Chương XI
Một con gà nào đó đập cánh vào tay Thùy vài lần. Thùy lơ mơ tỉnh dần, bị nó mổ tiếp vào vai. Tiếng gọi thì thào sát tai đánh thức chị hẳn:
- Dậy, dậy chị Hai. Đừng nói, đừng động mạnh!
Thùy chớp chớp mắt, xoay nghiêng mặt, thấy Năm Bưởi rướn đầu sang chỗ mình, bấm một ngón tay vào vai mình:
- Thiệt em nghen chị. Em bồng thằng Chung qua nhà hội, chị cũng qua đó luôn. Đừng mang guốc.
Hai chị em nằm chung trên giường tre rộng, đứa bé đặt giữa. Bưởi luồn tay xốc nó, rón rén bước tới cửa, dùng vai nâng cây tre gài tấm cửa chống, lách ra ngoài.Thùy nhẹ chân bước theo, tim đập dồn, chẳng hiểu gì cả. Gà đã gáy nhì, nhưng ánh sáng dưới mưa rả rích chỉ hơi rạng đùng đục.
Đi thẳng đến đầu xa nhất của Câu lạc bộ Thanh niên, Bưởi mới đặt con xuống tấm sạp, nó vẫn ngáy phì phò. Thùy ấn bàn tay lên chỗ đứa con hơn tám tháng vừa đạp trong bụng, giương mắt thay câu hỏi. Bưởi nói tỉnh khô:
- Có con trăn to lắm rúc vô ngủ dưới giường mình...
- Úi trời?
- Đuổi nó cũng được, mà em tiếc. Thịt trăn ngon lắm chị, ăn nên thuốc, xương da dùng được hết.
- Em... em tính bắn à?
- Bắn trúng chỗ mềm, nó chạy mất uổng. Đâm thôi. Chị ngồi trên sạp giữ thằng nhỏ hỉ, để em hạ nó.
Thùy hoảng hồn. Biết Bưởi nổi tiếng gan lì, nhưng người ta bảo con trăn quấn chết được cả trâu bò kia mà. Chị níu tay Bưởi, hổn hển:
- Đừng liều, Năm. Hay là chạy qua lò rèn nhờ chú Tư, thằng Bảy xúm trị nó...
- Sáng ra nó trốn biến còn đâu. Chị đừng chạy, đùng kêu, coi chừng động thai nghen!
Bưởi vẫn hai lay không, quay lại chỗ cửa chống và lách gọn vào nhà. Chỗ đầu giường có khẩu súng kỵ binh Nhật và một cây giáo, kiểu giáo lưỡi rộng bản lắp cán cau rừng do ông Tư rèn hồi Tổng khởi nghĩa. Bưởi sắp đánh vật với trăn trong căn nhà đóng kín cửa ấy, còn Thùy chỉ ngồi tít đằng xa này với cái bụng chửa vượt mặt. Chị nín thở ngóng từng tiếng động nhỏ, vừa sợ vừa xấu hổ cho mình.
Huỵch! Ùng! Rắc rắc rắc! Uỳnh! Sạt! Xoàng!
Thùy đè tay lên ngực, kêu rít trong cổ. Thằng Chung cựa mạnh, kêu mẹ, mắt còn nhắm. Chị cúi ôm nó vào tay, dỗ nó mà cũng lấy hơi người cho mình đỡ khiếp.
Những tiếng trâu điên húc nhau dường như kéo dài hàng năm, rốt cuộc cũng dịu dần, tắt hẳn. Bưởi chống cao tấm cửa lên, đánh bật lùa châm đèn, mở thêm cửa sổ, kêu to qua hơi thở còn phì phò:
- Xong rồi chị Hai, vô coi! Con này dai sức gớm!
Lưỡi giáo ngắm kỹ từ trên đâm xuống đã xuyên ngang thân con trăn, xắn gãy xương sống và đóng đinh nó xuống nền đất nện. Hai nửa thân nó vẫn quật rất dữ, hất cái giường tre tung lên đập xuống trong khi Bưởi đu cả người lên cán giáo như người cắm cắm sào trên đất bãi cứng. Mãi khi nó vùng quẫy đã yếu, Bưởi mới vọt tới góc nhà vớ cây mác bén, rình chặt được cái đầu đang rướn cao, há toang hoác. Nó chỉ hất đổ tấm phên chắn đầu giường, làm vỡ một cái âu đất nung và đứt sợi mây treo áo quần, chưa động tới cái máy may bên cửa sổ. Hú vía!
Thằng Chung thấy con trăn đầy máu, khóc thét lên, nhào tới ôm mẹ. Bưởi nắm hai vai nó, xoay cho nó nhìn vào con vật dữ lúc này còn giật và cựa nhẹ:
- Sợ gì hả con. Ngó cho quen mắt đi, tập cho dạn đi!
Bưởi cầm bàn tay nhỏ xíu đập đập trên khúc thân xám mốc to bằng cây chuối. Đứa trẻ bớt sợ, chỉ sau mấy phút đã lấy chân hẩy, đạp, xéo cái xác ngoằn ngoèo, cười rinh rích.
Kéo được con trăn sang nhà Câu lạc hộ và thu dọn xong bãi chiến trường vung vãi máu thì trời đã sáng rõ. Mưa giảm đi một lát, lại xối rào rào. Bưởi thay cái áo cọ vào vách lấm đất và dính máu văng lốm đốm, bảo Thùy:
- Bây giờ mới cần người phụ, chị ơi. Lột da xẻ thịt mất công lắm. Để em qua lò rèn kêu người, với lại trút luôn mấy cái đó. Chị nấu cơm nhiều nhiều nghen... mà thôi, làm một nồi cháo thiệt to, lát em xẻo trước một khúc trăn xắt bỏ vô, ai tới thì ăn.
Bưởi xách cái giỏ to, choàng tơi lá, thoăn thoắt ra đi dưới mưa. Thùy nhìn theo cô em chồng, thương quá mà chẳng biết nói sao. Bé Chung quen tính mẹ, không bao giờ đòi đi theo, chỉ lũn cũn theo túm áo “mẹ xùi” kêu đói. Thùy lấy nửa chén khoai chà, cạo đường đen vào trộn lẫn, đưa cái thìa đu-ra nhỏ anh Chanh làm riêng cho cháu. Nó ngoan ngoãn xúc ăn, bi bô hỏi mãi về con trăn trong khi Thùy nhóm bếp.
Nhà Thùy không còn điện nữa. Ban quản trị Quỹ tổng động viên đến đong mang đi một nửa số thóc, chỉ có mười ba ang tất cả, thu sáu ang rưỡi đúng. Ba Mít tức Hùng Minh nói tình cám khá dài, cho chị được tự chọn, nộp máy may hay máy phát điện cùng tất cả dây bóng tùy ý. Tất nhiên chị giữ lại cái máy may. Mới tháo dỡ thôi mà mấy cậu thanh niên đã làm vỡ luôn hai bóng điện, kêu ầm là giòn như bánh tráng. Hiện nay máy điện đang bị bỏ xó trong một kho tạm ẩm ướt, dây điện thì vợ Ba Mít đem buộc phơi áo quần tuy dây mây vùng này rất sẵn.
Năm Bưởi sửng cồ lên khi Hùng Minh đòi thu cây súng Nhật:
- Tỉnh thưởng súng cho tôi viết giấy đàng hoàng, anh coi một lần rồi chớ! Ai cả gan đụng tới thử, tôi thách đó!
Phó chủ tịch Hùng Minh mở đầu một bài diễn thuyết dài. Năm Bưởi thắt nịt đạn, đeo súng, giao con cho chị Thùy và bỏ đi thẳng. Mấy cậu thanh niên theo Hùng Minh cũng lảng. Thùy xin lỗi và đạp máy may sửa tiếp mấy bộ quân phục của anh em xưởng Cao Thắng gửi. Hùng Minh chào vớt một tiếng, biến luôn.
