh tự quất roi hành xác, tự khép tội là mang nặng tư tưởng bi quan, dao động, hoài nghi, cá nhân chủ nghĩa, mất lập trường, rất nhiều căn bệnh nữa quyết chữa bệnh bằng những thứ thuốc thật đắng uống liều cao. Rồi tới lúc khác, anh nhận ra mình chỉ mang trong lòng một nỗi buồn chung chung, có thế thôi. Buồn vì trước kia đã quá tin người, quá bốc đồng, quá đơn giản, quá chúi mũi hùng hục, cho đến khi quả lắc đồng hồ vung hết đà bỗng đánh ngược trở lại, quật vào lưng anh một đòn phản phúc...
Các đồng chí chung quanh, từ anh Hai Thỉnh chính ủy Quân tình nguyện đến chú liên lạc măng tơ, ai cũng thấy Cả Chanh là vui tính, giỏi chịu cực, gan góc và rất ham học, bấy nhiêu thôi. Chẳng ai đoán biết cái bầu tâm sự mà Chanh không cố ý giấu nhưng không nói ra, bởi muốn để cho nó tan biến đi trong những thử thách mới.
Tất cả Thường vụ Ban cán sự khu Hạ Lào - Đông Bắc Miên đều áy náy khi nhận điện của liên khu ủy cử đồng chí Phan Chanh làm ủy viên Ban. Nhiều đồng chí biết Chanh từ lâu, bàn nên đề nghị lên trên đưa Chanh vào Thường vụ, không nên xếp ngang với cán bộ tiểu đoàn hay huyện ủy viên trong Ban. Nhưng ngay trong buổi ra mắt đầu tiên tại khu bộ - hồi này cơ quan đầu não đã băng qua vùng biên giới mở toang, xuyên rất sâu về hướng Tây-Nam, đóng lọt thỏm trong một lõm căn cứ giữa vùng địch chiếm - Chanh đã xin được xuống thẳng cơ sở để biết chiến trường mới:
- Các anh hiểu cho, sang Lào tôi là lính mới, lạ nước lạ cái. Ngồi đây, tôi chỉ làm được cái việc nhai giấy tờ nhả ra giấy tờ thôi! Xin cho tôi được tập sự năm bảy tháng đã!
Trung đoàn phó Luyện, người đi chung với Chanh lên Lào suốt nửa tháng, bật kêu như bị ong chích:
- Lính mới à? Anh nói tiếng Lào giỏi hơn tôi, viết cả công văn chữ Lào, còn lội rừng bắn heo nai, đem về còn bày cho bộ đội kiếm các thứ rau núi nấu ăn nữa!
Dằng co khá lâu, rồi Thường vụ đành lắc đầu mà chiều ý Chanh, đưa anh về làm bí thư liên chi Quân tình nguyện tại huyện Phia-phay, sát bờ sông Mê-công. Thất vọng nhất có lẽ là anh Hai Thỉnh. Anh chạy vạy xin bằng được Cả Chanh để phụ trách con đường chuyển quân và tiếp tế từ Nam Quảng Nam lên nước bạn, được gọi là Hành lang Hạ Lào. Mới năm ngoái con đường ấy chỉ chạy xuyên núi rừng đến biên giới Việt-Lào, mất hơn một tuần leo dốc. Giờ đây nó dài dằng dặc và tỏa nhánh hối hả theo gót các tiểu đoàn và đại đội Liên quân thuốn sâu vào ruột vùng địch chiếm, hết sức chật vật rướn qua những tỉnh đất rất rộng và người rất thưa, với đủ thú giặc nổi giặc chìm và hầu hết nhân dân chưa kịp hiểu cách mạng... Chanh cười cười, nói cho qua chuyện:
- Hồi nào làm đường sắt từ bên ta qua đây, anh Thỉnh không ra lệnh tôi cũng chạy về xin việc. Cũng là giao thông vận tải, vậy chớ đứa làm xe lửa đem thà vô chỗ gùi cõng cánh gồng thì chịu bó tay liền. Dốt đui dốt đen!
