← Quay lại trang sách

Chương XIII

Cơn dông chiều từ dãy Trường Sơn ào xuống hung hãn, đen kịt, bủa sấm chớp đầy trời, nhưng chỉ trút vài loạt mưa như vãi sạn rồi bỏ đi nhanh khi gió đất quét tấm thảm mây đen xuống phía biển. Bộ đội từ các hầm hào thấy mưa rắc hạt đã vội mặc nguyên áo quần chạy ào ra chỗ trống, định tắm xong sẽ cởi ra hứng nước giặt luôn, lúc này đành mặc bộ xi-ta ướt sũng, chửi vuốt đuôi và nhìn theo cơn dông: dưới nắng chiều đã sáng chói trở lại, mảng mây bên trên trôi lừng lững, buông chéo xuống đất một tấm màn trắng chở đầy chỗ mỏng như lưới quét đính vào bè tre của phường dẫy cá trên sông Linh.

Ba Dĩnh cởi đồ ướt, dùng nó lau ráo người và cọ cái đầu cạo trọc, vắt ráo bộ đồ, đưa lẽn mũi ngửi và nhăn mặt vì nó hôi quá. Chỉ để lại trên người quần đùi và áo cổ vuông, anh loay hoay căng áo quần dài vào các mấu tre gỗ trên vách hầm, đeo nịt súng ngắn vào lưng, bước tới lay Năm Cho đang ngáy như kéo bễ trên tấm sạp tre:

- Dậy Năm, bốn giờ rưỡi rồi!

Tiếng ngáy tắt phụt. Năm Chò ngủ say nhưng có thói quen dậy rất nhanh, rất tỉnh, nhất là khi được đánh thức bằng tiếng súng trường hay tiểu liên nổ gần. Chò mở to mắt nhìn quanh vài giây, hỏi lại giờ, lắc đầu:

- Sớm quá, tàu bay nó lên băm vằm... Nó chơi thứ bom xăng đốt trụi cây cỏ lùm bụi, mình hết chỗ núp, trời khô hanh này thứ gì cũng cháy. Đợi tối chút nữa, ta ăn pháo cối mà bớt được tàu bay.

Ba Dĩnh nói ngập ngừng, không tự tin mấy:

- Trời mới mưa, cũng đỡ ngại na-pan...

Năm Chò cười ồ ồ, răng lóe trắng trên khuôn mặt đen trũi:

- Ông bị mắc lừa thằng cha Thiên lôi, hả? Mình nghe sấm tưởng là ca-nông, dòm thử, thấy ông đứng ngửa mặt chào cờ, khấn lầm thầm cái gì như “lạy trời mưa xuống”, phải chưa? Hự!

Anh vừa bị chính trị viên cho một thoi nặng vào vai.

Hai người bước ra khỏi hầm, nheo mắt một tí cho đỡ chói, rẽ về phía trung đội trợ chiến do trung đoàn cử xuống phối thuộc, cùng một trung đội công binh mới xây dựng cho đi thực tập.

Sau khi rút kinh nghiệm chiến dịch Hoàng Diệu và học tập kinh nghiệm chiến dịch Cao Lạng ở Việt Bắc, trung đoàn mở tiếp chiến dịch Nguyễn Duy Hiệu trên vùng bắc sông Thu Bồn. Trong buổi giao nhiệm vụ, anh trung đoàn trưởng cười cười, nói nửa đùa nửa thật bằng giọng Quảng Ngãi:

- Còn cái đồn 76 lì lợm này, chắc là Năm Chò xung phong lãnh phần bao vây tiêu hao, hay là hốt trụi được càng hay! (Anh quay sang nhóm quân báo) Thằng đại úy La-phạt nổi tiếng khát máu là con mồi riêng của ông Năm đó nghen. Nó còn bám đó hay đi rồi?

Ban chỉ huy đại 8 biết rõ, nhưng đợi mấy tay “báo quân”, tức là báo hại quân ta, trả lời sao cho biết. Anh trưởng tiểu ban quân báo, liếc anh phó, anh phó nháy anh đội trưởng. Đội trưởng chẳng còn ai để đưa mắt cầu cứu, đành đáp nhát gừng:

- Dạ thưa, tụi em chưa nắm được tên thằng đồn trưởng. Chỉ biết nó là trung úy chớ không phải đại úy. Nhân mối ngụy trong đồn nói nó còn trẻ, không biết tiếng ta, chỉ huy bắn pháo cối giỏi mà ít ra khỏi đồn, chắc mới từ bên Pháp qua...

Năm Chò bực quá, buột một câu gằn giọng:

- Thằng Tây Bia đi Lào tám mươi đời rồi ông ơi!

- Sao? Tây Bia là thằng nào?

- Báo cáo, nó là thằng Pi-e La-phạt, tôi giết hụt nhiều lần. Tây thuộc địa chánh hiệu con nai vàng, ăn mắm ruốc uống rượu lậu, nói tiếng mình róc róc. Nó ác số một mà xảo trá cũng số một đó anh... Xin tùy trung đoàn cắt đặt thôi, tụi tôi quen địa hình vùng đó, thằng Tây Bia ở hay đi mặc kệ ông cha cố tổ nó!

Trung đoàn trưởng xoa dịu cho cánh quân báo đỡ mất mặt:

- Ờ, ờ... ai biết cho bằng mấy cha thổ công thổ địa. Vậy nghen, ông Chò, ông Dĩnh lãnh cái 76 được rồi. Không cho đưa quân thọc ra, không cho biệt kích sau lưng mình, không cho dộng pháo cối xuống yểm hộ các đoàn tiếp viện bị mình đánh...

- Báo cáo, không cho lính ra thì được, mà tụi tôi lấy gì bịt họng pháo cối của nó? Hai cây xoa-xăn-keng, thêm hai cây Bô-pho liên thanh của Mỹ mới đưa về bắn từng loạt năm trái bốn mươi ly, thêm bốn cây cối tám mốt, không kể cả lô súng cối sáu mươi lính nó vác theo khi hành quân... Tụi tôi lấy thân lấp lỗ châu mai cũng chỉ chặn được một lỗ trong vài phút thôi, mà tụi nó có tới mấy chục lỗ, bắn dai cả ngày đêm!

May cho Năm Chò, anh đại đội trưởng đại 8 độc lập quen ăn nói ngổ ngáo, được gặp trung đoàn trưởng là người lăn lộn nhiều năm ở địch hậu, quen bỏ qua cách nói để lọc lấy phần đúng nhất trong lời nói, thường gờm những lối “dạ thưa anh” mà chịu khó đưa tay đón những con nhím dựng lông của những ai đã từng sứt đầu mẻ trán trong chiến trận. Anh đứng thừ ra một lát, hỏi lại:

- Năm à, ông tính tháo gỡ cách sao, bàn thử coi.