Từ đó câu lạc bộ Thanh niên vắng dần. Vì thiếu ánh điện hấp dẫn, cũng vì mọi nhà đều lấn bấn với Quỹ tổng động viên và Nông đoàn.
... Cái nồi năm bằng đồng đúc đã bị thu vào quỹ, Thùy nấu ba lon gạo cháo trong thùng tôn gò, quà tặng của anh em xưởng Cao Thắng, đợi lửa cháy to ngọn, chị xoay sang xắt chuối cây cho cặp heo trong chuồng, một con đã ghi sổ nộp quỹ cùng với năm con gà, chưa biết hôm nào Ban quản trị sẽ cho người bắt. Thùy ấn từng nhát dao nặng nhọc, thỉnh thoảng đưa tay đỡ chỗ bàn chân con đạp mạnh trong bụng hay nắn nắn bàn chân xuống máu tê dại. Chị không biết mình sẽ xoay sở ra sao nếu thiếu Năm Bưởi ở chung, thiếu ông Tư Chua, thằng em Bảy Bòng, bà con xóm Mới hàng ngày đảo qua tạt lại trông chừng, cả anh em quân giới và du kích Linh Lâm đến chơi. Ai cũng vậy, miệng hỏi thăm mà tay cứ táy máy làm giúp một việc gì cho người bụng mang dạ chửa, lại là vợ anh Cả Chanh đi đánh giặc rất xa.
Mưa kéo dài đã hơn một tháng, nghe bảo còn tiếp đến cuối tháng Mười âm mới ngớt. Chẳng hiểu ông trời chứa nước ở đâu mà tưới xuống liên miên quá thể. Những đỉnh núi phía tây mới dạo nào chỉ đội mũ mây trắng trên chỏm, chuyển sang choàng khăn xam xám quanh cổ, nay khuất hẳn bên trên tầng mây sũng nước đè trĩu xuống sát đất. Lớn lên ở cửa biển Quy Nhơn, Thùy đã quen với tiếng ầm ào vỗ đập của biển động dưới mưa, rất khác với tiếng rì rào êm ả của mưa rơi trên làng quê đồng bằng. Nay Thùy mới lần đầu sống trong mùa mưa núi, chị không ngờ nó hung tợn đến vậy.
Con sông Linh trong vắt chảy róc rách trên cuội dẹt và trơn bóng bây giờ phình lênh thành thác bùn nâu đỏ, gầm rống suốt ngày đêm không ngớt, từng lúc phát những tiếng nổ như mìn ném cá. Cây to trốc gốc lao xuống thông thốc, vấp ghềnh đá nẩy bật lên hoặc xoay tròn vài vòng, phóng tiếp. Mấy chỗ hốc núi hõm sâu vào, trong tháng hạn nằm rất cao bên trên dòng nước, nay hiện thành những vịnh đầy hố nước xoáy, lôi củi rều và bọt bùn dìm xuống đáy một lát lại hất ngược trở lên. Tất cả thuyền đò ở vạn Linh Lâm đều chống vào đậu chỗ cửa khe Cốt lúc này tòa rộng ra nhưng lặng nước hơn sông Linh, buộc dây dài vào một gốc cây nào thật chắc và mọc xa trên bờ, phòng lũ đổ xuống đột ngột đêm khuya. Đường thủy tạm ngừng, nhưng bộ đội, dân công, người buôn gánh hay xe đạp thồ vẫn lên xuống đều theo đường tỉnh 56.
Bước vào mùa lũ lụt, Thùy bối rối bao nhiêu thì Năm Bưởi và Bảy Bòng thoải mái bấy nhiêu. Gạo củi mắm muối đã trữ sẵn - nộp quỹ xong phải nấu giảm gạo, nhưng sắn trên rẫy đã to củ, ghế được - hai chị em chia nhau kiếm cá thịt. Khe Cốt lắm bùn, các loại cá tràu, rô, trê đón mưa đầu mùa ngoi lên ào ào, dòng nước to nhỏ nào cũng sẵn cá trườn rạch đến trầy vi rách đuôi, chui thẳng vào miệng đó đơm xuôi. Với mươi cái đó và lờ, có hôm Bưởi trút đến nửa tạ cá, ăn và biếu xong còn sấy để dành. Ngớt đợt cá vảy đen ngược đẻ, chị em làm đăng chặn ngang suối ở nơi chảy êm, cắm câu từng chuỗi vài ba chục cần nối vào nhau ven các bờ xoáy đục.
Bảy Bòng chắn cá, lùng bắt rắn. Rắn chạy lụt rời hang hốc dưới thấp, bò lên rẫy lên gò, đôi khi chui bừa vào chuồng heo gà. Chỉ với cái chũi bốn răng sắt lắp đầu sào và mớ dây thòng lọng. Bòng xách rắn về treo sống trên sợi mây phơi áo có khi đến bốn năm con, đợi cha đến cắt lấy huyết pha rượu thuốc trước khi nấu nướng. Ông thích nhất các thứ cực độc như mai gầm, cạp nong, hổ lửa, hổ mang, hổ mây. Rắn càng độc, huyết và thịt càng bổ.
Thú rừng bị nước phủ các bãi quen ăn, liều lĩnh mò vào rẫy, trúng bẫy kẹp liên tiếp mấy con nai, mang. Rồi chúng khôn ra, nhảy và chui qua rào, luồn lách tránh bẫy và chông ngày càng thạo. Năm Bưởi giữ rẫy ngủ quên trên chòi cao, để heo rừng bầy vào ủi sắn hai đêm, hại nhiều, cô tức quá, lấy mủ mít dán hai con đom đóm vào khe ngắm và đầu ruồi cây súng Nhật, mang tơi đội nón tùm hụp, cố rình mãi, mặc cho muỗi đốt và vắt cắn, rót cuộc bắn được một heo đực to, đổi thịt được khá nhiều thóc.
Về ở nhà chồng, Thùy thấy mình quá vụng dại đối với đời sống vùng núi. Anh Chanh mới đầu cũng lóng ngóng, nhưng anh học theo mọi người rất nhanh, việc gì xem qua vài lần đều làm được. Thùy bận may vá kiếm sống, lo cơm nước, lại phải nương nhẹ giữ thai, bắt chước sao cho nổi. Mỗi lần Thùy ngượng ngùng than thở, Năm Bưởi lại gạt phắt:
- Em học may được nhu chị còn mọt xương. Ai cũng khen chị siêng, chịu khó, tánh nết thiệt là hiền lành, không như chị Ba Song vừa tham vừa nhác, cũng không gai ngạnh cùng mình như con Bưởi này. Chị biết đó, họ nói giống bưởi có gai từng chỗ thôi, còn em thì lởm chởm dễ sợ, kêu là Năm Nhím cũng phải!
Thùy cười rũ. Chẳng biết cậu nào độc miệng gán cho Bưởi cái tên ấy mà cả xã đều biết. Hôm nọ mấy anh bộ đội đến bàn việc với nữ du kích, thật thà hỏi Thùy nhà chị Năm Nhím ở đâu. Cha mẹ đặt tên móc nôi xấu xí cho dễ nuôi, lớn lên các cô mới đổi tên đẹp, cũng có người giữ nguyên.