Sau mươi ngày tìm hiểu tình hình chung, Chanh bám theo liên lạc cứ hướng Tây đi tiếp về Phia-phay, một vùng đất phẳng dẹt lắm bùn lầy và đá ong, voi nhà kéo từng đàn và cá lội nhung nhúc dưới đầm vũng. Một tuần nữa để làm việc với liên chi ủy Quân tình nguyện và ủy ban kháng chiến Lào, Chanh lại đi nữa: đến sống với trung đội tập trung của huyện đang rút về học quân sự, lần lượt thăm bảy Đội xây dựng của ta đang bám mười hai xã vùng giải phóng và vùng tranh chấp, làm quen với hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, du kích, gia đình cơ sở Lào. Mặc dù bị can gián nhiều, anh vẫn thu xếp vượt sông Mê-công ở một quãng rộng tới gần hai cây số, để hiểu dân tình và cách hoạt động ở nơi bị địch giữ chắc.
Trong vài tháng đầu tiên ấy, Chanh nhớ nhiều mà nghĩ ít. Anh cố nhồi vào óc tất cả những gì cần cho việc mới như cậu học trò trong mùa thi, chưa suy nghĩ mấy. Khi gặp những vụ gay cấn, anh chỉ bàn góp nếu đã biết thật rõ, không chắc thì cứ ghi nhận để đấy, không vội.
Như đã hẹn trước, anh chỉ ở lại với Đội xung phong công tác số 6 trong hai ngày đêm, sau đó phải đến gặp đồng chí liên chi ủy viên cùng đồng chí cán bộ huyện Lào đang nắm chung sáu đội phóng qua sông. Chanh sẽ cùng đi với họ đến ba chỗ khó nhất: đội 2 bị phục kích chết ba chỉ còn một, đội 5 có một đội viên Việt đào ngũ theo địch, đội 4 xảy ra lủng củng nặng giữa Lào và Việt.
Trong buổi trao đổi cuối cùng giữa Rừng Mây, cậu Miện, một đội viên trẻ là Việt kiều từ Thái Lan đến, nói ngập ngừng bằng giọng Quảng Bình:
- Em đoán thử ri, chưa chắc trúng... Bác Chum trước tê tốt lắm, có ghét anh em mình cũng là mới đây... chắc tại mình diệt tề chưa phải cách...
- Diệt ai? Mà ai ra lệnh diệt?
- Dạ... ta xử bắn phò bạn[4] Hạt Khẹ cách đây nửa năm, hồi bộ đội anh Khiết sắp sửa qua sông trở về Phia-phay... Một trung đội Việt vô làng chơi ban ngày, tới chiều bị địch đánh úp... khi uống say... chết hai, bị thương năm...
- Tôi có nghe sơ sơ vụ đó, nhưng về sau có xử ai đâu!
- Dạ... anh Khiết cấm chúng em báo cáo. Anh ấy tức điên lên, định hắn cả anh trung đội trưởng. Anh cho một tiểu đội vào Hạt Khẹ ban đêm bắt phò bạn, bảo là địch đánh úp trong làng thì ngụy quyền phải chịu tội, đền mạng. Em can mấy câu, bị một cái tát, anh ấy bảo em mất lập trường, đi bênh kẻ thù. Ông phò bạn... à, tên tê... cãi dằng co một lát, anh rút súng lục bắn chết tươi...
- Ngay trong làng?
- Dạ không, ngoài rừng, cách làng nửa cây số... Anh Khiết là cấp trên, nghiêm cấm rứa, chúng em không dám trái lệnh... Anh Thoong Xẩy mới về làm đội trưởng cũng không biết chuyện ấy... cứ trách chúng em sợ khó sợ khổ, né tránh làng Hạt Khẹ... Dạ thưa, anh về huyện đừng nói là em báo cáo...
Máu bốc dồn lên mặt Chanh, nóng rực. Anh gằn giọng:
- Sợ gì mà quá quắt vậy! Vãi đái trong quần rồi à?
