Chương XII
Ngày 27-5-1951
Cuối cùng, tôi đã ghép được một bộ chữ mật để ghi tên người, tên đất, ngày tháng, cùng những ý nghĩ riêng tư nhất. Các thứ tiếng Pháp, Anh, cả tiếng Đức và Tây-ban-nha mà tôi học gạo lâu nay qua bộ sách Assimil dạy ngoại ngữ tình cờ tìm thấy trong đống sách táp nham của Bảy Suyền, đều dùng chữ viết la-tinh như tiếng Việt, thế mới phiền. Tôi không muốn rơi vào tình trạng của cậu Tư Quả trong Ban địch vận, ghi nhật ký chăm chỉ và thật thà bằng tiếng Việt, bị cán bộ bảo vệ bí mật tìm đọc, nay đã được chuyển vào một cơ quan rất xa mặt trận và chắc chắn đang được theo dõi sít sao. Trong chiến tranh đẫm máu, mọi sự đề phòng đều là cần thiết, tôi đồng ý, nhưng khi quyền quyết định số phận của một trí thức đầy suy nghĩ phức lạp lại rơi vào tay những cán bộ i tờ thì khó lòng tránh khỏi những bi kịch kiểu Racing hay Euripide!
Từ hôm nay tôi sẽ tiếp tục viết nhật ký sau năm năm bỏ dở. Xin nhắn những ai mai sau thử mở khoá mật mã để đọc nhật ký của Hai Khánh tức Ung Viết Khánh - cái họ Ung sao mà đáng ghét! - rằng xin các bạn chịu khó học các mẫu tự Hi-lạp và Ka-ta-ka-na của Nhật, tiếp đó xin học kỹ tiếng Anh và ít nhiều tiếng Đức, để cuối cùng khám phá ra những dòng ghi ở đây không dẫn đến kho vàng Ali-Baba nào cả, mà chỉ biết thêm thằng Hai Khánh đã sa vào tay các cô gái như thế nào và lúc này đang nhớ đứa con bỏ rơi của nó đến cuồng dại!
Chung ơi, con ơi, thiên thần và quỉ dữ của ba ơi, con đừng ám ảnh ba nữa đi, ba sắp điên rồi đây!
Ngày 29-5-1951
Mea culpa, mea culpa, mea culpa!
Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi lại tôi mọi đàng...
Tại sao, khi Năm Bưởi đến báo tin có thai sau những đêm ngủ với tôi, tôi lại sững sờ kinh hoàng đến câm lặng, chỉ nghĩ đến một từ pháp lý là “thủ tiêu tang vật” như một tên trộm hạng bét? Bưởi nhận ra ngay chân tướng của tôi, ôi chao, một con tinh chồn thò đuôi sau cái lốt thư sinh tuấn tú. Còn may là Bưởi chỉ cười khẩy mỉa mai, không quờ tay vớ khẩu súng trường kỵ binh Nhật dựng chéo mé sau, chỉ buông câu vĩnh biệt và đi biến.
Đến nay, con tôi đang trả thù tôi. Thằng Chung thiên thần nhún nhảy trên đầu gối tôi, túm tóc tôi giật mạnh - tôi ghé đầu cho con giật hẳn đi cả một mảng tóc, nhưng Thùy đã trừng mắt gọi cháu, và con tôi ngoan ngoãn chạy đến xin bàn tay vuốt ve của Mẹ Xùi - tôi chỉ là Chú Hai đến đưa vải may quần áo và ngồi chơi đợi lấy các thứ may xong, bấy nhiêu thôi. Một trong số trăm ngàn chú bộ đội đã vui tay bồng ẵm nó trong khi mẹ Xùi đạp máy may trên bộ quân phục xi-ta hay tấm vải mang đến.
Năm ngoái, về Linh Lâm theo lời nhắn của ông dượng ghẻ muốn chạy chính sách và đã chạy được nhờ ông Ba Mậu phó chủ tịch huyện, tôi gặp con lần đầu. Chỉ vì tò mò thôi: người ta đồn nó rất giống tôi. Ra về, tôi nhớ con. Nỗi nhớ tăng lên dần từng ngày. Những sợi tóc của giống Tí Hon trói Gulliver phình to mãi, thành dây buộc trâu.