Hồi Bưởi mới vào Quảng Ngãi với cây súng Nhật và cái thai trong bụng, Thùy rất gờm cô em chồng băm bổ ngổ ngáo này. Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng, là đi một đằng. Tính nết của Bưởi lại ngược hẳn với Thùy, ngược từng li từng tí, ở chung với nhau, e rằng như dùi với mõ. Nhưng tính Thùy xưa nay vẫn quen tìm chỗ hay chỗ tốt của người khác và nín nhịn khi trái ý, nên lần hồi Năm Bưởi mến chị dâu và mát nết đi. Lại thêm anh Cả Chanh góp sức vào với cái oai của anh trưởng nam và ông thầy cách mạng nữa, khiến Bưởi ngay trong những cơn ghét đời và chán sống nhất cũng không dám trở chứng quá quắt. Đến khi anh chị cùng thu xếp vụ “cưới giả” tạm ổn, về Linh Lâm giữ Bưởi ở chung và săn sóc Bưởi suốt kỳ sinh nở, thì Bưởi biết mình sẽ gắn với anh chị suốt đời. Vẫn sừng sỏ với người ngoài đấy, nhung với chị Thùy lại rất nhũn, ai thấy cũng ngạc nhiên.
Trong gia đình ông Tư Chua mấy năm qua có những biến đổi thầm lặng.
Anh Tư Quýt lấy chị Ba Song ở xóm Vạn, con một ông chủ đò dọc hạng khá giả. Trước ông này do dự không muốn gả con vào nhà thợ rèn ít của hơn, lại dây dính với cộng sản. Về sau thay bực đổi ngôi, ông Tư làm chủ tịch, lò rèn kiếm được khá tiền, trong khi nghề đò dọc bị ế ẩm và quán tạp hóa của chị Ba Song thu lãi cò con không đủ đút miệng, ông mới đánh tiếng chịu gả. Chị Ba trắng da, mập gói[1], tóc dài chấm gót, răng đen nhức, nói năng khôn khéo ít ai hằng. Chị đẻ ba năm đôi, được hai con trai cả, uy thế trong nhà vọt lên hẳn. Và chị bắt đầu làm những việc đã tính toán kỹ khi mới về nhà chồng.
Từ lâu Tư Quýt cho mình là người nuôi cả nhà mà bị coi rẻ, nhưng chỉ từng lúc phàn nàn chua chát thôi. Chị Ba tỉ tê nói lợi hại nhiều đêm, Tư Quýt xiêu lòng, bàn với cha mẹ chia bếp riêng, về sau làm hẳn một nhà riêng ở cuối vườn. Để yên yên ít lâu, rồi chị Ba bàn với chồng đòi chia lò rèn, chia ruộng. Bộ đồ rèn của ông Tư Chua được góp nhặt rất nhiều năm, có nhiều dụng cụ quý ông kiếm về hoặc tự làm ra, anh em quân giới Cao Thắng lắm lúc phải đến rèn nhờ. Tư Quýt tưởng dễ, một tối đem ra nói đúng lời vợ khuyên. Ông Chua trừng mắt, nói như dao chém đá:
- Hồi nào hấp hối, tao mới chia gia tài. Hễ tao chết không kịp trối thì mẹ mày với anh Cả mày đứng ra chia, sao cho đều bảy phần. Mẹ một phần, sáu đứa con sáu phần. Hay mày muốn lấy bây giờ thì cứ xẻ ra làm bảy, tao cho. Sao?
Tư Quýt biết hớ, rụt lại ngay. Cả nhà lạnh đi nhiều đối với vợ chồng Tư Quýt. Cha và con vẫn thay nhau ngồi lò như cũ, nhưng chị Ba đi đòi tiền riêng những thứ chồng mình rèn, lại tính giá đắt. Dân làng từ đó chỉ chọn ngày ông Chua ngồi lò để kéo đến thuê rèn, tự ý trả thóc và tiền ngang giá chị Ba. Họ vẫn thích ông Chua tài hoa và dễ dãi, làm hàng bền đẹp.
Khi vợ chồng Cả Chanh cùng Năm Bưởi về ở Linh Lâm, gia đình ông Chua vui hẳn lên, còn vợ chồng Tư Quýt hoảng hốt thật sự. Ông anh cả “quyền huynh thế phụ” sẽ chiếm hết, chiếm sạch! Mà nếu ông ấy ăn lương thượng cấp, không cần đồ rèn hay ruộng đất gì, thì vốn tính ngang bằng sổ ngay ông ấy sẽ chia “bằng đẳng” nhu đã nói nhiều lần, coi con trai cũng như con gái, đẻ trước ngang với đẻ sau, Tư Quýt chẳng hơn gì con Út Thanh Yên mới lên bảy, đêm còn đái dầm!
Cơn sợ hãi ấy giảm dần khi Cả Chanh được xã tạm cấp khoảnh đất của lão Xâm Tô đã chạy theo thuốc phiện về Hội An, các đoàn thể xúm lại giúp làm nhà, trồng vườn, trỉa rẫy. Chanh không tranh giành, còn dỗ Tu Quýt học nghề cho giỏi để thay cha. Ông Chua nghe khuyên chỉ cười khẩy, về sau nói với Chanh:
- Nó ngồi chủ lò thì cha mẹ với em út lo sắm bị gậy, đi ăn mày lẹ lẹ!
Rất nhanh, căn nhà nhỏ của Chanh và Thùy thu hút cả nhà ông Chua, từ khi có điện và dựng hội trường thì cả thôn đến. Người ta kéo tới họp, đưa đồ may vá, nghe anh Cả giảng chính trị hay dạy văn hóa, nghe đọc báo và bản tin chép theo đài của anh em Cao Thắng. Ông Chua muốn qua ở hẳn với con trưởng, cân nhắc mãi lại thôi: Chanh sắp đi xa, ông ở với nàng dâu vắng chồng dễ bị miệng tiếng thế gian. Bà Tư chán chị Ba Song, nhưng còn phải trông hai cháu nội và lo nhà cửa. Chỉ có thằng em Bảy Bòng vui đâu chầu đấy, ngày thả trâu và kiếm thúc ăn, đêm nào không coi rẫy hay ngủ với du kích thì lại về chỗ chị Thùy, người chị dâu mà nó thấy hiền và đẹp nhất làng, lại rất cần được nó che chở. Về cái khoản nhan sắc thì Thùy sút đi nhiều vì mang thai nhưng các cụ dè dặt nhất cũng nhận là “coi được người lắm” và tiếp liền là lời khen chị tốt nết.
Xắt chuối cây nửa chừng, Thùy đổi ý, hốt chuối đem trút vào máng heo cho chúng nhai tạm đỡ phá chuồng, đội nón ra vườn hái thật nhiều rau thơm. Chị ngồi xổm chứ không cúi được, nhích cặp chân xuống máu tê dại dọc luống rau mà ngắt ngọn.
Chợt có tiếng quát to phía cửa nhà hội:
- Tránh ra! Tránh! Con trăn bò giữa nhà kia!
Tiếng lên đạn lách cách tiếp liền. Thùy vội quay mặt lại, gọi dồn:
- Đừng bắn! Trăn chết rồi, chếếết rồồồi!
Thoáng bóng mấy anh bộ đội đứng trước cửa, một anh chĩa súng ngắn lăm lăm. Thùy đi vội sang nhà hội, đứng sững:
- Anh Năm Chò! Ôi chao, trông anh miết... Ai nữa kia? trời đất, ba, ba với thằng Khiêm!
Thùy rủn hai đầu gối, ngồi ghé xuống đầu chiếc ghế dài ghép bằng tre, bật khóc hu hu hình như lâu lắm. Chị nghe loáng thoáng những lời dỗ dành, thăm hỏi, khi hoàn hồn lau mắt thì nhà hội đã đông người, hai ông bạn cũ Tư Chua và Hai Rề đang vỗ lưng nhau bôm bốp, cười vang nhà.
Bên lò rèn kéo sang tất cả, chỉ thiếu vợ chồng Tư Quýt. Đông tay hơn hay làm, ai cũng gạt Thùy ra để chuyện trò với cha và em cho thỏa. Khác thường nhất chỉ có anh chàng Năm Chò, vẫn vuông vức và đen như cái tủ gỗ mun, không già đi chút nào so với lần gặp ở Quảng Ngãi hai năm trước, nhưng cái dáng rụt rè khép nép kia thì chưa từng thấy. Anh rút dao găm góp tay xẻ thịt con trăn, nghe Thùy kể đi kể lại chiến công của Năm Bưởi không bỏ sót một tiếng, mà cũng ngậm miệng không thốt ra một tiếng, chỉ nhiều lần đưa mắt nhìn ra cửa.