Miện cúi mặt, đỏ dần hai vành tai, nín lặng.
Chanh xuống bếp rót nước uống. Đội không có chè, thường chỉ uống nước suối múc vào nặn tầu, quả bầu khô dùi hai lỗ trên đỉnh để tu. Chanh đến họ mới nấu nước gạo rang cháy cho anh uống. Huyện không có tiền Đông Dương để phát sinh hoạt phí, anh em chỉ sống bằng miếng chín dân cho, mặc áo quần dân cho, và không phải lúc nào dân cũng hiểu cũng thương cán bộ...
Đồng chí Khiết tức Chín Khiết là tiểu đoàn phó, vừa lên tiểu đoàn trưởng, đang làm phó bí thư liên chi. Trong buổi họp khi mới đến, Khiết đối xử với Chanh rất dè dặt, chỉ nghe không nói, nhường đồng chí bí thư cũ bàn giao mọi việc để về nước chữa bệnh. Ở nơi chiến trường hết sức phân tán này, những đội viên như Miện chẳng mấy khi được học tập, được tiếp xúc với đồng đội và cấp trên, chưa chắc mỗi năm được về huyện một lần...
Quay trở lên, Chanh dịu giọng nói với Miện:
- Thôi được, về huyện tôi sẽ giấu tên cậu khi đưa ra kiểm điểm. Có điều đừng sợ quá vậy chớ!
- Anh tưởng em sợ là anh lầm!
Miện trả lời rắn đanh, nhìn xói vào mắt Chanh khiến anh sửng sốt thật sự. Cậu đội viên trắng trẻo có dáng học trò này sao đổi sắc đột ngột vậy?
- Xin nói thẳng anh biết là em không muốn bị những người như anh Khiết quấy rầy, cản trở công tác! Cứ để yên chúng em tháo gỡ, đừng nhảy vô mà hò hét thét lác, tưởng như không đánh chửi đội viên thì thiên hạ không biết mình là ông lớn ấy!... Nhà em trước tê ở Thà-khẹc. Tây đánh chiếm thành phố năm 46, ngày 21 tháng 3, giết hơn một nghìn dân, nhà em chết ba người. Mẹ, chị, em trai... Bố em với hai đứa còn lại bơi thoát qua Thái Lan, làm ăn đã yên ổn rồi, em cứ xung phong sang đây để góp sức đánh Tây... cho nó hả... cho đỡ tức... Anh Khiết tài giỏi chừng mô không biết, chứ đi dân vận thì chỉ có làm dân giận. Dân vùng này hồi đầu gọi là ại Khiết, ít lâu sau đổi kêu là tộ Khiệt, là con nhái!
- Tôi sẽ góp ý với anh ấy...
- Vâââng! Anh sẽ góp ý. Anh Khiết không nghe thì anh cũng nín thôi, phải giữ hòa khí giữa các anh lãnh đạo với nhau mà. Rứa rồi anh Khiết có khủng bố thằng Miện thì anh cũng chả băn khoăn chi: anh đã phê bình mà người ta không nhận, hơi mô lo mãi chuyện vặt, thôi để dần dà rồi người ta nghĩ lại... Em báo trước ri đây: hễ thấy phiền phức quá thì em trở về bên Thái, mấy ngày đường thôi, xin nhập vô các đơn vị Việt kiều về đánh ở Trung Lào hay Thượng Lào. Mô cũng bộ đội Cụ Hồ, mô cũng đánh Tây. Tới đó các anh sẽ gật gù với nhau: biết mà, thằng nớ mất lập trường từ xưa, chừ hắn đào ngũ là tất nhiên!
Chanh điếng người dưới những ngọn roi mỉa mai đến hằn học ấy, thốt ra từ miệng một cậu anh tưởng là quá nhút nhát. Hẳn cậu đã nghiền ngẫm từ rất lâu, nay mới tuôn hết một lần, mà chắc gì đã hết!