Tôi quay lại Linh Lâm trước Tết ta, vẫn nhờ Bảy Suyền và Sáu Bòng làm trinh sát, tôi đến với con được hơn một ngày trong khi Bưởi đi Linh Hạ làm gì đấy cho nữ du kích. Thùy đã biết tôi là ai, khỏi cần nói dối, chỉ tủm tỉm cười giao thằng Chung và thong thả may cho tôi một bộ quân phục xi-ta, không vội. Không mời tôi ở lại ăn trưa, có lẽ ngại đến tai cô em chồng hung hãn. Bốn giờ chiều, Thùy giao bộ áo quần mới, nói gọn: anh đi được rồi. Giọng thương hại, không một lời hỏi ý định tôi đối với Bưởi và con, hẳn đã biết Bưởi căm ghét tôi đến độ nào.
Đáng lẽ Tết vừa rồi tôi vui khác thường mới phải. Thằng em, nhạc sĩ Viết Chương bắt đầu nổi tiếng, đem cho tôi hai lá thư của me tôi kèm ba nhẫn vàng một đồng cân. Me cùng em gái tôi từ Hà Nội bị chiếm đi vào Quy Nhơn thuộc vùng ta theo những chặng đường quanh co lắt léo, tìm mãi không hai đứa con trai theo kháng chiến, đành phải gửi thư và quà cho một bà bạn cũ buôn con thoi giữa chợ Bình Định với thị xã phá hoại, gặp ai cũng nhắn nhạc sĩ Viết Chương tìm đến bà kia mà lấy. Ngót một năm sau lời nhắn mới đến tai, Chương đến, được bà kia giao thư và một phần quà: một lượng vàng còn lại sáu chỉ. Chương cười xòa: bà nói mượn tạm, nhưng nghe khẩu khí thì biết lấy luôn. Một mớ quà khác, có đồng hồ bút máy và áo quần, được bà cho biết là bị bom cháy hết. Thôi đành, vớt vát được một phần ba còn khá, thiếu gì người bị ăn chặn mất trắng!
Chương thấy tôi như người mất hồn, phờ phạc, chỉ đoán là do làm việc quá nhiều. “Anh gương mẫu vừa vừa chớ!”. Nó ở chơi ăn Tết một tuần, lại quay về Đoàn văn nghệ liên khu. Luôn luôn cười hô hố, vui đâu chầu đấy, gia tài chỉ một cây đàn ghi-ta róc véc-ni nhưng còn tốt, làm nhạc quân hành song song với những bài quậy tếu hay mộng mơ sướt mướt được chép tay truyền miệng khá rộng. Gần chia tay tôi mới biết nó bị thương hai lần, một ở Khánh Hòa nhẹ thôi, một ở Tây Nguyên suýt chết, còn sẹo trên thân, vẫn cười hoang hoác: “lính mà, còn sống là may, đủ chân tay càng tốt!”. Nó chơi nhạc, chơi cuộc sống bướm hoa, đi qua kháng chiến như đi chơi dài dài, vẫn luôn kính phục ông anh nặng nề duy lý là tôi. Nếu nó biết tất cả những gì tôi che giấu...
Ngày 2-6-1951
Chung ơi, con ơi, hãy buông tha một lát cho ba ngủ!
Ngày 3-6-1951
Họp cán bộ trưởng và phó các ngành trong tỉnh đã hai ngày, học các nghị quyết của Đại hội Đảng Lao động Việt Nam. Nóng điên người, mệt, buồn ngủ, nhai cơm như rơm, lại thêm cái nạn ông báo cáo viên Đậu Chí Xích nói ề à giọng thầy cúng, từng lúc lên kính đọc ấp úng từng đoạn tài liệu với điệu bộ nheo mắt nhăn trán vất vả quá, anh em thương hại ông đến nỗi không nỡ phê bình. Biết ông là chính hiệu nông dân đây, ông vào Đảng từ 1930 đấy, tên ông có nghĩa là “cực đỏ” đấy, nhưng khi lên lớp anh em vẫn thèm nghe ông Bảy Quý giàu suy nghĩ sâu sắc, anh Tô Xáng rất hóm và thẳng ruột ngựa, nếu cần thì anh bạn cố tri của tôi là Phan Chanh nói năng điềm đạm nhưng đầy chất lửa giảng bài cũng tốt.