Năm Bưởi về, cái giỏ đầy ngoắc vào bắp tay, còn lót tơi lá vác trên vai một cái đó nặng, nói trước cửa:
- Ai lấy giùm cái rổ sảo ra trút cá, nhiều quá, đựng giỏ không hết! Mau chút, để đặt lại cái đó, cá đang lên!
Nghe cha gọi, Bưởi vào chào bác sui với em Khiêm lúc này đã nhập ngũ. Nhác thấy Năm Chò, Bưởi vụt đỏ mặt, chỉ lúng búng một tiếng không rõ và quay đi. Trút xong cá, Bưởi gọi Bảy Bòng giục mang đó đi đơm, ra sau nhà rửa vội dưới vòi nước máng, tót vào buồng, trở ra với bộ quần áo đẹp nhất, khẽ phân trần với Thùy:
- Đồ mới thay, bị cá nhỏ nước tanh rình... Ngớt mưa rồi, em xuống khe làm cá đây chị, chắc phải sấy thôi.
Lát sau, Năm Chò rời chỗ hai cái nong đầy thịt trăn, lặng lẽ đi xuống khe Cốt. Thùy đang đun bếp, ngó theo mỉm cười một mình. Đám này coi bộ nên chuyện. Năm Chò đã gửi cho vợ chồng Thùy một lá thư dài đầy lỗi chính tả nhưng hết sức thật thà, vạch tội mình khi cầm súng cho đế quốc sài lang, kể những cố gắng sửa mình gần đây, kết thúc bằng lời tỏ tình với Năm Bưởi, nhờ anh chị nói lại giùm sao cho khéo.
Anh Chanh đưa luôn thư cho Bưởi đọc. Bưởi mượn nó giữ vài ngày, khi trả vẫn lạnh như tiền. Mãi mươi hôm sau Bưởi mới nói riêng với Thùy:
- Phận em là đứa sút cay gãy cán, báu tốt gì mà làm cao hả chị. Có điều em sợ tới mai hậu ảnh biết hết sự thiệt, ảnh khinh em là đứa học lừa, rồi cũng tan rã thôi chị ơi... Gác đó đã, tới khi gặp ảnh sẽ hay.
Chanh viết thư báo lại Năm Chò nên gặp Bưởi, ý cũng muốn Chò trông thấy bé Chung, đứa trẻ rất xinh mà người mắt kém nhất cũng nhận ra là con Hai Khánh. Nói thật hay không tùy Bưởi. Quen tính khí cô em, Chanh và Thùy đều đoán là Bưởi sẽ nói thật trăm phần trăm.
Hai ông thông gia đang chuyện trò giòn tan trên sạp, nhấm nháp rượu thuốc với đĩa thịt trăn xào rất nhiều nghệ và rau thơm. Hai dáng người trái nhau, ai nhìn kỹ sẽ thấy ông Hai Rề quen ngửa ngửa đầu và ông Tư Chua lại hay cúi cúi như luôn coi chừng tấm sắt trên đe.
*
* *
Anh Ba Mậu cưỡi con Hường của cụ tú Đỉnh, cậu tiểu đội phó cảnh vệ cưỡi con ngựa loét lưng chưa lành hẳn không đặt yên được, cùng về huyện họp, gặp ngay một cảnh rối tinh.
Địch tung quân càn lớn từ quốc lộ 1 thốc lên Thăng Bình, Quế Sơn, đồng bào gồng gánh chạy dạt lên Tây Quảng cả chục ngàn. Một đơn vị huấn luyện hơn ba trăm tân binh cũng chuyển về Tây Quảng. Các kho thóc trong huyện cạn sạch, gạo nuôi quân mới nộp được một nửa mức trên giao, Ban cung cấp của trung đoàn 108 hằng ngày đến thúc nợ. Giữa lúc túng quẫn ấy, gián điệp lại dò ra và báo cho địch ném bom trúng y cơ quan huyện đóng trong một làng khuất vắng. Chủ tịch huyện bị thương nặng, có thể phải cưa chân. Huyện đội phó cùng ba cán bộ nữa chết cùng chỗ, bom rơi đúng hầm. Bí thư huyện ủy đang sốt rét, ngồi trùm chân dựa phên nghe báo cáo và giao việc. Huyện đội trưởng đưa đại đội địa phương huyện đi phối họp chống càn vùng Đông huyện Quế Sơn, không về được.
Anh bí thư cắt ngang bản báo cáo quá dài của Ba Mậu bằng giọng lễ phép đối với người hơn mình cả tuổi đời và tuổi Đảng.
- Dạ. vậy rõ rồi... Thắc mắc nhứt định là nhiều. Ác cái, bộ đội năm nay đông quá thể mà gạo hốt trơn. Giấy bạc tín phiếu in ra tới đâu mất giá tới đó, dân để lúa đổi hàng chớ không chịu bán. Trên tính sang năm sẽ đặt thuế nông nghiệp, thu bằng lúa tiện hơn... Thôi nhờ anh làm gọn cho cái thí điểm Linh Giang, cốt sao dân đừng than oán, thu được chừng vài chục tấn lúa với một số heo thịt cho bộ đội ăn đã. Hễ thấy ổn thì ta làm rộng ra toàn huyện. Còn cái vụ nông đoàn thì đừng ép, để bà con tự nguyện đưa trâu bò nông cụ vô... Chà, lại lên cơn nữa đây!
Ba giờ sau ngớt con, anh bí thư ngồi dậy, vừa bóp đầu cho đỡ nhức vừa thông qua rất nhanh những đề nghị của Ba Mậu, được trình bày như đề nghị chung của Đoàn chỉ đạo thí điểm và lãnh đạo xã Linh Giang. Hùng Minh hăng hái, có trình độ chính trị và chuyên môn vững, văn hóa khá, sẽ làm bí thư kiêm chủ tịch xã. Bác Mười Áng ủy viên kinh tài, giàu kinh nghiệm sản xuất lại giỏi tính toán, làm quản trị trưởng nông đoàn. Ông Tư Chua không quen làm hành chính nhưng thạo nhiều nghề, đã tự nguyện vào nông đoàn, sẽ nắm xưởng rèn và mộc. Đến Tám Doãn thì Ba Mậu dè dặt hơn. Cậu ta vốn là huyện đội phó bị thương phải nghỉ, lại chống kịch liệt các việc Ba Mậu đề ra, chắc đã kiện cáo nhiều với huyện ủy. Bị hất khỏi ghế bí thư xã, tránh sao khỏi cậu làm toáng lên... Nhưng anh bí thư huyện ủy gạt ngay vật cản ấy:
- Tám Doãn phải về huyện gấp, nhận lại cái chân huyện đội phó ít lâu nữa, đợi kiếm người thay. Để tôi viết ít chữ khuyên nó. Tánh nó hay lý sự ngang phè, được cái làm việc tận tụy, đánh giặc cũng gan lì tướng quân, anh em phục lắm đó.
Trước khi trở lên Linh Giang với mấy bản quyết định mới, Ba Mậu ghé thăm nhà. Vợ con anh đã lần lượt trở về Tây Quảng để trông nhà cửa ruộng vườn, cũng để thoát cái cảnh sống nhờ mà anh thấy xấu hổ. Thà ở chuồng heo còn hơn theo bên vọ, hồi chạy loạn chẳng nói làm gì, nay đá rõ là Tây không rướn nổi tới Tây Quảng, anh lại trở về nhận chức phó chủ tịch huyện, để vợ con nấn ná đất Quảng Ngãi cũng phiền. Nhiều đồng chí ở huyện bàn ngoài lề rằng nếu anh chủ tịch mất sức hay phải cưa chân thì ắt ông Ba sẽ cáng đáng thôi, ai mà thay nổi, chưa vô huyện ủy thì đưa vô luôn, khó gì, nay mai ổng còn lên tỉnh ủy kia.