Khuôn mặt đen trũi và to bè bè của Năm Chò từ từ dãn ra. Anh đã lên gân sắp sửa húc báng như trâu đực, bởi rất ít tin cậy những người mà anh quen gọi là “phóng văn lình”, tức lính văn phòng, gồm tất cả những ai không tự tay cầm súng bắn Tây mà vẫn mặc quân phục, đeo sao mũ có một hay hai vành vàng, xuống tới đại đội đã tự coi như xông pha khói lửa cực kỳ hiểm nguy rồi.

- Báo cáo trung đoàn, tụi tôi vây dưới thấp, đồn nó trên chóp núi, thép gai với rào tre trải xuống tới ruộng, thêm mấy chục mẫu đất hoang chuột chạy cũng thấy... Súng bắn thẳng không xỉa vô miệng pháo nó được, cối sáu mươi lắp hết liều phụ cũng bắn không tới, đặt giữa ruộng thì đèn dù nó soi xỏ kim được, mà bắn gấp vác chạy cũng không phá được nắp hầm pháo của nó. Dân bị bắt đi cỏ-vê trên đồn nói nó đắp nắp hầm bằng gỗ nguyên cây, tre đực, đất sét, dày tới nửa thước, trên còn xếp bao cát nữa, đạn cối sáu mươi gãi ngứa thôi. Mấy anh tác huấn nói nghe thiệt ngon, bàn tới lui những là vi thành công viện hay là công thành diệt viện, xin các anh bày cách khóa họng pháo cho tụi tôi nhờ với!... Ông Dĩnh ơi, bấm đùi tôi miết chi vậy? Chuyện xương máu anh em, nói lấy lòng thì chết lẹ lẹ!

Hội nghị xôn xao lên một lát, tìm cách gỡ bí. Nhóm địch vận bàn lấy đồn bằng phản chiến, ở đó có hai trung đội ngụy, đủ sức diệt trung đội Âu-Phi chuyên bắn pháo cối. Đại đội trưởng đại 9 đã ăn ngon một đồn bằng cải trang kỳ tập, rất dè dặt khi được hỏi ý kiến: địch mắc lừa vài lần rồi bây giờ e khó, đồn này lại nhiều lính lê-dương. Hay là xin liên khu đưa cây pháo 75 đóng đinh thay kim hỏa ra đây, ngắm qua nòng bắn thẳng? Nó hết đạn từ khuya, tháo vụn đút kho rồi. Hai cây sơn pháo Nhật cũng hết đạn, ta làm đạn nội bắn thử, toác nòng mất một cây rồi.

Ban chỉ huy trung đoàn xúm vào xem sơ đồ khá lâu, đi tới quyết định: đưa về phối thuộc đại 8 một trung đội trợ chiến, một trung đội công binh mới lập. Tan họp, trung đoàn trưởng giữ Chò với Dĩnh lại dặn thêm:

- Công binh mới học phá cầu đường, đánh mìn giao thông, đào công sự, chưa biết rà mìn Mỹ hay cắt thép gai đâu nghen. Trợ chiến khá hơn, có hai cây phóng bom, hai SKZ của Cao Thắng mới chế theo mẫu của bộ Tổng đưa vô, bốn ba-dô-ca bắn gần. Các cha gặp anh em hỏi kỹ thêm, đừng như tay Giáo đại 6 cứ đòi SKZ đặt xa nửa cây số mà diệt lô-cốt xây bê-tông!

Bước vào chiến dịch, công binh chỉ làm được một việc là cho nổ ba cây cầu xi-măng ngắn trên con đường tỉnh lên đồn 76, sau đó chuyên đào hầm hào cho đại đội bộ và cho mình. Trợ chiến làm ăn rôm rả hơn: SKZ và ba-dô-ca của họ đánh toác cái lô-cốt đất giữ cầu cho công binh đặt mìn phá thoải mái. Địch rút bỏ cái lô-cốt gác đường dưới chân đồi 76, chỉ có một tiểu đội Bảo vệ quân chuyên chặn thu gà rượu của dân buôn. Cái lô-cốt ngoại vi thứ ba, gác con đường lấy nước từ đồn xuống sông Thu Bồn, được địch vận trước, mang súng theo ta sau mấy loạt súng và vài quả lựu đạn nổ che mắt địch, cho Tây khỏi hại gia đình lính ngụy.

Cái đồn chính vẫn trơ trơ, ỳ thần xác ra đấy.

Vây thành đánh viện, mà nó chẳng thèm viện, biết làm sao?

Quân vây bắn tỉa nó xổ vài băng trọng liên đặt trên mi-ra-đo ngất nghểu, coi như báo tin ta vẫn thức đây. Nửa đêm, khi quân ta luồn dưới pháo sáng đến sát hàng rào tre gai bao quanh chân đồi, đặt súng phóng bom, tống vội vàng lên đồn năm bảy quả rồi vác súng chạy xăng mét dưới mưa đạn đủ cỡ trút xuống đầu, anh em còn tin rằng mình phá được thứ gì đó của địch. Sáng hôm sau, khi đơn vị bạn nổ súng đánh xe, họ ngây mặt ra mà đếm tất cả các họng pháo cối địch vẫn khạc đạn đều đặn, rồi xịu mặt khi nghe tin nhân mối báo lại rằng đạn phóng bom của họ quả nổ quả không, nổ cũng trật bậy ở nơi rất xa chỗ có lính.

Ba-dô-ca chỉ bắn tầm gần, được điều ngay cho các đơn vị đánh xe. Còn SKZ nội hóa, tuy hay tịt ngòi và bay tùy hứng, vẫn được dùng thử. Bộ đội tìm cách cắt một lỗ ở rào tre, một chỗ luồn qua rào thép gai, liều đưa súng vào sát lớp xoắn bùng nhùng mà bắn phá hầm pháo 75. Chưa xơi được gì đã bị thương vong hai lần, lần đầu vì mìn chồn nối dây vào cọc tre, lần hai vì địch nghe động xối đạn xuống. Đành chịu để cấp trên điều SKZ đi nơi khác, không xin xỏ kiện cáo gì nữa.

Trung đội trưởng trợ chiến Trừng - một cán bộ trẻ, hồng hào, rất tháo vát - trong cơn tức tràn hông, đã mượn ngựa đi thâu đêm về xưởng Cao Thắng II đóng mé trên làng Linh Lâm. Cậu mới trở về trưa nay, đưa theo cả một đoàn vài chục người: hai anh kỹ thuật đi xem bắn thử loại phóng bom mới, mười lăm dân công khiêng súng gánh đạn, ba phái viên tác huấn và quân báo, lại có một cán bộ Trường lục quân đi theo chẳng biết để làm gì.

Năm Chò “hừ” trong mũi khi nghe báo cáo:

- Lão Lý Đằng lại cho tay sai xuống bắt bẻ, vặn vẹo! Ngán cái ông tướng Tàu vàng đó tới cổ rồi!