Trễ giờ rồi, phải đi thôi. Chanh chỉ để lại mấy lời động viên và hứa hẹn chung chung trước khi rời cái lán nghèo trần trụi nằm chìm trong những bụi mây, song bằng cổ tay chi chít gai cứng. Chim, thú, cả rắn hay kỳ nhông kỳ đà đều tránh không ở rừng mây, chỉ có người cách mạng dám ở. Gai mây làm phiền họ ít hơn những thứ gai gốc kỳ quặc mà cậu Miện vừa kể.
*
* *
Đến khoảng năm giờ, tổ It-xa-la làng Đon Khảm bàn xong mấy việc cuối cùng với anh Pheng cán bộ huyện, ngả sang chuyện làng xóm, họ hàng.
Từ nãy Chanh chỉ ngồi nghe, rất ít bàn góp. Anh cố làm quen với cách phát âm của vùng này khi họ nói đ thành l nhất loạt, bò đạy (không được) biến thành bò lạy. Phải cố đoán mới hiểu hiên là học, là thưa, có thể đọc ra liên hay riên, như cậu thanh niên kia thích rung lưới theo kiểu Thái Lan... Các đồng chí Lào ở Trạm biên chính Hai gần Linh Lâm dạy tiếng Lào cho anh chỉ toàn từ ngữ chính trị thông thái, sang đây anh phải học gấp những tiếng thường dùng trong đời sống hằng ngày ở thôn quê, những lời nôm na gần gũi với người dân thường, những câu tục ngữ hay ví von rất quen đầu lưỡi. Cuốn sổ tay thứ nhất chép đặc chữ Lào tiếng Lào chen lẫn với những báo cáo ghi tóm tắt và giấu tên người tên đất phòng rơi vào tay địch, Chanh đã mở đầu cuốn thứ hai.
Nắm cơ sở làng Đon Khảm chính là chị Lả vợ anh Pheng. Khi làm việc, có lẽ vì Chanh ngồi cạnh nên họ gọi nhau bằng đồng chí, nghe nghiêm chỉnh mà hơi buồn cười. Pheng xuống giọng ngập ngừng và liếc xéo sang Chanh khi hỏi thăm các con, chị Lả cũng trả lời lúng túng bằng một câu “nói chữ” rằng chúng nó được vạn sự như ý. Chắc họ ngượng vì lo chuyện riêng tư trước mặt một anh Việt xa nhà hàng tháng đường núi, không hẹn ngày về, sống như ông sư Hạt-xa-đi khắc khổ tu ẩn trong rừng.
Chanh đứng dậy vươn vai:
- Anh Pheng họp tiếp nhé, tôi ra bờ sông xem cảnh một lát.
Chanh bỏ đi cũng để tránh đôi mắt của cô Xúc Chay, cháu anh Pheng, lần này được giao nắm nữ thanh niên. Mặt cô hao hao giống Thùy, đôi mắt thì giống hẳn, giống hết sức. Chanh bị hút vào đôi mắt đen láy, trong veo với rèm mi dài rủ bóng xuống tận má dưới nắng trưa xuyên qua vòm lá rậm. Càng nhìn càng thấy y hệt mắt Thùy, chết thật, ngắm mãi người ta nghi bây giờ! Anh bấm bụng ghìm mình, chỉ dám ngó thẳng khi Xúc Chay lên tiếng, sao cô ấy nói ít thế...
Mấy ngày qua, dưới mưa dầm tuôn hạt khi nặng khi nhẹ, Chanh bám theo Pheng luồn rừng đi gặp các đội công tác và ghé thăm các gia đình cơ sở đang sống ở trại ruộng, vài tháng nữa gặt xong mới dọn về làng. Ủy ban huyện đã cho anh một sơ-mi xanh trời, một phạ-xà-lùng[5] bằng vải dệt đỏ tím vàng sặc sỡ, một tấm phạ-phe ô vuông đen trắng như khăn rằn Nam Bộ, những thứ dùng cải trang để lính địch hay gián điệp không nhận ra từ xa. Áo quần, sổ tay, đồ linh tinh gói vào phạ-phe thật dẹt, buộc sát lưng dưới vạt áo lai bầu, súng ngắn gài trước bụng có vạt trước phủ. Pheng còn xin cho anh một mũ phớt tã màu nâu đội đỡ ướt đầu, dặn anh đi hơi cúi xuống như người quanh năm bước trên đá ong và gai gốc. Thế là sạch nước cản.