Cả nhà đều kêu anh mới đi vùng núi nửa tháng mà đã gầy và sạm đi. Chị vợ sai con sang làng bên cắt ngay cho anh mươi thang thuốc bổ đã gửi sẵn toa ở ông thầy lang trong họ, bắt ngay cặp bồ câu ra ràng hầm hột sen ép anh ăn một mình. Hàn huyên đủ chuyện đến khuya, chị gài chốt cửa buồng và nói vừa đủ nghe:
- Cách đây đâu năm bảy ngày có anh trẻ trẻ tên là Bảy Suyền, cán bộ gì đó ở tỉnh ghé thăm nhà, đưa em một cặp xuyến vàng sáu chỉ, nói là cụ tú gì đó ở chỗ mình đang kinh lý gởi tặng riêng mình...
Ba Mậu sững người, ngồi lặng. Chị vợ mở cái rương bọc kẽm từ thành phố chở về, lắp khóa chữ, lấy ra một đôi xuyến mới cọ lại sáng chói, xoay trở dưới ánh đèn dầu, trầm trồ:
- Vàng này mua hồi Tây, có đóng dấu tiệm Tây ở Sài Gòn đúng độ vàng cửu. Kiểu chạm hơi xua, vậy chớ bây giờ người ta chuộng đồ xưa hơn đồ mới, được giá lắm, chắc phải ngang vàng thập. Để làm của hơn, bán lấy tín phiếu ít lâu nữa thành giấy lộn... Cụ tú gì đó nói hâm mộ mình lắm, cũng công tác ở huyện như mình mà cứ là phục riêng mình thôi. Cụ ủng hộ Chánh phủ nhiều rồi, còn bao nhiêu của cụ đem tặng riêng thôi. Cụ còn nhờ anh Suyền nói lại cái tích đời xưa ông này đờn, ông kia khen hay, em chẳng nhớ. Tính để mình coi rồi đem chôn luôn với bốn lượng vàng lá, hai lượng rưỡi vàng đồ của nhà...
- Thôi, dẹp đi!
Đến lượt chị vợ ngẩn ra. Bổng lộc chạy vào tay êm ru sao anh ấy nổi cáu? Nhiều lần người ta đem quà tới biếu, cân chè hay cặp vịt, ảnh chỉ nói đôi câu cho phải đạo rồi kêu con đem cất kia mà? Vốn quen đón ý chiều lòng chồng, chị xoay vội sang chuyện khác:
- À em quên chưa nói... Con Chín Lụng ở mướn nhà ta, em đuổi rồi, gần đây nó sanh thói gian, giã gạo khuya hay giấu lén đùm gạo đem về. Mỗi lần vài lon thôi, mà lâu cũng thành ang thành thúng. Còn mẫu rưỡi ruộng cho lão trùm Nhợ làm rẽ, em tính chuyển qua cho mụ Hai Nền làm. Lão Nhợ bạc bẽo lắm anh à, chia tô xong là không lui tới nữa, còn nói bướng là lấy một nửa mồ hôi nước mắt của lão chưa đủ sao...
- Thôi mình ơi, nhức đầu quá lắm!
Bị ngắt lời lần nữa, chị vợ sập mạnh nắp rương tỏ ý bực tức, vặn nhanh các vòng khóa chữ, bỏ ra ngoài soát lại cửa ngõ. Ba Mậu thả màn nằm quay mặt vào tường, nhắm mắt cố ngủ, khi vợ vào còn vờ ngáy để khỏi phải nghe chuyện, nhưng rất nhiều mẩu câu đoạn lời cứ cồn sủi lên trong anh như bọt thác... Vàng hối lộ của phủ Đỉnh. Thay thế chủ tịch huyện. Con ở ăn cắp gạo phải đuổi. Anh em phục Tám Doãn lắm đó. Đổi cho trùm Nhợ lãnh canh. Ông Ba Mậu còn lên tỉnh ủy nữa kia. Lấy một nửa mồ hôi nước mắt chưa đủ à... Vàng xưa bây giờ được giá lắm. Ông này đờn ông kia khen hay...
Thì đã sao nào? Đã sao? Làm cán bộ ăn cơm nhà vác ngà voi, ai mà khỏi nhờ gia đình nuôi thêm? Biết bao nhiêu cán bộ giỏi phải rút lui vì quá túng đói, kiệt sức, về cuốc đât nuôi heo. Mình trụ được tới bây giờ là khá rồi. Độc lập xong, hễ người cày có ruộng thì cán bộ cũng có lương đủ nuôi mẹ già con nhỏ, mình bán nhà ở quê về thành phố là ổn, hết eo xèo.
Nhưng... đôi xuyến của phủ Đỉnh... Nặng đây, nguy hiểm đây. Đổ vấy cho vợ được không nhỉ... “Tôi lo chạy công tác quanh năm, biết gì đâu”. Mới nghĩ mà đã thấy chung quanh toàn những cái đầu đang lắc. Hồi ở sở hỏa xa, mấy tay tâm phúc thỉnh thoảng giúi cho anh cây bút Pa-ke, hộp thuốc bổ, bộ xích lip xe đạp, cao nhất chỉ một lần cái đồng hồ Ni-cơ-léx, kèm một câu đãi bôi: “thấy anh đang cần, biếu anh dùng”. Anh đón biết nhưng không bao giờ hỏi về nguồn gốc món quà, để sau này có thể trả lời đúng sự thật là “nào tôi có biết nó kiếm đâu ra”. Trong kháng chiến, bà mẹ sắm đồng hồ cho con nhập ngũ, bạn bè tặng nhau cây bút máy, cán bộ mua rẻ phụ tùng xe đạp của đồng bào từ vùng địch chiếm ra được phép mang hàng đủ một người dùng, chẳng ai để ý những thứ vặt ấy. Lần này khác hẳn. Hối lộ rõ quá. Anh bao che cho phủ Đỉnh, nếu không thoát hẳn Quỹ tổng động viên thì cũng kịp bán chạy tất cả các thứ có thể phải nộp. Thoát càng nhiều, lễ tạ sẽ càng hậu...
Anh vỗ bép vào trán. May là chị vợ đã ngáy, không mở tiếp cái máy hát với những đĩa cũ mòn.
Làm quan lâu năm có khác, lão đút lót khéo vô cùng, chỉ nhắn một lời văn vẻ là Bá Nha gặp Tử Kỳ. Chắc suốt đời lão không mắc vạ miệng, cũng không để Ba Mậu mắc theo. Bảy Suyền còn trẻ mà khôn hơn cáo, anh đã biết khi ở chung nhà phủ Đỉnh, hẳn nó câm như hến. Vợ anh bép xép nhưng động đến khoản của chìm thì kín tựa hòm khóa chữ. Thôi đành, đã trót thì trét, chỉ một lần này thôi, coi như nhập khẩu vô tang. Chấm dứt hẳn!
Audaces fortuna fuvat!
Câu thành ngữ la-tinh ấy, được ông giáo sư Pháp trường Khải Định ưa nhắc, chợt đến với Ba Mậu. Thần Tài phù hộ những kẻ táo bạo, đúng. Anh không táo bạo cầu tài, chỉ tình cờ nhặt được một xu lẻ thần đánh rơi, đáng kể gì mà băn khoăn!