Nghe đâu ông cụ tóc trắng này ở Ban tổ chức liên khu đã từng chạm trán với Cả Chanh một lần, nhân vụ Ba Mậu là người được ông che chở bày mưu hất Chanh khỏi chức giám đốc hỏa xa, chẳng rõ đúng sai. Thời buổi giặc giã, mỗi đơn vị là một khoang đóng kín như trong tàu chiến, một khoang bị bắn thủng thì chiếc tàu vẫn không chìm, không cháy lan. Mỗi nhóm thủy thủ chỉ cung cúc làm phần việc được giao, những gì xảy ra trong từng khoang có thuyền trưởng và cấp trên nữa được biết.
Hôm nay, trong buổi thảo luận tổ, tôi ngứa mồm đề ra câu hỏi: “Xin cho biết nhận định của trên về chủ trương chuẩn bị Tổng phản công”. Anh em nháy nhau cười. Vẫn cái nếp lâu nay: đưa thắc mắc để tỏ ra mình có theo dõi bài giảng, có suy sâu nghĩ kỹ, mà chớ nên để cấp trên phải lúng túng nói quanh!
Ngày 4-6-51
Biết mà!
Ông Cực Đỏ giải đáp một buổi. Suốt hai giờ ông lặp lại đến lần thứ bao nhiêu về “thế giới hai phe bốn mâu thuẫn, kháng chiến ba giai đoạn”. Ông dành một giờ để lè nhè chỉnh những cán bộ mất lòng tin, gieo hoài nghi trong tập thể và cho cấp dưới, có thái độ xoi móc mỉa mai thiếu xây dựng đối với các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Vì là cán bộ tổ chức, ông không ngớt nhấn mạnh phải tin tưởng tổ chức, phục tùng tổ chức, chống bệnh tự do vô tổ chức. Chỉ lèo một câu buông rơi đằng cuối: “Về khẩu hiệu chuẩn bị Tổng phản công, phải đợi ý kiến chính thức của Trung ương”. Hết gọn. Và tất cả những chủ trương to tướng như quỹ Tổng phản công, những đợt tuyển quân khổng lồ để Tổng phản công, gì gì nữa coi như không hề tồn tại!
Tôi chán ngấy, định kiếm cớ chuồn trước. Tôi gửi con ngựa ở nơi kín đáo cách vài cây số để tránh bị ghen tị, cố ý mặc bộ xi-ta xám tàng tàng như mọi người, nói năng dè dặt và chất phác (chỉ trừ câu hỏi trái khoáy kia thôi). Ít ai chú ý đến tôi. Anh trưởng ban địch vận dễ dàng gật vì quen khoán trắng từ hàng binh Âu-Phi cho tôi, tán hươu vượn gì anh cũng ừ. Chuồn thôi.
Rất may, nhóm anh Tô Xáng từ Đại hội Đảng đột ngột về đến nơi. Cả lớp mừng rơn. Anh ở lại ít lâu để làm việc với Trung ương mới, một lần đi một lần khó, vẫn cái dáng cao gầy nay đen sắt lại, hàng rào râu mép đen tua tủa bây giờ kéo dài đến tận hai khóe miệng. Vẫn bộ sơ-mi cụt tay và quần soóc (anh chỉ mặc đồ dài khi lạnh chịu không nổi), vẫn đi chân không (anh chỉ đi dép khi đường lắm gai và đá nhọn, đôi dép cao-su cực tốt thường chỉ treo thắt lưng), vẫn giọng oang oang ăn sóng nói gió của dân chài kèm hai bàn tay băm bổ.
Lập tức, anh làm việc với lãnh đạo tỉnh và ban phụ trách lớp trong buổi sáng, để dành một chiều và một tối báo cáo với học viên về Đại hội Đảng. Người nói lẫn người nghe đều say, bốc, đến gần nửa đêm mà chúng tôi còn nhao nhao đòi anh kể tiếp. Ôi chao, đoàn Quảng Nam được gặp Cụ Hồ tới gần một tiếng! Còn anh Bảy Quý sẽ hằng ngày ở bên Cụ, vì anh được giữ lại làm việc trong cơ quan lãnh đạo tối cao sau khi trúng Trung ương ủy viên chính thức!