Sau mấy tháng làm việc trong Tiếp phòng quận - bộ phận quân ta được cử đi kèm quân Pháp sau hiệp định 6-3-1946, khi hai bên tạm ngùng bắn và Pháp đổi gọi những trận càn quét ở miền Nam là hoạt động cảnh sát - ông Lý Đằng được cử làm phó giám hiệu Trường lục quân Quảng Ngãi. Ông nói tiếng Việt khá hơn trước, nhưng vẫn nổi tiếng hách dịch, quân phiệt. Năm Chò ghét ông ta, ghét lây cả những ai từ chỗ ông ta đến đơn vị. Tuy anh không nói toang toang phổi bò như trước, nhưng tiểu đoàn và trung đoàn đều biết bụng dạ anh. Mỗi khi cán bộ khung Trường lục quân đưa học viên đi thực tập chiến trường, muốn về đại 8 nổi tiếng đánh giỏi với anh chỉ huy Năm Phi Đao rất độc đáo, Ban tham mưu thường kiếm cớ lái khéo họ sang đơn vị khác, dù có khi đại 8 đang luyện quân rất gần trung đoàn bộ. Chẳng hiểu vì sao lần này một cán bộ Trường lại lọt lưới đến chỗ Năm Chò! Vây đồn đến ngày thứ sáu rồi, bộ đội đói và bẩn, mất ngủ phờ phạc, thương vong đến bảy người mà vẫn không chặn được pháo cối địch, trái lại cứ phải giơ lưng mà ăn bom đạn đủ cỡ của chúng! Lính cáu kỉnh, Ban chỉ huy bực tức, anh chàng lục quân nào đó lơ ngơ đến đại 8 hãy liệu hồn!

Khác với các hầm của công binh rất chắc và gọn sạch, bốn căn hầm của trung đội trợ chiến khá là nhếch nhác, tạm bợ, chỉ được cái rộng chỗ vì SKZ và ba-dô-ca đã đi nơi khác. Nhờ vậy đoàn dân công có chỗ ở tạm đến mờ sáng mai, sẵn sàng làm cái việc mà cán bộ của xưởng Cao Thắng cũng như của đơn vị đều nghĩ thầm nhưng kiêng nói: nếu loại súng mới này bắn không ra gì, ít nhất cũng có người khiêng súng gánh đạn trở về xê-ca đơ.

Năm Chò bước vào hầm, giụi mắt cho quen ánh sáng chợt sầm xuống, bước ngay lại chỗ để súng, chỉ đáp vội câu chào của hai anh kỹ thuật Cao Thắng đã gặp anh ở Linh Lâm, ngồi xổm xuống bên hai khẩu phóng bom đã chùi sạch, kê dựng nòng. Khác với loại cũ, hai khẩu này to và dài hơn, có chân xếp được như chân cối, đế làm theo kiểu khay úp sấp chống lún trượt và có khớp tròn để xoay trở. Quả đạn to đặc biệt, có chuôi gỗ tiện tròn lắp khít nòng.

- Báo cáo anh Năm, thứ này đạn nặng tới mười một ký, nhơn đó tụi tôi đặt ký hiệu là FB.11 cho dễ nhớ. Nhồi đạn bằng thuốc tô-lít, tức là thuốc nổ TNT trong bom cưa ra. Liều phóng không dùng thuốc đen nội nữa, mà lấy thuốc không khói trong trái đạn cà-nông, nó chịu ẩm tốt hơn...

Góc hầm hên kia chợt bật lên tiếng kêu của Ba Dĩnh, rất khác thói thường điềm đạm của anh:

- Giỡn chi vậy đồng chí! Thằng Cam đang học ở khu Tư kia mà!

Năm Chò quay phắt lại. Mắt anh đã quen bóng tối trong hầm, thấy ngay một anh bộ đội khá cao to, râu quai nón rậm đen bọc gần kín nửa mặt, tóc cạo trọc mới mọc lại chừng một phân, mặc bộ quân phục nhuộm vàng may khác kiểu: cầu vai và nắp túi rất nhỏ, lơ-vê quần chỉ vài phân và có khuy gài túm ống. Anh đứng ngẩn ra phân vân trong khi anh kia cứ ngồi xếp bằng tròn, dựa vách hầm, lặng lẽ nhăn răng cười muốn đứt đôi cái mặt. Đôi mắt xếch, cặp lông mày nét mác, cái cằm chẻ đôi... thiệt nó không... trùng tên... ghẹo nhau chơi... mà đúng nó rồi, cái thằng quỷ tha ma bắt, trời đánh thánh vật kia vẫn cứ đóng kịch với Ba Dĩnh, nhưng nó làm sao qua mắt được Năm Chò!

Anh bước tới gàn, rít khẽ trong mũi, chìa ra hai tay run rẩy. Cậu kia không chịu nổi nữa, chồm vọt lên, nhào vào tay anh. Ngực cậu ta nẩy liên tiếp trên ngực Năm, truyền sang anh những tiếng nấc cố nén. Anh ngửa đầu ra sau để nhìn mặt Cam, chợt thấy mắt mình chỉ ngang cái cằm rậm râu của nó. Dễ sợ chưa!

Tiếng Ba Dĩnh ồm ồm ngay bên tai đánh thức cả hai anh em:

- Vậy mà nó tự xưng là cán bộ Trường lục quân, giấy cũng đề vậy, làm tao tưởng trùng tên!

Sáu Cam buông anh Năm, dặng hắng vài lần mới nói được:

- Thì em ở Trường về đây thiệt chớ. Ở Thanh Hóa vô đây...

- Hừ, sao lại Thanh Hóa? Quảng Ngãi ra chớ?

- Em chưa vô tới Quảng Ngãi. Vô tới Trung Phước, nghe tin các anh đang vây đồn 76, em xin phép hỏa tốc thăm các anh. Anh Ba coi lại giấy đi: Trường lục quân trung học Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ, đoàn cán bộ bổ sung liên khu Năm...

- Ờ, ờ... mà thiệt vậy... trong hầm tối mù khó đọc quá... mà cũng tại mày nữa, thằng khỉ... mới nhổ giò đã lớn nhu Tây lê-duơng!

Trung đội trưởng trợ chiến bước tới chỗ bộ ba đang hồ hởi, nói lễ phép nhưng lộ rõ vẻ sốt ruột:

- Báo cáo Ban chỉ huy, xin cho xuất phát!

Cậu Trừng đã cho đào từ trước, ban đêm, một số hầm hố cho người và đạn, đào đắp chỗ đặt súng. Không đủ hầm cho dân công ở nơi bắn, mỗi cán bộ đi quan sát đều vác mỗi người hai quả đạn. Tất nhiên Sáu Cam cũng được đi. Năm Chò xốc đạn lên vai:

- Bồng em mà bỏ vô nồi... chà, em nặng ký đây... Mày biết bắn phóng bom không Cam?