Anh yên bụng ngủ thiếp đi, hôm sau dậy trở nên vui tính, cười cười bảo vợ đừng lo cắt thuốc chữa nhức đầu. Bấy nhiêu cũng đủ cho chị vợ nguôi hết ấm ức. Là con ông chánh tổng cóc vàng nhà quê, ruộng nhiều chữ ít, chị chỉ biết đọc biết viết, coi ông chồng tú tài tây đã đưa chị đến với thành phố văn minh là ông thánh sống. Chị sai người nhà đi hỏi mua góp thêm hà thủ ô cho chồng mang theo. Anh Ba máu xấu, mới ngoài ba mươi tóc đã điểm bạc, ra tù sau đảo chính Nhật đầu anh trắng đến một nửa, chị ép uống hà thủ ô rõ nhiều mới đen lại đôi phần, giờ trông anh vẫn có vẻ cao tuổi hơn các ông cùng lứa bốn mươi lăm. Vậy cũng hay. Làm ông giám đốc quanh năm được cấp dưới thưa trình, nay về quê làm ông huyện thường cưỡi ngựa thăm dân, có mái tóc hoa râm người ta đã trọng càng thêm nể, bọn gái lẳng lơ cũng ít dám liếc nháy, chị ngắm chồng và nghĩ lui tới thế.
Bốn ngày sau, Ba Mậu bị bất ngờ một lần nữa.
Xã Linh Giang mở cuộc họp chung chi ủy, ủy ban, các tổ trưởng Đảng, cán bộ đầu ngành các đoàn thể, được gọi tên chữ là “khuếch đại hội nghị” nghe thật long trọng. Cán bộ xã thôn thích kiểu họp ấy cho đỡ mất thì giờ bàn việc nhiều nơi, phổ biến nhiều cấp. Ba Mậu đọc các quyết định mới. Anh sửng sốt khi thấy những người mới tuần trước vặn lý anh đến mướt mồ hôi lúc này lại nín lặng với vẻ mặt lầm lì khó hiểu, đợi anh hỏi gặng, Tám Doãn mới đề nghị lập một ban kiểm tra theo dõi Quỹ tổng động viên và Nông đoàn. Doãn vừa dứt lời thì hội nghị lên tiếng đồng ý cả, rập một giọng như hẹn nhau trước. Ông Tư Chua được cử làm trưởng ban, trong số bốn ủy viên còn lại có chị Năm Bưởi cứng đầu mà Hùng Minh rất ghét. Đồng chí bí thư kiêm chủ tịch vừa được huyện chỉ định cứ ngồi im xo, không cho ra những tràng nói chữ theo thói quen.
Dân xứ núi này quả là kỳ cục, bí hiểm khôn lường. Ba Mậu nghĩ vậy, cho giải tán. Dù sao số ngang bướng nhất đã chịu xuống gối, công việc ắt sẽ trôi chảy.
Anh cẩn thận gọi riêng Hùng Minh và Mười Áng đến nhà cụ tú Đỉnh, hỏi thêm. Cả hai cùng đắn đo như nhau, cùng thưa rằng “đồng bào đây quen phục tòng Chánh phủ, cho cãi vã thì họ cãi xả láng, hễ thượng cấp hạ lệnh thì họ y lệnh mà làm, vậy thôi”. Anh cán bộ kinh tế huyện được cử ở lại nắm tình hình cũng ngập ngừng nhận như thế, về sau chú nhỏ liên lạc mới mách rằng anh ta chỉ lùng mua mật gấu, xương khỉ, quế kẹp Thượng du, lên làng Thượng đổi một bộ xương cọp để nấu cao hổ cốt toàn tính, chẳng để ý tới công tác.
Nhân đợt tạnh ráo, Ba Mậu định tổ chức mít-tinh từng thôn để hô hào thật mạnh, quay phong trào lên thật bốc. Nước trời chợt tuôn xối xả và nước sông suối dâng nhanh khiến anh đổi ý ngay. Để anh em ở xã tự lực lợi hơn, cấp huyện vươn tay đến tận thôn dễ bị trách là bao biện, làm thay!
Đoàn chỉ đạo thí điểm ở lại cũng thừa, Ba Mậu cho “lữ thứ hành quân” trở về huyện. Anh báo cáo thu được thắng lợi bước đầu, để dành chữ “rực rỡ” và những từ to đẹp khác cho các bước kế tiếp, khi đoàn dân công từ Linh Giang gánh lúa khiêng heo xuống nộp, hay khi làm xong lễ thành lập Nông đoàn. Đó là chuyện về sau, còn phần thắng lợi nắm được trong tay là những thứ mua rẻ, được biếu hoặc chủ động xin, như xương thú quý, nhung hươu, gạc nai, quế kẹp loại “cao sơn ngọc quế”, khá nhiều mật ong, chè cực ngon và thuốc nguyên lá hạng nhất, chất đầy lưng con ngựa huyện và con Hường mượn được, không kể sức gùi cõng của anh em trong đoàn. Riêng ông phó chủ tịch thì rất gương mẫu, nhận phần mình rất ít, được anh em xuýt xoa khen mãi.
Ba Mậu không hiểu được những gì xảy ra ở Linh Giang trong một tuần anh về huyện và thăm nhà. Những điều ấy khó hiểu không chỉ đối với anh, mà đối với cả những cán bộ làm nông vận lâu năm nhưng chưa sống ở vùng hẻo lánh.
Anh ra đi buổi sáng, đến trưa Hùng Minh cho phát loa gọi mít-tinh toàn thôn Linh Lâm để phổ hiến chủ trương đặc biệt, ngay tối hôm ấy. Độ ba phần tư bà con trong thôn đã biết chủ trương ấy là gì, nhưng vẫn đến đông đủ nhằm nghe thêm có chuyện mới chăng, thời buổi đánh Tây này cái mới xảy ra từng giờ từng phút. Không có gì lạ cả. Chẳng qua anh chàng Ba Mít láu táu muốn lập công đầu, đứng ra hiệu triệu toàn dân bằng những câu hay chữ lỏng thường được bà con lặp lại để làm trò cười.
Yên trí rằng toàn thể đồng bào đã thấm nhuần triệt để, sáng hôm sau Hùng Minh kéo năm bảy thanh niên đi xóm Mới thử thu góp nửa tài sản của một số nhà coi ra sao. Anh ta chọn nhà chị Thùy làm trước tiên, bởi biết rằng vợ chồng Cả Chanh bao giờ cũng gương mẫu, gia đình ấy đã xung phong dẫn đầu thì dân sẵn lòng theo. Quả nhiên chị Thùy chỉ phân vân đôi chút, rồi để anh em trút số lúa ít ỏi trong bồ, thu cái nồi đồng, tháo gỡ máy phát điện, ghi sổ số heo gà sẽ nộp. Chỉ có Năm Bưởi dứt khoát không giao súng, đành tạm gác đấy. Sang lò rèn ông Tư Chua cũng dễ như vậy, nhưng ông khất vài ngày để làm một việc khiến Hùng Minh chột dạ:
- Đồ rèn, tôi tính soạn làm hai phần, đánh dấu khác nhau, Ban quản trị ưng phần nào lấy phần đó. Trâu, tôi đóng dấu lửa vô mông đít. Lúa bắp nồi niêu, ghi cặn kẽ vô biên lai. Tôi hiến nửa tài sản cho Chánh phủ Cụ Hô để tổng phản công giành độc lập, chẳng nề hà gì, vậy chớ thằng nào chấm mút vô đó thì tôi xách búa tạ rượt theo tới Đà Nẵng!
Tới nhà thứ ba, một bé gái cõng em bảo đi vắng hết. Nhà thứ tư, hình như đã kịp đưa của ra rừng - nhà nào cũng có kho mật từ đầu kháng chiến, phòng địch càn hay ném bom - chỉ còn lèo tèo một ít bắp lúa với một heo choai trong chuồng. “Các anh ưng lấy sắn tươi, để tôi đào cho...”. Nhóm thanh niên đi theo Hùng Minh mượn cớ mang các thứ chị Thùy nộp về trụ sở, biến hẳn không quay lại. Hùng Minh phải rút êm.