- Về Tổng phản công thì ý kiến sơ bộ các ảnh vầy đây nè. Ông bạn Liên Xô ở xa mình quá, cách trở quá. Ông bạn Trung Quốc sát bên mình, to lớn thiệt đó, nhưng trong nước đang khó khăn nhiều về chánh trị kinh tế, giúp Triều Tiên đánh Mỹ rất gay go. Ổng tuyên bố vang trời đất cho đế quốc nó sợ, vậy chớ chỉ có thể giúp mình một số võ khí quân trang cho mấy đơn vị chủ lực, giúp một số cố vấn. Được bao nhiêu quý bấy nhiêu, ta cảm ơn, lâu nay ta tự lực đánh Tây chớ đâu có đợi ai viện trợ! Còn ở Đông Dương thằng Mỹ nhảy vô tiếp sức thằng Pháp, trút võ khí với đô-la vô ào ào, con số ghi rõ trong tài liệu, đó rồi các đồng chí đọc. Nó nhiều súng nhiều tiền quá ể, tổ cha nó chứ! Pháp với Mỹ nhứt quyết không để cộng sản thắng ở Đông Dương, tốn mấy cũng rán chịu, bởi nó sợ mất hết cả Đông Nam A... Bởi vậy, ta chưa đủ sức tự mình tổng phản công đâu! Còn phải lo trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh mấy năm nữa! Tạm hoãn cái đã, cứ lo xây dựng bộ đội với du kích cho mạnh, mở các chiến dịch ngày càng lớn, xây dựng hậu phương thiệt vững, giúp các bạn Lào Miên thiệt nhiều, hồi nào đủ sức thì ta hẹn nhau quật một đòn chí tử khắp Đông Dương. Hồi gặp Bác Hồ, tôi uống mật gấu làm dạn hỏi Bác: “Dạ thưa Bác, nhắm khi nào ta thắng?”. Bác cười xòa, nói giỡn: “Khi nào Pháp Mỹ nó thua!”.
Hội trường cười ầm, vỗ tay dài. Thẳng thắn với nhau như thế thật dễ chịu, tuyệt! Còn ông Cực Đỏ lại hằm hằm úp chảo gang cho những ai dám nêu câu hỏi, tự suy ra những động cơ tồi tệ!
Việc thu trâu bò nồi niêu cày cuốc của nhân dân đưa vào quỹ Tổng động viên cũng bị Trung ương phê phán là sai lầm “tả” khuynh, chủ quan nóng vội, có văn bản hẳn hoi. Anh Tô Xáng nhận lỗi chính về phần mình, tuy ai cũng biết là anh lăn lộn nhiều nhất ở nửa tỉnh tạm bị chiếm phía Bắc, khó biết sau lưng mình diễn ra những việc gì.
Tôi không định đánh bài chuồn nữa, háo hức ở lại học tiếp.
Ngày 6-6-51
Cậu Thạch Sơn từ nơi nào ngoài Bắc được điều vào liên khu 5, cùng đi với nhóm anh Tô Xáng, đến nhà trọ thăm tôi sau giờ bế mạc lớp. So với hồi cùng đi mua súng Nhật ở Hà Nội, cậu ta gầy đi nhiều, môi thâm sốt rét, trán hói đi quá sớm, có lẽ do chuyến đi vượt núi dài ba tháng, tội nghiệp.
Tôi rất mừng, nhờ bà mẹ chủ nhà đun nước sôi pha trà, mở gói kẹo gương Quảng Ngãi ngon nhất, hỏi trăm thứ chuyện. Thạch Sơn chỉ hồ hởi được mươi lăm phút, sau đó bắt đầu giữ miệng. Hỏi về công tác của cậu từ ngày chia tay, cậu đáp lừng khừng: “Ờ, vẫn theo ngành cũ”. Chắc là ngành công an xung phong hồi chống Việt quốc, Việt cách năm 1946.