Đi lẻ với Pheng khoái thật. Anh cán bộ xấp xỉ tứ tuần này sinh ra, lớn lên, đi tu tới chức a-chan đều trong mấy làng ven sông này, mãi về sau lấy vợ mới đến ở rể làng đảo Đon Khảm.
Chỗ khác người của anh là rất thích xông xáo.
Hồi ra chùa anh không vội cưới vợ tuy được nhiều cô để ý từ khi còn mặc áo vàng, tóc và lông mày cạo nhẵn, ngồi tụng kinh trên bục cao. Anh ham câu giống pa bức lớn nhất sông Nặm Khoỏng, hệt con cá nheo râu dài nhưng nặng đến ba bốn tạ tây, sáu đến tám người khiêng lặc lè. Nhà anh lúc nào cũng sẵn mấy vại trứng cá pa bức muối chua tuyệt ngon, biếu nhiều hơn bán. Lần khác anh nhập vào một nhóm dùng voi nhà bắt voi rừng bằng thòng lọng, túng kế thì bắt bằng hố bẫy cũng được, đem về dạy mãi cho khôn rồi đánh đi bán tận Trung Lào hay Thượng Lào, mua luôn thuyền và hàng xuôi về. Rồi cao hứng luồn vào rừng thẳm đãi vàng dọc các suối không vết chân người. Rồi rủ bạn đi đâm sấu, câu sấu, một lần bị con lớn quật đuôi gãy xương sườn. Rồi thuê voi khỏe đi mua hàng lậu bên Thái Lan, lọt được vài chuyến, sau đó lính Thái chặn bắn chết mất voi, băng rừng về còn phải trả nợ vay mua hàng và đền tiền chủ voi. Đi lính khố đỏ cho Pháp hơn một năm, nhờ lanh lợi và gan góc nên được lon đội, bị đưa lên núi đánh người La-ven mới vất súng về nhà, bọn chỉ huy không tư giấy bắt mà giữ tên trong sổ để lãnh lương anh bỏ túi... Cứ thế mãi đến khi về ở rể nhà chị Lả, đẻ liên tiếp ba đứa con mới hơi nguội bớt cái máu giang hồ, vừa gặp lúc các bạn cũ đến rủ đi cứu nước.
Chanh mến anh cán bộ Lào có những nét giống cha mình, tất nhiên giống về tính nết chứ thân hình khác xa: Pheng cao gầy, đen sạm, cắt tóc như bàn chải, xăm chàm chi chít từ giữa đùi đến dưới đầu gối “cho cá sấu khỏi đớp”. Anh đeo trên cổ một túi bùa theo anh là rất thiêng, mỗi khi đi ngoài anh phải cởi bùa treo lên cành cây cho khỏi uế tạp, lỡ bỏ quên thì đi xa mấy cũng quay lại lấy bằng được.
Chỉ qua mấy ngày đi chung, Pheng cũng thấy thích đồng chí Chăn-thi. Anh nói bộc tuệch:
- Bộ đội Việt được như anh hết cả, tôi mừng lắm, dân yêu lắm đấy Chăn-thi ơi!
- Tôi có gì mà...
- Có, có nhiều. Anh thật bụng, chẳng phải bên ngoài trơn như trứng gà, bên trong như quả cà ngái, số bà con cơ sở khen anh gần dân, hỏi thăm dân chứ không lấy chân voi mà dẫm mỏ chim. Có điều tôi ưa nhất là anh không phải người Lào mà yêu nước Lào, quý lắm.
- Sao anh biết được?