- Dạ không, tụi em học vũ khí bộ binh thôi, một số cuối khóa còn đi học tiếp pháo hay trợ chiến. Em được cử đi học pháo, mà sốt ruột quá, xin về liên khu mình lẹ lẹ.

Lúc này nắng chiều cuối hè đã đổ bóng các đồi gò xuống phủ màn sẫm trên khúc đường trũng họ đi, trong khi ngọn đồi 76 cao nhạt vẫn sáng gắt từ hàng rào tre bọc chân đồi trở lên. Điều kiện bắn rất tuyệt: địch nhìn ngược sáng bị chói mắt, cứ phơi ngực ra hứng đạn. Bộ đội luồn dưới những đám bói xơ xác, đến các công sự đào sẵn mà không phải bò toài vất vả.

Trong khi nhóm pháo thủ hối hả mở ba-lô lấy đầu nổ, thuốc phóng, đạn không đầu làm mồi lửa, hai anh Cao Thắng kéo cậu Trừng ra mép vạt bói, gắt khẽ:

- Đã dặn các anh trí súng cách ba trăm thước thôi, là tầm bắn hết liều, các anh đặt đây cách mi-ra-đo của nó tới hơn bốn trăm, đạn rớt ngoài rào hết!

- Nói anh biết, tụi này bắn súng cầu vồng mòn da tay, còn các anh nằm miết trong núi du di...

- Đồng chí đùng nóng. Chúng tôi thử súng, phải kéo dây đo đúng từng thước để chỉnh tầm chỉnh hướng, quen ước lượng bằng mắt rồi...

- Dẹp ba cái lý thuyết suông đi! Anh em xong chưa? Chuẩn bị!

Ba Dĩnh khoát tay cho mọi người xuống hầm hố. Trung đội trưởng hầm hầm bước tới bên đế súng, ngồi xổm, xem lướt qua các bộ phận, xoay thử quả đạn cắm chuôi vào nòng, buông cộc lốc:

- Núp kỹ chưa? Tôi nổ đây!

Tách, bụp... uỳnh! Kim hỏa đánh xuống, viên đạn nhỏ không đầu phụt lửa, liều thuốc phóng xoẹt nổ thành tiếng trầm và rền như bom nổ sâu trong lòng đất. Khói trắng đục phì thành luồng vừa phải, không đen đặc như thuốc tự tạo. Quả đạn bay lên trông thấy rõ, đầu đen rung nhẹ, cái chuôi gỗ ngoáy ngoáy. Nó dừng lại trên không thành một chấm đen nhỏ tí, chúc đầu rơi xuống, biến mất.

Rầầầm!

Anh em đã nhảy hết lên mặt đất, reo khẽ, trầm trồ. Phóng bom có khác, nổ bằng quả bom thứ thiệt, chết mày Tây ơi!

Năm Chò vừa toét miệng cười, bỗng nghiêm ngay. Quả đạn dựng cột khói bên trong hàng rào tre, chưa rướn tới ba lớp rào thép gai và con hào lởm chởm chông, cách bức tường gỗ đất và các lô-cốt xây liền tường những hơn trăm thước!

Địch nghe tiếng nổ lạ, chưa bắn trả. Có thể chúng tưởng con gì chạy vướng mìn chôn giữa các hàng rào, không định hướng được tiếng nổ rất trầm và không thấy làn khói nhẹ tản trong bói. Trừng hỏi giật giọng hai pháo thủ đang nhồi thuốc phóng vào nòng:

- Lắp liều mấy?

- Dạ liều ba... cũng như phát trước...

Trừng vung tay. Cậu kia né đầu không kịp, bị cái tát bật ngửa, máu mũi bắt đầu túa đỏ.

- Tao đã dặn lắp liều tối đa, liệu hồn! Mày cố hại tao hả?

Pháo thủ thứ hai lẳng lặng nhét thêm một túi vải tròn dẹt như cái bánh dày vào nòng, dùng cây gỗ tròn thúc nhè nhẹ. Hai anh Cao Thắng nhào tới:

- Bắn liều bốn phải núp hầm, dùng dây kéo cò, anh quên à?

- Xê ra! Đái trong quần rồi hả?

Năm Chò không kịp chặn, chỉ khoát tay ra lệnh tất cả xuống hầm. Trừng ấn cò. Đất rung mạnh hơn, tiếng nổ đầu nòng to hơn, đạn vọt nhanh hơn. Cột khói thứ hai dựng lên giữa hàng rào thứ nhất và thứ hai, cách bờ tường độ năm chục thước. Cuộc bắn thử thất bại!

Năm Chò quát khẽ một lệnh gằn giọng:

- Thôi bắn, thu pháo xuống hầm, đợi địch phản pháo xong sẽ về rút kinh nghiệm. Trừng, nghe rõ không? Thu pháo lập tức!

Mặt đỏ tía, mồ hôi nhỏ giọt dưới cằm, mắt vằn máu và lồi hẳn ra, trung đội trưởng trợ chiến đáp lệnh bằng một câu chửi rất tục. Cậu tự tay vơ những túi thuốc phóng nhồi hấp tấp vào nòng. Một anh Cao Thắng rít qua kẽ răng:

- Nguy rồi, hắn lắp liều năm, liều hủy pháo!

Vừa lúc ấy, một tràng đạn trọng liên từ trên mi-ra-đo xổ xuống chung quanh chỗ đặt cây phóng bom. Đạn xóc vào đất đá, nổ lại tóe lửa. Chíu chíu, tốc tốc, phụp phụp, pằng pằng. Còn may bóng tối đã khá sẫm, địch chỉ xăm tràn lan trong khi pháo 75 và cối 81 vội vã xoay nòng. Bộ đội nhảy ào cả xuống hầm. Trên đồn dội lên bốn tiếng đê-pa của súng cối, pì-pì-pì-pình! Nhưng pháo địch lúc này không nguy hiểm bằng pháo ta...

Rầầầm!

Tất cả những cặp mắt nhô trên mép hầm cùng thấy quả đạn phóng bom vọt nhanh như chớp, cái chuôi gỗ gãy nghiến xoáy tít trên họng súng, bụng khói đặc sệt phì tung toé chung quanh đế súng, một hình người văng khỏi mặt đất và rơi ngửa ra sau. Tiếng ù ù ong ong trong tai chưa dứt, mọi người nhận ra ngay tiếng rít xé vải của loại đạn cối 81 rơi thẳng xuống đầu.

Địch chỉ băm vằm trận địa chừng hai chục phút. Hẳn chúng đoán Việt Minh bắn quấy rối xong đã vác súng chạy xa. Bị bao vây sáu ngày, chỉ tiếp tế bằng thả dù, chúng hà tiện đạn hơn trước. Đoàn bắn thử rút về, khiêng theo một xác chết, ba bị thương, một cây phóng bom toác nòng và văng mất bộ máy cò, chỉ đem về để nghiên cứu.