Càng hỏi, cậu ta càng nhát gừng. Tôi thấy mình là cơn gió trước một cánh cửa, mỗi lần thổi cửa lại khép thêm. Sau chừng một giờ, tôi chủ động chấm dứt câu chuyện đã nhạt như nước ốc: “Xin lỗi, mình hơi mệt. Chúc cậu về liên khu Năm công tác tốt”. Xong. Tôi đã thổi cho cửa đóng kín luôn.
Thiên lý tha hương ngộ cố tri, thường ai cũng mừng, sao Thạch Sơn lại thế? Có thể vì cậu ta làm một nhiệm vụ tuyệt mật nào đây, như tình báo chiến lược, phản gián, an ninh nội bộ. Cũng có thể tôi là phần tử được báo trước là đáng ngờ, cần điều tra. Cũng có thể cậu ta bị méo mó nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy địch. Thôi đành, chẳng cần nối lại một tình bạn khi nó trở nên gượng gạo, hờ hững. Auf wiedersehen![1]
Ngày 8-6-51
Đã có chứng cớ Bảy Suyền lén đọc các tài liệu tôi để trong buồng riêng khi đi dự lớp. Tôi xem lại các tài liêu mật: những sợi tóc kín đáo thả vào các trang số chẵn, hoặc những trang 5-10-15-20 của các bản dày, đều đã rơi mất hoặc nằm sai chỗ. Hắn tò mò như những người trẻ tuổi khác, ưa vây vo rằng mình được tin cậy đặc biệt và biết nhiều bí mật quốc gia, hay muốn điều gì khác, nằm trong tay kẻ nào núp chỗ tối? Chưa hiểu nổi. Chưa tai hại gì: những tài liệu đóng dấu mật chỉ là những thứ mới dự thảo chưa phổ biến chính thức, hoặc những thứ lấy của địch mà ta không cho đọc rộng rãi. Tôi đã mang theo tất cả tài liệu tối mật để trả lại cho tỉnh.
Từ nhỏ đi học xa nhà đến nay, chưa bao giờ tôi được săn sóc như khi ở với Bảy Suyền. Sinh hoạt phí chẳng đáng gì mà mâm cơm dọn riêng cho tôi với hắn bao giờ cũng rất ngon, đầy chất bổ, kèm rượu thuốc quý khai vị và trái cây tráng miệng. Trên bàn tôi luôn có vài bao thuốc lá đắt tiền, phi Cô-táp cũng là Grăng Pranh-xơ, Phi-líp Mo-rix. Sau khi tôi khéo léo cho cậu liên lạc thôi việc để tránh bị dòm ngó và đồn đại, tôi được phục vụ tốt hơn gấp bội. Áo quần được giặt kỹ, là bằng bàn là nung than. Cây đèn măngsông cỡ nhỏ rất sáng được che ba phần tư cho bên ngoài khỏi thấy. Tiền tiêu thoải mái với những phong bì “bác tú Đỉnh gửi anh”, đôi khi không kèm chữ nào, khiến tôi rất nghi là của Suyền biếu.
Mỗi lần tôi tỏ ra áy náy, Suyền lại thiết tha: anh nhận cho em khỏi tủi thân, em phục tài anh, em coi anh như ông thầy, em quen tánh tôn sư trọng đạo, anh còn bày dạy em cả đời... Trong thiên hạ vẫn nhiều người như Suyền thật, hiến cả gia tài đi theo thầy học văn học võ như các tông đồ bỏ tất cả theo ông Giê-xu. Nhưng đôi lúc tôi ngờ ngợ: phải chăng tôi đang gặp một Lã Bất Vi tung vàng ra để tạo nên Tần Thủy Hoàng?
Tạm gác đấy đã, thiếu gì ông cán bộ tỉnh hay trung đoàn nhận làm con nuôi hoặc con rể những nhà giàu sụ, cóc vàng nhà quê hay con buôn phất tấy ngay trong kháng chiến! Tôi mới hưởng một ít miếng chín của người dưới quyền và ông bố dượng, đáng gì mà băn khoăn?
Ngày 9-6-51
Bảy Suyền mang về một phong bì thư nhỏ mang mảnh giấy con, nét chữ nắn nót tôi thấy lần đầu. “Năm Bưởi đi dự chiến nửa tháng ở Duy Xuyên. Anh muốn gặp con thì tới từ 3/6 đến 16/6, đừng để ai biết - Thùy”'.