- Hoại! Thấy anh đi rẫy trước quạ, đi ruộng trước gà, chăm chỉ học từng tí ăn nói gói mở, tôi biết anh gắn bó với It-xa-la chúng tôi, với đồng bào tôi. Người đến ở tạm bợ đâu có làm thế!
Chanh cười xòa, lảng qua chuyện khác.
... Rời khỏi chỗ họp It-xa-la, Chanh lững thững đi xuôi khúc mương xói đã biến thành suối cụt trong mùa mưa, có hai chiếc thuyền độc mộc buộc giấu dưới lá rậm đợi chủ. Bờ sông Nậm Khoỏng hầu hết có bực cao, bên lở cũng như bên bồi. Anh níu tay leo ngược dốc, len lách đến mép bực, ngồi lẫn vào bóng một bụi vầu uốn cong ngọn, thấy đất trời mở rộng thênh thang trước mắt.
Nắng chiều đổ bóng những cây chót vót của rừng già sau lưng và chung quanh anh xuống tít dưới xa kia, in trên bãi dẹt thuộc làng Phôn Khảo nằm khuất mé tay phải. Làng đang ung dung thu dọn bước vào đêm. Bầy trâu dăm chục con ăn rong đã uống nước xong, thong thả đi tới chân dốc, hiện thành những quả sim chín mọng xếp chuỗi trên nền đỏ bầm, gió sông đưa đến tùng lúc tiếng mõ đeo cổ trâu vẳng lốc cốc. Chúng dạt ra nhường chỗ cho một nhóm voi nhà xuống uống và tắm. Dễ nhận ra bác voi cao tuổi gia trưởng với cặp ngà to đã cưa cụt hết và bịt đồng cho khỏi nứt, dù thân gầy da nhăn vẫn đếm bước bệ vệ, kéo sợi xích chân chỉ còn sót một khúc ngắn như mẩu dây chuyền làm dáng. Chàng voi đực to lớn và béo căng kia chắc đang tuổi nghịch phá, phải cõng ông chủ lăm lăm búa trên gáy và lôi sợi xích dài nặng bằng cổ tay. Bà voi mẹ luôn luôn bận rộn vì con, hết bị nó bám quấy lại phải trông chừng khi nó chạy xa. Vui nhất là chú voi nhóc con mới bằng cô trâu mộng không lúc nào chịu đứng yên, vừa chạy loăng quăng đây lại húc đầu vào tìm vú mẹ. Bị mẹ mắng qua tiếng rống ngắn bực dọc, chú lờ, khi bị một phát vòi quất vào mông chú mới nhảy dạt ra, chịu lội xuống nước. Thêm mội lần đét đít nữa chú mới ngập ngừng dựng vòi dìm mình, để yên cho mẹ phun nước từng luồng trắng xóa xuống lưng và đầu.
Sông Nặm Khoỏng quanh năm chở nặng phù sa, trong mùa mưa này càng sẫm màu hơn. Nắng chiều từ rặng núi biên giới Thái Lan đổ đến phủ trên sông một lớp đồng đỏ lóng lánh, khi gió quét mạnh lại hiện thêm vết búa dát kín trên đồng. Sát bờ, những dải bọt trắng vàng men theo dòng nước ngược trôi lên hướng bắc. Nhích ra một quãng là vùng nước xoáy. Khác với xoáy nước sâu hoắm quay tít của sông suối trên núi, Sông Mẹ khổng lồ chảy chậm được viền bằng những chuỗi xoáy rất rộng và nông, những lúm đồng tiền trên làn da rám nắng, vừa sức vượt của con thuyền độc mộc một mái chèo bơi.