Tin đồn Ba Mít đến thu tài sản anh Cả Chanh trước tiên được truyền đi rất nhanh, thêm dấm ớt tùy người kể. Ai cũng thấy chướng lè. Người ta tù đày lăn lộn bao nhiêu năm, hai vợ chồng về làng ốm liệt và nghèo xác, bà con thương xúm vào giúp mới có túp nhà miếng cơm, nay thằng ba hoa ấy lại bắt ưu tiên đóng góp trước! Cái máy điện vất đi, hai cha con với anh em quân giới hì hụi sửa mãi mới chạy, dùng chung cho cả làng, nó cũng lấy bỏ xó! Anh Cả Chanh đi “đánh giặc quốc tế” xa tít mù khơi, chị vợ bụng mang dạ chửa, hiền như phật đất mà dễ mến vô cùng, bị nó ép bức thiệt tàn tệ!
Chuyện này nếu xảy ra ở vùng xuôi thì chỉ có dư luận chê trách hay vài tờ khiếu nại, ở Linh Lâm lại khác. Từ thời quy dân lập ấp, dân Linh Lâm sống xa nơi quan quyền, phải bó kết với nhau mới chống nổi trăm thứ đe dọa của rừng núi và kẻ dữ. Cả làng quen kéo nhau vây hội giết cọp, báo động và đào hố bẫy chống voi bầy, chạy cứu nhau khi bị “mọi đi ăn đầu”, vác giáo mác theo ông Hường Hiệu đánh Tây, cho đến gần đây càng thêm khăng khít khi cùng theo Việt Minh lập du kích, nổi dậy giành chính quyền từ làng đến tỉnh. Gọi đó là truyền thống đoàn kết đấu tranh hay gì gì tùy lòng, chỉ biết nó là một nếp nghĩ chung rất đậm nét, hằng ngày chìm lắng đâu đó trong người, gặp dịp mới bùng lên hừng hực. Hồi trước cách mạng, oai vệ như phủ Đỉnh hay giảo hoạt như Cửu Áng đều phải xử nhũn, nhu nhiều hơn cương, vì biết “dân đây nó hung lắm”. Bạo tay nhất là lão chủ đồn điền La-phạt thì chút xíu nữa bị tuyệt tự, nếu Năm Chò giết được đứa con trai một!
Tám Doãn đang bị viên đạn trong phổi hành cho nằm bẹp, nghe tin phải nổi khùng chồm dậy. Từng học theo tính nguyên tắc của Cả Chanh, thêm những năm làm huyện đội phó và nhiều lần đưa quân ra trận dự chiến, thêm vai trò bí thu chi bộ xã nữa, anh được tiếng là điềm đạm, chín chắn. Lần này anh bốc máu Từ Hải, làm một việc khác thường.
Anh cho người mời từng nhóm cán bộ chung quanh xã đến nhà mình bàn riêng. Hôm sau, anh nhờ hai người khỏe chống xuồng đưa đi ba thôn kia, cũng chỉ gặp từng nhóm. Sang ngày thứ tư, anh triệu tập một cuộc “khuếch đại hội nghị” quen thuộc nhưng không có Hùng Minh, đến quá trưa mới cho mời đồng chí phó bí thư kiêm phó chủ tịch.
Ban đầu cậu tức khí định không đi, rồi vừa đi vừa sắp sẵn những lời phản đối gay gắt nhất. Nhưng bước vào phòng họp, thấy mấy chục bộ mặt hằm hằm nhìn xói vào mình, cậu ta nguội rất nhanh, bắt đầu thấy lạnh xương sống.
Tám Doãn chỉ chỗ ngồi, nói bằng giọng giá ngắt:
- Chúng tôi là những người có trách nhiệm quan trọng ở xã này, cần gặp anh để nói thẳng đôi điều. Yêu cầu anh nghe cho kỹ, nghĩ cho chín rồi hãy trả lời. Đây là hội nghị chớ không phải mít-tinh, anh không cần hiệu triệu đâu.
Mồ hôi rịn lấm tấm trên chót mũi Hùng Minh. Chết nỗi, nếu Tám Doãn đứng ra lập phe chống mình... thì hắn đè bẹp mình không kịp ngáp. Mười Áng ngồi đó cứ ngậm câm. Mấy đứa xun xoe tâng bốc mình coi bộ cũng tính tát nước theo mưa...
- Chúng tôi họp sáng nay, chưa cho anh dự là tại anh vừa ba hoa vừa lắt léo, hết cả buổi. Tôi tóm tắt anh nghe ý kiến chung đây. Lâu nay chi bộ bầu anh vô chi ủy, chi ủy cử anh làm phó bí thư, là do thời buổi kháng chiến phải chạy chân không bén đất, cần có người lo việc giấy tờ tại chỗ, trên đồng hồ kim xoay thì con số phải đứng. Dân tin theo Đảng, để anh làm phó chủ tịch cũng vậy. Ban đầu anh làm việc khá, gần đây anh đâm hư ra. Những vụ tư lợi của anh, chúng tôi biết mà nhắc sơ sơ thôi, để anh tự sửa, anh lại tưởng chúng tôi hiền giả quá ngu. Anh đưa người cùng phe cánh vô Đàng, vô ủy ban, chúng tôi cũng châm chước vì thiếu người lo công tác, anh nghĩ chắc tụi này dốt như trâu, hô đi hét đứng. Tánh nết anh là xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ, chúng tôi cười giễu cho qua, anh đoán ai cũng phục anh giỏi. Nhắc bấy nhiêu thôi để anh giật mình... Im lặng! Tôi nói xong mới được cãi... Đến vụ nghiêm trọng đây. Anh nịnh bợ ông Ba Mậu, tính dựa vô Ba Mậu để giựt hai cái ghế chủ tịch, bí thơ. Anh nhơn có chủ trương thí điểm, cố lập công để ngoi lên, mà lại cố giữ cái chỗ moi được lúa được tiền là nhà ông phủ Đỉnh. Cùng một lần, anh muốn có chức, có quyền, có tiền, có tiếng, có vợ con ở đây, có cả nhơn tình ở Huề Bình. Tham quá rồi đó! Hết chịu nổi rồi đó!... Bây giờ tới chủ trương mới. Ba Mậu làm sai chủ trương của huyện rõ ràng. Huyện ủy biểu kêu gọi đồng bào Linh Giang ủng hộ một nửa số lúa bắp đang có, rán ăn tăng khoai sắn để nhường cơm cho bộ đội đánh giặc. Ba Mậu về đây đòi hiến một nửa tài sản, tính lấy cả trâu bò, cày cuốc, nồi đồng mâm thau. Huyện dặn vận động, Ba Mậu về ra lệnh, dọa xa rồi dọa gần. Huyện thấy đồn điền La-phạt bỏ trống, dặn kêu gọi dân làm tập thể, tự nguyện góp công của vô, Ba Mậu tính huy động tràn lan, đưa đồ tịch thu qua mà nhử dân... Tôi đang bệnh, phải lết xuống huyện hỏi lại anh chủ tịch, té ra khác hết, có điều bây giờ búi việc quá, ảnh dặn đừng làm tùm lum lên. Ngay cái vụ miễn hoãn cho phủ Đỉnh, huyện cũng không hề biết. Bậy hung rồi đó!
Tám Doãn bật ho một hồi sù sụ. Ba Mít mấp máy miệng chực nói chen ngang, kịp nín tắp trước những cặp mắt dữ tợn chưa từng thấy.