Thư đến muộn nhưng trước mắt tôi còn những bảy ngày để về Linh Lâm ôm trong tay thằng bé Chung vàng ngọc của tôi. Nó đã bén hơi tôi dù chỉ biết “chú Hai bộ đội”.
Tôi vẫn sợ. Không sợ đôi mắt gườm gườm thù oán của Năm Bưởi cùng cây súng kỵ binh lên đạn sẵn, mà sợ Thùy. Sợ khuôn mặt ngày càng đẹp lộng lẫy của Thùy sau khi lành bệnh hẳn và sinh con. Sợ tình yêu son sắt của nàng với Cả Chanh, người bạn tôi quý mến thật lòng. Sợ tính cả tin nguyên phiến mà cả hai vợ chồng dành một phần cho tôi. Sợ nỗi thương hại tràn trề nhân đạo đối với một người cha bị cấm nhìn mặt con trai, mà nàng suy ra từ tình mẫu tử của mình, quẫn trí sau khi mất con...
Ý nghĩ đầy tội lỗi ấy đã lởn vởn từ trước. Trong lần gặp gần đây nhất, khi nhìn bé Chung ôm cổ mẹ Xùi cười rúc rích, đòi được thơm đủ hai bên má - một cảnh đẹp như tranh Ý thời Phục Hưng - nó chợt bùng lên thành cơn thèm khát sắc nét và rất mạnh: tại sao mẹ của bé Chung không phải là Thùy?
Tim tôi đầy những rối ren chằng chịt không gỡ nổi.
Ngày 14-6-51
Sau một ngày cố cưỡng lại mình, tôi vọt về Linh Lâm với một kiện vải may áo quần cho tù binh Âu-Phi, đủ cho Thùy may mươi hôm. Chỉ sau hai buổi chơi với bé Chung, vỗ về một ít, đứa con gái bắt đầu biết bò của Thùy, tôi phải vội bỏ đi. Tôi chạy trốn Thùy. Nếu ở lâu hơn, trong một cơn choáng váng nào đó tôi sẽ điên cuồng dang rộng hai tay, ôm ghì cả Thùy và Chung vào lòng: hai nỗi yêu thương lớn nhất trên đời.
Hẳn Thùy sẽ không quát, không tát, không chụp cây mác gài trên phên kia. Nàng hiền vô cùng. Nhưng Thùy sẽ giết tôi bằng cái nhìn ghê tởm kèm một câu khinh bỉ tận xương, na ná như: “Hèn gì con Bưởi nó gớm mặt anh”. Và tôi sẽ vĩnh viễn mất cả con lẫn Thùy!
Nàng cứ thong thả đạp máy, thỉnh thoảng nhìn cha con tôi bằng đôi mắt tươi cười che chở, quờ tay kéo sợi dây đưa nôi con mình. Mới kịp may hai bộ thôi, tôi lấy lại kiện vải, mượn cớ vừa được tin cấp trên sắp phát áo quần may sẵn cho tù binh. Không thể giao vải cho Thùy làm tiếp, Năm Bưởi về sẽ biết ngay những áo quần ngoại cỡ rất khác kiểu ấy do ai đặt làm.
Tôi vẫn không thể tưởng tượng một ngày nào đó sống chung với Bưởi. Thà chết còn hơn!
Tôi phóng ngựa về nhà Bảy Suyền, gặp thằng em nhạc sĩ đợi sẵn. Không có tiếng cười hô hố và những câu chuyện tiếu lâm mới của nó, tôi đến hóa rồ mất!
*
* *
Trong ngôi đình cổ kính chưa bị bom, dưới ánh sáng xanh của cặp đèn măng-sông khá sang, hoạt cảnh vui “Lên cung Quảng thăm chị Hằng” chuyển réo rắt từ Bình bán qua điệu khác trong khi các tiên nam nữ lượn lờ:
... Thực là một sự lạ thường
Nguyệt lầu đèn điện sáng trưng
Chốn cung Quảng phấn hương nồng mùi
Quạt máy trên trần quay tít
Kèn hát cất tiếng vàng thau
Nhạc mới đánh gắt và mau
Các tiên tử ôm nhau nhảy đầm...