Trên sông đang rộ lên đợt thuyền về bến, nhưng giữa trời nước mênh mông thuyền chỉ là những vệt con con báo rằng sông này không hoang vắng. Mấy xuồng đánh cá gần bờ, vãi và kéo xong lượt chài cuối ngày, đang giũ lưới tém gọn. Chiếc xuồng câu kia lại khác, kiếm ăn lúc chạng vạng với một chuỗi dài những quả dừa khô nổi cách quãng dùng làm phao, dây câu buông sâu bên dưới, xuồng thả trôi đợi phao nhảy và chìm mới quạt chèo đến gỡ cá. Những con đò dọc lớn phủ mui, độc mộc cỡ đại hoặc ghép bằng ván xẻ, lắp bánh lái và mái chèo dài, sau một ngày chở hàng xuôi chính giữa dòng đang bẻ lái rẽ chéo vào bến quen nào đó nghỉ đêm, tìm lửa ấm và tình người. Không thoáng bóng một bè tre gỗ nào, người dân quê làm nhà chỉ cần vác rìu ra khỏi rìa làng. Trái khoáy ở đây là chiếc ca-nô máy của lính tuần sông, trước mũi hai lá cờ Pháp và Vương quốc, thỉnh thoảng bắn lên trời một loạt súng máy thị oai khiến lũ quạ giật mình bốc lên khỏi các tán cây ven bờ, đảo vòng kêu quàng quạc.
Tổ It-xa-la làng Don Khảm ra về khi sương mù bắt đầu dâng từ mặt nước ngả sắc nâu non. Làng họ cách chỗ Chanh độ nửa cây số, cồn đất dài giữa sông ấy được viền bằng một bãi ngô khoai đã thu hẹp lại trong mùa nước nổi, với những thuyền độc mộc hai đầu đẽo dẹt hình đuôi cá nằm ngang được kéo nửa thân lên bờ, với những giàn tre phơi lưới xa mép nước hơn. Trên gò cao, nhô lên đột ngột như khu rừng cấm giữa cỏ tranh, những hàng dừa và cau vươn lên ngất nghểu, quét chổi lá trên mây trời. Thấp thoáng bên dưới là những nhà sàn vách gỗ ngói gỗ đã sạm đen hay còn tươi màu, bốc khói thưa thớt vì chủ ra ở trại ruộng phần lớn. Bến làng lúc này gần vắng hẳn, chỉ còn mươi trẻ em chạy đuổi nhau trên một quãng, bãi mới bị nước phủ, trông xa tưởng chúng nhảy nhót trên mặt nước như những thiên thần sắp biến hắn vào màn khói hương trầm.
Vượt sông vào giờ này cũng tốt, trên bờ tây địch còn sơ khoáng, chúng giảm gác tuần và phục kích từ khi biết rõ các đại đội Lào - Việt đã rút hết sang bờ Đông. Thế nhưng chủ lực địch đang càn lớn vào huyện Phia-phay bên kia, cho quân biệt kích Xửa pà (Cọp rừng) và quân địa phương Koong pạp (Đội tiêu diệt) lùng lội nhiều ven đường 13, còn thêm gián điệp rình mò. Chanh và Pheng sẽ được tổ Đon Khảm đưa sang sông khoảng nửa đêm và giao cho một tổ It-xa-la khác dẫn băng ngang đường 13, đến gặp một đội trinh sát bám đường.
Chanh nán lại mấy phút, nhìn theo hai chiếc xuồng ra khỏi khúc suối cụt đang nương dòng nước ngược chèo lên một quãng trước khi băng ngang sông. Lưng áo hồng của cô Xúc Chay chìm vào sương, nhưng đôi mắt của Thùy cứ chập chờn ẩn hiện. Chanh tự nhắc mình quay lại chỗ Pheng đang đợi, nhưng cứ ngồi thêm để gửi nỗi nhớ da diết qua hết chiều rộng của Đông Dương đến căn nhà tranh nhỏ nằm nép trên bờ sông Linh, đến người vợ rất hiền lành đang nuôi trong bụng đứa con thứ hai của anh, ở nơi có voi rống cọp gầm và máy bay gào thét tìm giết hai mẹ con.
Chú thich:
[1] Hộp đan bằng mây hoặc dang, dùng đựng xôi
[2] Mừn: 12 ki-lô-gam
[3] Hày: độ 400 m2
[4] Lý trưởng. Còn gọi là nai bạn.
[5] Phạ-xà-lùng: quần một ống của đàn ông Lào