Đêm ấy hầu hết đại 8 không ngủ.

Cán bộ họp gấp, quyết định giữ lại cây pháo còn tốt và nửa số đạn, tuy hai anh Cao Thắng nổi khùng cứ nằng nặc đòi rút về hết. “Tụi tôi chế súng đạn cho cả liên khu, chẳng sợ ế khách đâu!”. Ba Dĩnh phải dỗ ngọt rất lâu họ mới chịu ở lại một người, anh kia bị thương trên trán phải về chữa.

Sáu Cam ngủ với Năm Chò trên tấm sạp tre hẹp lót đáy hầm, ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của ông anh nặng nợ Lưu Linh. Ba Dĩnh túm chăn làm võng nằm góc bên kia, thỉnh thoảng nhắc cầm canh là phải ngủ, đến nửa đêm sẽ đi coi trợ chiến đào công sự cho pháo và người ở chỗ mới. Im một lát, rồi một trong ba anh em lại trằn trọc, ngọ nguậy, ngồi lên hút thuốc hay đi tiểu, thì thào mở đầu một câu chuyện mới. Ai nấy đều tránh nhắc tới cuộc thử súng ban chiều.

Sau một loạt cối địch bắn hú họa. Năm Chò vùng dậy hẳn, đánh bật lửa châm vào cái đèn thẫu dầu dừa - trong hầm thắp loại này đỡ khói khét - bảo Cam:

- Nói nhỏ cho cụ Dĩnh ngủ... Kể tao nghe coi, mày làm gì học gì ngoài khu Tư lâu lắc vậy?

Cam tóm gọn: học chuyên khoa văn học năm thứ nhất tám tháng ở trường Huỳnh Thúc Kháng, trở về đại đội địa phương huyện làm cấp dưỡng, học Trường lục quân mười lăm tháng, hành quân vào thẳng đây.

- Trên nuôi khá lắm hay sao mày cao to nhu Tây vậy?

Cam cười xoà. Khá thì không, nhưng mỗi ngày tám lạng gạo đủ no, chế độ phòng bệnh tốt. Thức ăn bốn lạng gạo quy ra tiền, chỉ có một ít moi khô rang mặn, vài đũa rau muống...

- Có gặp tay nào quân phiệt như Lý Đằng không?

- Mấy tháng đầu cũng có. Sau Bộ Tổng cử một đoàn vô chấn chỉnh rất gắt, chấm dứt được, nửa khóa sau không khí ủng cán ái binh tốt lắm. A mà anh không biết ông Lý Đằng ra Bắc rồi à? Em gặp ổng ở chiến khu Ba Lòng, chỗ phân khu Bình Trị Thiên đóng, ổng đợi xoi đường Chín đang bị bít cứng.

- Chắc lão đi ngựa, lên yên phải có người bưng đít...

- Gớm, làm gì! Chống gậy đi bộ, ưu tiên được khỏi mang ba-lô... Em nói thiệt cái này, anh đừng giận nghen. Các anh đang bế tắc cái vụ đánh công kiên, phải chưa?

- Mày thấy đó. Quấy rối kềm chế cũng chẳng được, nói gì công với thủ!

- Khóa tụi em đáng lẽ xong lâu rồi. Bộ Tổng giữ lại cho học thêm ba tháng công kiên chiến, một tháng liên tục vận động. Học công kiên phải rút vô vùng Mường giữa núi, đắp đồn thiệt, đào hầm hào thiệt, giựt bộc phá thiệt, mệt kinh khủng mà cũng ham ghê gớm. Em được xếp loại khá về chỉ huy liên tục bộc phá với lại giá thiết, đánh tung thâm cũng đường được...

- Sao mày nói đầy tiếng Tàu như Lý Đằng vậy nhỏ?

- Hì hì hì... Là tại cán bộ nhà trường đi tập huấn với cố vấn Trung Quốc, trúng mấy ông phiên dịch không biết nói nôm ra sao, cứ chuyển qua âm Hán - Việt cho mau. Các anh đọc cuốn “Sửa đổi lối làm việc” rồi chớ? Đó, Bác Hồ chê gắt cái tật nói chữ, lắm khi nói trật bậy làm trò cười, vậy mà mấy ông dưới có chừa đâu. Mới đầu tụi em nghe cũng ngớ ra: tính co giãn thì nói là thân xúc tính, tổ thang cầu kêu là giá thiết đội, khêu gợi cho anh em nói để hiểu thì làm một tràng “đả thông trên tinh thần khải phát”. Cứ như anh Năm tập cho du kích hay chen tiếng Tây vô, hồi trước khởi nghĩa!

- Thì tao chịu dốt chứ có khoe khôn đâu mày! Hỏi thiệt nghe Cam, thứ công kiên chiến mày học, đem đánh mấy cái đồn to cỡ này nhắm có phủng không?

Cam nín lặng vài phút, đáp rất cứng giọng:

- Được anh à. Đại 8 mình đây, cho tập vài ba tuần, phối thuộc thêm năm bảy cây trung liên đại liên, em cho đủ sức diệt cái 76. Mình vô được trận nội rồi, đánh lính pháo thủ không khó đâu. Em nghe mấy anh tham mưu liên khu đón đoàn em ở Trung Phước, nói liên khu tính mở gấp một đợt huấn luyện công kiên chiến, cán bộ trước, chiến sĩ sau. Anh nên đi, anh Năm ơi.

- Ờ, tao thọ giáo thằng Cam chẳng xấu mặt nào!

Ba Dĩnh nằm im từ nãy, bỗng chen vào một câu tỉnh như sáo:

- Cha Năm không đi, để tao đi cho. Mỗi lần đụng đồn lũy nó là một lần trầy vi tróc vảy, ngán kinh!

- Cụ chỉnh tôi hoài chuyện nhác học, giờ tôi sửa... Nói tình thiệt, hễ thằng Tây La-phạt còn bám cái đồn này, đừng hòng tôi đi đâu xa, nhứt quyết ở đây mà đổi mạng với nó. Phóng bom chẳng ăn thua thì tôi phóng dao!

*

* *

Năm Chò lầm to.

Thằng đại úy Pi-e La-phác-sơ mắc kẹt trong đồn 76 suốt những ngày bị vây hãm, do một sự tình cờ hiếm có. Hắn không nắm quân, mà đến để sắp xếp “kế hoạch X”.

Dân chúng ngoại ô Viêng Chăn, gần khu đóng quân của Bộ chỉ huy quân khu Thượng Lào, ngày càng khiếp ông xắc xảm bạ[1] và nhóm tay chân của ông ta. Hễ thấy từ xa hai ba chiếc xe Gíp tung bụi phóng ào tới, dân đi đường cứ là mạnh ai nấy tránh, dù phải vọt xe lên vỉa hè hay nhào vào cửa tiệm gần nhất. Trên các xe Gíp chất đầy những sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp say mèm, cười hô hố, bắn loạn xạ, ném vỏ chai rỗng vào tủ kính dọc phố.