Giữa tiếng khán giả cười đùa xôn xao, chị Hằng ngoe nguẩy uốn éo bước ra, một cậu trai giả gái diện tân thời theo kiểu lố lăng nhất. Nhóm đồng ca càng cao giọng:
... Chị ấy trông trời ơi choáng
Quần trắng phết gót giày cao
Mặc áo đúng mốt làm sao
Rõ ra vẻ ngôi sao hợp thời...
Tiếng cười rộ lên từng đợt ngắn trước điệu bộ của vai hề, lại nín để nghe lời hát quấy nhộn, đến cuối mới nổi ào ào. Hai Khánh cũng cười xả láng như mọi người. Liếc sang trái, anh thấy Viết Chương ghi dấu O cạnh tên tiết mục vừa diễn. Anh ngạc nhiên rỉ tai em:
- Sao, kém à?
Chương lắc đầu, đáp nhỏ:
- Défendu d'avance.
- Pourquoi?
- On dira que c’est a politique, donc nuisipble. Mieux vaut éviter pour eux ung déception.[2]
Viết Chương về đây sau chiến dịch Hoàng Diệu ở Bắc Quảng Nam, được giao chọn tiết mục của một số đội văn nghệ xã trong huyện để đưa đi dự Hội diễn của tỉnh sắp mở. Chương lôi Khánh đến chỗ tập hợp các đội cách trại tù binh mươi cây số, trong một làng lớn gần thị trấn Tam Kỳ đã phá hoại nhưng còn nhiều tiệm quán bằng tre tranh. “Giải trí một chút, không thì anh biến thành ông đạo sĩ tu ép xác mất”. Cậu ta vẫn đinh ninh thế.
Chương cười hoang hoác trong khi chế giễu những lệnh cấm vô tội vạ đối với ca nhạc, do các ông lãnh đạo tùy hứng ở mỗi vùng, mỗi đơn vị, cấm ca vọng cổ (nhạc mất nước). Cấm những bài nói đến tình yêu (làm cho chiến sĩ nhớ nhà, sinh tư tưởng hủ hóa), cấm những bài đặt lời mới theo nhạc nước ngoài, kể cả nhạc Hướng đạo (của đế quốc sài lang). Có nơi còn cấm chơi nhạc không lời (không đại chúng), cấm kịch thơ (trái tự nhiên), sắc bùa (mê tín), bài chòi (cờ bạc). Chỉ còn lại một số bài ca yêu nước của sinh viên, các hành khúc soạn sau Cách mạng tháng Tám, và tùy từng nơi có thể cho phép một số điệu hò tập thể...
- Thiệt may đó anh. Vài năm gần đây thông đường Bắc Nam, hài hát mới từ Việt Bắc với liên khu Bốn tràn vô nhiều, Trung ương cũng uốn nắn riết, mấy ổng mới bớt bớt cái thói vua con một cõi đối với văn nghệ. Nếu không, các ổng vừa cấm lu bù, vừa thúc ép tụi này đẻ sòn sòn những hài hát thời sự: ca ngợi chiến thắng Sông Lô hay Tây Nguyên, tố cáo đế quốc thực dân, cổ động tiêu tín phiếu và bài trừ ngoại hóa, có khi còn kêu gọi dùng phân bắc nước giải bón cây nữa... Cãi cù cưa thì bị trấn áp, kiểm thảo, chí ít cũng lườm nguýt, thôi cứ đẻ bừa đẻ non cho yên thân, bài hát chết yểu kệ nó. Thằng Xuân Chỉnh tài nhứt anh ơi: nó lãnh trợ cấp sáng tác đi chơi rông cả tháng, đêm cuối cùng nó ngoáy ba giờ được ba bài. Thằng Hà Mộng Hân chậm chạp hơn, lâu lâu lại chơi trò đánh tháo: lấy một bài cũ của chính nó đặt lại lời mới - lời dựa theo xã luận trên báo - đem nộp quyển, rủi lộ tẩy thì cãi chày cãi cối: bài hát có lời hai lời ba là thường, nó chẳng ăn cắp của ai! Nói cho công bằng thì tại anh, tại ả, tại cả đôi bên!