- Mới nghe năm bảy phút đã ngứa miệng rồi hả? Sắp xong đây. Chúng tôi nhứt trí với nhau sẽ góp lúa bắp cho bộ đội, có thể được gấp rưỡi số huyện đề ra, chừng ba chục tấn. Heo bò vài chục. Cũng nhứt trí lập Nông đoàn thí điểm, tập làm chung hưởng chung. Nhưng mà kèm theo điều kiện Ba Mậu với Ba Mít không được dính vô. Các anh xía vô là trắng hóa đen, tròn ra méo lập tức... Tôi điểm chót. Anh mê cái chức trưởng, ai cũng biết. Bác Tư Chua giỏi nghề mà ngại làm hành chánh, xin thôi chủ tịch. Tôi bị thương yếu nhớt vầy, cứ bị ép làm bí thơ. Anh bớt bớt cái chủ nghĩa cá nhơn đi, rán lo việc chung cho tốt, chúng tôi xin bàn giao liền chẳng đợi ai nhắc. Bây giờ chưa được. Hễ ông Mậu ưa bợ đỡ đưa anh lên, chúng tôi sẽ để yên coi anh biết hối biết sửa hay không. Sửa được thì làm tiếp. Cứ chứng nào tật đó, chúng tôi biểu quyết khai trừ anh khỏi Đảng, đề nghị trên cách chức, coi thử anh còn sống nổi ở đất này hay phải cuốn gói trốn thiệt xa! Thằng Tám Doãn này nói có trời soi vô miệng, có hết thảy đồng chí đây làm chứng, hễ dám nói không dám làm thì nó là con chó ăn cứt cả làng!... Phần tôi xong rồi đó. Các đồng chí thêm vô, gọn gọn thôi, đừng bắt chước ông Hùng Minh lên huấn thị!
Chung quanh cười ồ, xôn xao ném tới một loạt đồng ý, tán thành, nhứt trí, hoan nghênh, phải, đúng, hay, ngon. Ngay Mười Áng rất thích đóng vai “tôi ở giữa, tôi chữa đôi bên” cũng chỉ cười ruồi.
Hùng Minh cúi mặt, lúng búng nói mấy câu nhận lỗi, hứa sửa đổi.
Ba Mậu trở lại Linh Giang sau cuộc họp ấy, không biết mình gặp một ca phép vua thua lệ làng, chỉ thấy mọi việc êm xuôi cả.
Tám Doãn xuống huyện gấp thay chân huyện đội phó, đến gặp anh bí thư huyện ủy nhận lỗi đã họp sai nguyên tắc. Bí thư ngẩn ra một lát, rồi cười dài:
- Nguyên tắc sai mà nội dung đúng, hơn bù kém, cũng được. Ông Mậu về nói là toàn thể cán bộ đảng viên muốn đưa Hùng Minh lên. Mình đang sốt mà bận ngập đầu, anh chủ tịch nằm viện, phải nghe phó chủ tịch chớ biết nghe ai... Hay là thu hồi, hủy bỏ quyết định về Ba Mít?
- Cứ để anh ạ, có anh em giám sát. Hắn sửa được càng hay chớ sao!
Vài phút sau, Tám Doãn đã chúi mũi vào tấm bản đồ lớn, theo dõi đầu cây bút chì của anh bí thư nhích theo lời thuật tình hình. Huyện đội trưởng đưa quân ra trận, Tám Doãn phải nắm gấp phần việc làm tiếp. Du kích đi dự chiến. Dân quân lập tuyến bố phòng chống càn. Ba trăm dân công tiếp tế. Cọc chống nhảy dù ở các trảng rộng. Kiếm gấp thêm tơi nón cho trung đoàn 108. Mở lại đường tải thương khác tránh bom... Những người và việc ở Linh Giang chìm nhanh dưới một núi lo toan mới, viên đạn trong ngực Tám Doãn cũng chìm theo.
Trận càn từ quốc lộ 1 thốc lên bị chặn cứng, địch sùng sục như nước lũ húc vào đập. Tiếng đại bác và súng cối vọng lên, chỗ cơ quan huyện vừa chuyển tới nghe rõ. Máy bay lùng đánh dồn dập, đôi lần rất trúng đích, đã quá rõ là nhờ gián điệp chỉ điểm. Cùng với loại Xpít-phai cổ rùa quen thuộc có thêm những tốp máy bay kiểu mới thân dẹt như cá, cánh ngắn và lùi về sau, đồng bào gọi là tàu cổ ngỗng, còn giới quân sự báo là loại Cô-bờ-ra của Mỹ mới trao thêm cho Pháp gần đây. Mỗi buổi ngớt mưa hửng nắng, vùng trời huyện Tây Quảng lại ầm ỹ tiếng cổ ngỗng cổ rùa bay đến từng nhóm bốn chiếc, quần đảo tìm mồi mấy vòng trước khi xếp hàng dọc chúi xuống chồm lên như rắn lộn. Bom rơi nhiều nhất xuống các xã phía Đông, giữa và sau các tuyến chống càn, dựng những vườn cau vườn dừa bằng khói mọc rồi tan, lại mọc rồi tan.
Luồn lách qua những xóm xanh cây, những gò phủ sim, mua, du dẻ, từng đoàn từng đoàn người gánh và cõng, có súng hay không súng nối nhau kéo xuống nơi bom pháo dày đặc, tiếp sức cho các đơn vị đang chặn địch. Trong số ấy có khoảng hai trăm dân công tiền tuyến của Linh Giang do ông Tư Chua chỉ huy.
Rất ít người biết ông đã thôi làm chủ tịch, vì Hùng Minh đủ khôn để không họp mít-tinh “hiệu triệu quốc dân đồng bào” với cương vị mới. Bà con quen thấy ông Tư cầm đầu dân công ra mặt trận nhiều chuyến, chẳng hỏi gì. Đi theo ông Tư thì chớ có ẩu mà khốn. Đòn chắc, giỏ bền, có chân, lá khô lót dày. Ngoài tơi nón cho người còn phải chằm hai tấm tơi che mưa cho hàng, vòng ngụy trang cũng phải một cho người hai cho hàng. Đang nắng đổ mưa: vòng lá treo đầu đòn, tơi phủ hàng trước người sau. Đang mưa hửng nắng: ngược lại. Người ướt không sao, hàng ướt thì ông nạt bắt sửa tại chỗ, về xã còn thêm một lần “bêu dương”.
Dân công Linh Giang đưa tám tấn nạo và bắp xay đến kho huyện là hết nhiệm vụ. Anh bí thư huyện ủy, quyền chủ tịch, bàn với Tám Doãn và ông Tư kêu gọi bà con đưa thẳng tới mặt trận luôn. Anh Ba Mậu định phát huy thắng lợi rầm rộ, anh bí thư can vội: phải để hai đồng chí Tám Doãn và Tư Chua nói bà con mới thông, chịu đi và về thêm hai ngày nữa, đừng chen vào mà rối. Sau vài chục phút động viên, cả hai trăm đều bằng lòng: một lần đi một lần khó, nhập kho xuất kho thêm phiền, anh chị em đánh giặc đang đói, đi ta hè! Chỉ thay đổi chút xíu: tổ du kích của Năm Bưởi xếp cuối làm thu dung được chuyển lên đầu làm trinh sát, cơm gói mo một bữa phải tăng thành hai bữa để tránh đốt khói nơi gần địch.
Ông Tư Chua nhấc cái còi sừng trâu từ ngực lên miệng thổi hiệu xuất quân, nói to một câu chào chung các đồng chí ở huyện, xốc cái gùi tre cật cõng năm ang gạo của mình lên, chống gậy khom lưng bước vào giữa hàng. Anh Ba Mậu nhìn ông, quay nhìn thoáng Tám Doãn, hai người vừa được anh báo cáo là thiếu năng lực và uy tín cần phải thay bằng đồng chí Hùng Minh. Anh lẳng lặng bỏ đi không nói, trong khi Tám Doãn cùng bí thư huyện ủy bàn cách tiếp nhận số gạo bắp và heo bò sẽ xuống đợt sau.
Chú thich:
[1] Béo lẳn