Vương quốc Lào trương lá cờ voi ba đầu che lọng trắng trên các công sở mới được Pháp bố thí cho, thường hạ cờ với một mớ lỗ thi bắn. Những bóng điện đường là đích được ưa thích khi xe chạy nhanh. Điểm bắn tầm xa là những thuyền độc mộc trên sông Mê-công khi tan chợ chiều: bắn hạ người hay toác thuyền còn tùy theo người cá cược.

Sau vụ kiện căng thẳng nhất, có cả bộ trưởng Bộ nội vụ Lào ký đơn - bù nhìn đến mấy cũng phải mở miệng khi hai cảnh sát Vương quốc bị ném từ trên cầu xuống sông, chết đuối một - cha con La-phác-sơ quần thảo một trận chí tử. Cha tát con tới tấp, con đạp cha ngã ngửa và chĩa súng dọa bắn. Mãi đến gần sáng mới tạm hưu chiến, đi ngủ.

Lão Lê-ông thăm dò khắp nơi, thấy Pi-e lâm nguy thật sự. Tòa án quân sụ khui các vụ cũ ra xử gộp, không tử hình cũng tù rục xương, bởi lúc này đang phải điểm phấn tô son cho cái triều đình Vương quốc đã trót đánh đĩ nhiều nơi. Pi-e có thể là con vật hiến tế công khai, trong khi các sĩ quan khác vẫn tha hồ giết, cướp, đốt, hiếp trong các trận càn quét xa kinh đô.

Đêm tiếp theo, cha con không đấu võ mà đấu khẩu. Tội vạ rành rành đấy, nhưng Pi-e vẫn xa xả kể tội cha: giàu tấy lên đến cái độ xúc tiền bằng xẻng mà keo kiệt với con, giấu của để hút xách, bao gái, hay chỉ vì máu ham vàng của lão Grăng-đê. Hắn nói trúng tim đen, nhưng lão Lê-ông đã trở lại là tay chạp áp-phe máu lạnh, cãi ít tính toán nhiều. Dù sao Pi-e cũng là đứa con trai độc nhất của lão...

Quyết định cuối cùng: lão cấp tiền cho Pi-e đi xa chừng ba tháng, rời hẳn đất Lào, làm một số việc dễ dễ trong “Kế hoạch X”. Lão ở lại Viêng Chăn, tìm cách ỉm vụ bê bối này cùng các vụ trước bằng tiền lót tay đấm mõm. Nếu tạo được bằng chứng giả để biến tên cảnh sát chết đuối thành người của Neo Lao-Itxala[2] thì hay tuyệt, tội của Pi-e sẽ hóa ra công!

Lão Lê-ông cấp tiền mặt chỉ ba chục ngàn, nhưng ký ba cái séc lãnh tiền ở ba chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Mác-xây, Sài Gòn, Đà Nẵng. Việc của Pi-e đơn giản thôi: áp tải một chuyến hê-rô-in sang Mác-xây bằng máy bay và giao cho mạng lưới bán lẻ của thằng Ghê-ri-ni, chơi rông ở chính quốc ít lâu, về Đông Dương thu xếp mấy bãi thả dù trong khu vực Sài Gòn, Đà Nẵng.

Pi-e được món tiền khá to, đã trở lại ngoan ngoãn. Lão Lê-ông mở bản đồ lớn ra giảng giải:

- Việc ba làm, ngày càng khó giữ bí mật. Bọn Mỹ trút đô-la vào đây, cũng trút bọn ngoại giao, điệp viên, nhà báo vào theo lu bù. Thêm các nước đồng minh hờ tới cắm cờ nữa. Phải đưa hê-rô-in lánh xa các thành phố lớn, căn cứ lớn, sân bay lớn. Ngay cái xưởng LX.01 trong sân bay quân sự này chưa chắc đã kín, ba đang cho xây một xưởng dự trữ trong rừng sâu, hễ lôi thôi thì tháo máy chuyển gấp đi. Trạm máy bay đỗ dọc đường đặt ở Pạc-xê, được, bọn chó săn ít dùng chỗ ấy. Sân bay Tân Sơn Nhứt bị cấm hẳn rồi, Ô Cấp với Cam Ranh bắt đầu bị để ý. Đại tá Ben-lơ với số sĩ quan làm “Kế hoạch X” bàn với ba nên chọn điểm thả dù là hay nhứt, ngoài nhìn vào hệt như tiếp tế bình thường. Bãi thả đặt ngay trong đồn hay sát đồn, xa thành phố lớn nhưng có đường bộ tốt để áp tải hàng đến sân bay, bến cảng, chạy ban đêm...

- Ba mới nói Tu-ran... à, Đà Nẵng... nó trái đường sang Pháp kia mà!

- Xem bản đồ đây. Từ Pạc-xê hay xuyên ngang Đông Dương đến Đà Nẵng trên xấp xỉ cùng vĩ tuyến. Nó trái đường sang Pháp nhưng rất thuận đường đi Hông-công, Đài Loan, Phi-líp-pin, Nhật, từ đó hàng của ta tuôn sang Hoa-kỳ là cái thị trường lý tưởng, nhất thế giới. Hễ bí đường bay thì còn tàu chiến, còn cái va-li đút dưới giường ngài đô đốc... Hôm trước ba gặp thằng thiếu tá Tranh-ki-ê, nó bảo cái đồn 76 con chỉ huy năm ngoái bây giờ mở rộng thêm, tăng quân tăng pháo, làm được một sân bay dã chiến khoét vào sườn núi. Đường bộ từ đó xuống biển hay về thành phố đều tốt, có cảng biển, sân bay. Con ghé về đấy xem thử.

- Chỉ có một trở ngại: Việt Minh!...

- Thứ ấy thì nơi nào cũng sẵn!

Pi-e giao xong hàng tại Mác-xây, đến ở một khách sạn loại sang trên phố Brơ-tơi gần Cảng Cũ, háo hức đi xem cái thành phố gốc tích của gia đình hắn, cánh cổng lớn mở đến các thuộc địa, nơi dày đặc những băng lưu manh hung dữ và các tổ chức thợ thuyền thân cộng sản chai lì nhất, giờ đây là căn cứ hậu cần khổng lồ của chiến tranh Đông Dương. Chỉ sau năm bảy ngày hắn đã chán. Tìm bà con họ hàng, chẳng còn ai. Dạo phố trong bộ quân phục gắn lon đại úy, người dân thường ngoảnh mặt không thèm ngó. Vào tiệm ăn, bồi bàn đón xoắn xuýt nhưng mắt gườm gườm trông chừng, sợ ăn quỵt hay phá phách, lính sắp xuống tàu qua Đông Dương thường tự coi như đi xuống mồ.