Trên phần nền nhà cao hơn dùng làm sân khấu, một cậu trình bày một bài hát về Bình dân học vụ, tự đệm đàn bằng măng-đô-lin, là sáng tác tập thể của một nhóm giáo viên. Chương che miệng ngáp khi nghe hát lần thứ hai, đánh dấu X vào danh sách: được chọn. Cậu thì thào với Khánh: “Khuyến khích đề tài học Bình dân, khuyến khích nội dung chánh trị, khuyến khích sáng tác tập thể. Chỉ thị vậy đó”.
Tới đờn ca Huế, bài Cổ bản đệm đờn cò[3]. Người hát là một cô gái bẽn lẽn chưa đến hai mươi, được Chương giới thiệu khẽ là ca Nam ai hay tuyệt diệu, nhung điệu ấy bị cấm vì quá ai oán, “nhạc mất nước”. Ông cha tự đệm đàn cho con, cha con từ Thừa Thiên tản cư vào từ ngày về mặt trận Huế. Ông xin lỗi là buộc phải hát như hồi phong kiến lạc hậu vì chưa ai đặt cho lời mới.
Duyên thắm duyên càng đượm
Ấy giống đa tình
Thêm nhiều ngày mặn nồng càng xinh
Bực khuynh thành thiệt là tài danh...
Giọng hát trong veo, đằm thắm, thật điêu luyện nhưng vẫn giữ lại một nét gì đó như ngây thơ không biến uốn éo làm duyên. Ngón đàn âu yếm của người cha quen đỡ con từ nhỏ cứ quyện lấy tiếng người, nâng nhẹ lên từng lúc, luồn thêm vào vô vàn rung ngân kín đáo.
... Thôi thôi đừng, thôi thôi đừng,
Thôi đừng năn nỉ, suy nghĩ thêm sầu
Mặc ai dầu thương yêu, mặn nồng bao nhiêu chi được lâu...
Giọng hát bỗng rướn lên, thống thiết buốt lòng như tiếng thổn thức. Khánh chợt nghe đau nhói đâu đấy trong ngực, vội cúi mặt giấu đôi mắt hơi ướt.
Dứt bài, khán giả lặng ắng đi mươi giây trước khi vỗ tay đến rung cả mái đình, hét ầm: “Hát lạạại!”. Viết Chương cắn bút chì khá lâu, rồi mím môi ghi dấu O vào cạnh tên tiết mục. Cậu ấn mạnh tay đến gẫy cả đầu chì nhọn. Lại thầm thì tiếng Pháp với Khánh:
- Thà từ chối thô bạo từ đầu, còn hơn đưa những tài năng như thế đến một sự hắt hủi muộn mằn!
Khánh nể em, định đến giải trí một tối, sau ở lại thêm một ngày nữa đến khi mãn cuộc. Chương vác cây ghi-ta, khoác cái túi dết chứa tất cả gia tài, cười rộng miệng, bước xổng xểnh, đi tiếp lên huyện Tiên Phước với hai cậu nhạc sĩ trẻ bám theo học nghề.
Trở về nhà Bảy Suyền, Khánh gặp một nhân vật mới: một cô chừng 24 đến 25 tuổi, trắng trẻo, còn khá xinh, có dáng vẻ một ả hàng xén không biết đến mưa nắng. Suyền giới thiệu chị Lệ Châu là chị họ ở gần chợ An Tân, bị bom cháy nhà phải đến ở nhờ, tính mở một quán giải khát ở ven con đường tỉnh đi xuống Tam Kỳ. Có lẽ Suyền đã kể về Khánh nhiều điều tốt đẹp nên ngay lúc mới gặp cô đã nhìn Khánh bằng cặp mắt đắm đuối, xưng hô anh em ngọt hơn mía lùi.
Chú thich:
[1] Tiếng Đức: tạm biệt!
[2] Tiếng Pháp: - Bị cấm từ trước. - Tại sao? - Người ta sẽ bảo là phi chính trị, tức là có hại. Nên tránh cho họ một thất vọng thì hơn.
[3] Đàn nhị