Cha hắn lắm lúc mơ màng nhắc tới các món ăn Mác-xây. Hắn nếm thử sò huyết sống; thấy lợm cổ. Thứ cầu gai[3] vỏ như nhím, ăn chỉ nhạt phèo. Hắn cố tìm ra một quán bán ca-la-mai-ô, thứ xúp nấu bằng bạch tuộc mà cha hắn rất mê, rồi phải bỏ lại hai phần ba đĩa xúp đầy những khúc vòi màu đỏ pha tím. Cả món cháo cá nổi tiếng khắp vùng ven Địa Trung Hài, cháo bui-a-bét-xơ cay thơm, chẳng là gì cả so với các của ngon Viễn Đông. Và tất cả đều đắt lòi con ngươi. Một bữa ăn trên đại lộ Ca-nơ-bi-e theo khẩu vị đảo Coóc-xơ đắt gấp bốn năm lần một bữa y hệt ở Sài Gòn, cũng do đầu bếp người Coóc-xơ nấu nướng!

Không, hắn không sống ở Pháp được đâu. Không chút kỷ niệm nào kéo hắn về với nước mẹ. Tiếng Pháp ư? Hàng mấy chục nước to nhỏ dùng tiếng Pháp, sang đến Ca-na-đa cũng có hàng triệu dân gốc Pháp kia mà! Hắn sinh tại thuộc địa, đời hắn xích chắc vào thuộc địa, và đối với một sĩ quan thì ở thuộc địa có nghĩa là đánh nhau chí tử để giữ lấy thuộc địa. Hắn không có nghề gì khác ngoài binh nghiệp, nghề vĩnh viễn cầm súng. Một định mênh quái ác!

Pi-e về Sài Gòn sớm hơn dự định, giấy giới thiệu đặc biệt của cơ quan phản gián SDECE giúp hắn tranh chỗ trên máy bay rất dễ. Tìm thằng bạn đại úy thiết giáp, chơi động trời với nhau dăm ngày, rồi hắn theo đoàn công-voa tiếp tế lên thăm vợ chồng em gái, mang theo lá thư mật của cha hắn gửi con rể Ăng-đrê Ri-sô.

Đồn điền Ri-sô xem chừng ăn nên làm ra. Khúc đường rẽ vào khu nhà chính được mở rộng và rải nhựa, xe tải tránh nhau được. Nhà phụ xây chắp thêm một dãy dài lợp ngói mới. Máy phát điện chạy rù rù giữa ban ngày, kèm nhiều tiếng xoèn xoẹt của máy cưa và các thứ động cơ khác. Hai xe tải, một lớn một nhỏ, đậu trước nhà kho đang chất hàng, trong khi chiếc máy kéo bánh cao-su lắp rơ-moóc nằm đợi chỗ góc sân. Một giám thị có nước da của người Ả-rập đang chỉ trỏ giữa mấy chục phu khuân vác.

Gia-nét đã sinh con thứ hai, thân vẫn gọn và mặt vẫn trẻ như hồi con gái. Ăng-đrê thay đổi nhanh hơn nhiều, má sệ và bụng bắt đầu phệ, đỉnh đầu đã thưa tóc, từ dáng vẻ hoạt bát của một kỹ sư nông nghiệp ngả sang oai phong của ông chủ đồn điền đứng tuổi.

Hai vợ chồng đón Pi-e niềm nở nhưng hối hả. Ăng-đrê hỏi thăm sức khỏe anh vợ và cha vợ, mắt vẫn nhìn sang chỗ đám phu bản xứ đang chất những kiện cao-su sống lên xe. Gia-nét hôn anh rối rít, lau mắt, giục người ở dọn buồng, mở nước bể tắm, làm cơm cho anh, xong chạy vào với con. Chỉ mươi phút sau, chỉ còn Pi-e ngồi lại một mình trên ghế bành trong phòng khách rộng và mát như hang đá, lúc này bật đèn nê-ông sáng tựa ban ngày. Ăng-đrê nhét túi lá thư của cha vợ, chưa kịp đọc.

Đồn điền Ri-sô còn một khoảnh đất chừng năm chục héc-ta bên kia đường ô-tô, chạy dài đến chân đồn, còn bỏ cho năn lác mọc chứ chưa trồng nốt cao-su vì Ăng-đrê ngại bọn lính đồn hay bắn xỉa xuống vung vãi. Lê-ông La-phác-sơ muốn dùng nó làm bãi thả dù. Chỉ cần Bộ chỉ huy ra lệnh và nhóm “Kế hoạch X” giúi tiền, đám sĩ quan trên đồn và chỉ huy thiết giáp sẽ đón hàng và chuyển hàng dễ như chơi.

Pi-e ngủ đến ba giờ chiều, ra phòng khách, thấy Ăng-đrê đeo kính gọng vàng ngồi trầm ngâm, còn Gia-nét cầm thư cha trên tay với cặp mắt hơi sưng. Ăng-đrê nói gì ấp úng, bỏ đi vội. Gia-nét bật khóc thút thít:

- Nhân danh Chúa... em van ba với anh, đừng bắt chúng em dính vào những... những vụ khủng khiếp ấy... Ba về đây đi sục khắp nơi, nói là muốn góp vốn mở rộng đồn điền, em tưởng thật... Ba hứa chia lãi to lắm, xấp xỉ số lãi đồng niên của đồn điền, coi là đặc ân cho vợ chồng em, nhưng lạy Chúa, em sợ đồng tiền ấy lắm. Ăng-đrê bàn cứ làm thử một vài năm, kiếm thêm ít vốn rồi ngừng, em can anh ấy... cắn vào lưỡi câu rồi làm sao nhả được...

Pi-e ngồi lặng cả trong khi Gia-nét kể lể tiếp những gì không rõ về chiến sự, con cái, thuế nộp cho Bảo Đại và Việt Minh, cuộc sống hậu chiến. Hắn chỉ nghĩ chua chát rằng vợ chồng em hắn dứt khoát thu mình trong cái ốc đảo trung lập này, ôm ghì lấy mảnh đất kiếm sống sau nhiều năm lên voi xuống chó, sẵn sàng chấp nhận sống với cộng sản hay quỷ Xa-tăng nếu cần. Trong khi đó cha hắn vẫn gửi tiền về giúp con gái và cháu ngoại, hắn vẫn đánh nhau trật xương để ngăn chặn cộng sản chiếm hết Đông Dương. Cái bụng phệ của Ăng-đrê ngày càng phệ hơn, bầy con đẻ sòn sòn của Gia-nét ngày càng đông hơn, sức ỳ của chủ đất ngày càng nặng hơn, đừng hòng lay chuyển!

Chuông điện thoại chợt réo chỗ góc phòng. Gia-nét bước vội đến nhấc máy:

- Vâng, đồn điền Ri-sô đây. Tôi là bà Ri-sô, rất hân hạnh... Ba vị đến, chín giờ sáng mai, vâng... Ồ, sao lại phiền? Trái lại, là vinh dự đối với một gia đình chỉ biết cao-su và cao-su... Xin được ghi để báo cho chồng tôi... Xin nhắc lại xem đúng hay sai: ông Giêmx Kít-man, hãng UPI, bà Mỹ Duyên, hãng AFP, một phóng viên nhiếp ảnh... Vâng, nói tiếng Pháp được cả, thật may mắn cho anh Ri-sô nhà tôi, anh ấy chỉ nói tiếng Anh được câu đón chào và tạm biệt... Sáng mai nhé, bai bai!

Pi-e hất hàm ra ý hỏi. Gia-nét cười:

- Bọn nó muốn phỏng vấn một chủ đồn điền sống trong vùng thiếu an ninh. Ăng-đrê đã tiếp vài nhóm như thế rồi, anh ấy đối đáp rất khéo, Việt Minh nghe trên đài bá âm cũng chẳng mếch lòng. Quên không hỏi, anh biết Mỹ Duyên là ai không?

Pi-e nhăn trán, cố nghĩ, không nhớ ra. Một ả giang hồ nào hắn gặp giữa lũ gái điếm? Một mụ vợ tướng tá bản xứ nào mà hắn phải tởm lợm khi mời nhảy trong dạ hội?

- Em nhắc nhé. Đó là người vợ ba của lão tri phủ tên là Đinh hay Đính gì đó, một chủ ruộng ở sát đồn điền của ba tại tỉnh Quảng Nam, hồi xưa. Ả này học trường đầm ra, nói tiếng Pháp rất khá, tiếng Anh cũng trôi chày, thuộc loại phóng viên sắc sảo của AFP, đến đây lần này là lần thứ ba. Mới khoảng hăm ba, hăm tư, tất nhiên chẳng ai hỏi tuổi phụ nữ, mà em đoán thế... Nhớ ra chưa?

- Chịu thua!

Trước sân nổi lên ba tiếng còi bấm giục. Y hệt lần trước Ăng-đrê đã lái chiếc xe tải nhỏ đến trước thềm, chờ đưa Pi-e lên ngủ trên đồn. Gia-nét rút từ đâu đó ra chiếc cặp lồng ba ngăn kèm một chai cô-nhắc Mác-ten, nói lại lời dỗ ngọt dạo trước: “Anh đừng giận, ban đêm không yên ổn...”.

Pi-e được mời dự cuộc cặp các phóng viên sáng hôm sau. Rõ là hắn chưa từng gặp Mỹ Duyên. Khi biết Pi-e mãi đến năm ngoái còn đóng đồn tại Quảng Nam, Mỹ Duyên hỏi dồn dập về làng Linh Lâm và gia đình phủ Đỉnh. Pi-e không biết gì ngoài việc ông phủ và con trai ông ta là Khánh đều sống trong vùng Việt Minh, hình như làm quan chức Việt Minh.

Ngắm Mỹ Duyên hồi lâu, thầm khen nàng khéo giữ nhan sắc, Pi-e buông một câu nịnh đầm:

- Với tư cách phóng viên, với tài năng và sắc đẹp của bà, bà có thể đi thẳng vào vùng kiểm soát của họ mà viết phóng sự, khó gì!

Mỹ Duyên cười rất tươi:

- Tôi chỉ là phiên dịch, mới chuyển qua phóng viên tập sự, lại làm việc cho một hãng tin của Pháp kia mà. Nói theo người Việt Nam, ông đang xui tôi đi vào chỗ hàm chó vó ngựa... Xin lỗi ông, tôi tiếp tục hỏi ông bà Ri-sô mấy chi tiết.

Nhưng Mỹ Duyên không chen được vào câu chuyện thao thao của Kít-man, một người Mỹ mặc áo ngắn quần soóc, phơi tay chân rất rậm lông nâu:

- Ông bà đã bị cộng sản bắt đi huấn luyện chưa? Tức là chúng làm brain-washing... cô Duyên, brain-washing tiếng Pháp là gì?

- Tẩy não.

Ăng-đrê khoát tay:

- Không lần nào.

- Nhưng tôi nghe Phòng Nhì bảo ông từng bị cộng sản bắt giữ, họ đã hỏi ông về vụ này?

- Ồ, chuyện vớ vẩn. Tôi với Mô-ham-met A-li, giám thị người An-giê-ri, đi săn trong rừng hoang. Mải theo dấu con nai to, chúng tôi lạc xa đường ô-tô chừng năm sáu cây số, gặp một toán du kích mươi người. Họ giữ chúng tôi lại, thu súng, đi gọi chỉ huy. Chừng hai mươi phút sau người chỉ huy đến, nói tiếng Pháp thạo, xem giấy tờ, ra lệnh trả súng lại, cho một nhóm dẫn chúng tôi trở ra đường cái. Xong!

- Chúng lấy cung, hăm dọa, bắt nộp tiền chuộc?

- Không. Họ chỉ dặn đừng vào rừng sâu như thế, có thể dẫm mìn hay rơi xuống hố chông của họ.

- Cũng là một kiểu hăm dọa, cản trở tự do... Chúng thường gặp ông bà ngay tại nhà, nói chính trị nhiều?

- Trung bình mỗi tháng một lần, hay một tháng rưỡi. Họ dặn chúng tôi cứ làm ăn bình thường, đừng chống lại phe Kháng chiến, đối xử tốt với phu đồn điền, nhắc chúng tôi đào nhiều hầm tránh bom đạn vì chiến sự có thể bùng lên đột ngột.

Gã phóng viên Mỹ thất vọng ra mặt:

- Xin lỗi, tôi không nghi ngờ lời ông, nhưng người Mỹ chúng tôi ưa thẳng thắn... Tôi không tự giải đáp được chỗ khó hiểu này. Ông là người Pháp, xin lỗi, là thực dân Pháp đang đánh Việt Minh. Ông lại là chủ tư bản, địa chủ lớn theo tiêu chuẩn xứ này, ông bóc lột nhân công và theo đạo Thiên Chúa. Tất cả đều trái ngược với Việt Minh cộng sản, chúng là vô sản, vô thần, căm thù thực dân, tư bản, địa chủ, luôn luôn tuyên truyền chống Pháp, chủ trương đấu tranh giai cấp để diệt hết bọn bóc lột. Tại sao ông có thể cọ xát với những kẻ cuồng tín như vậy mà không gặp nguy hiểm?

- Ồ, ông Kít-man, tôi chỉ là người trồng và bán cao-su, làm sao hiểu nổi bấy nhiêu điều huyền bí! Ông đã quen với Phòng Nhì, họ sẽ giúp ông khám phá những vấn đề chiến lược!

Kít-man bật kêu lên như reo, vỗ trán:

- Tôi quên, tôi vừa nghĩ ra... Hẳn chúng nó xem ông như con bò sữa nuôi chúng, như một con tin chúng nắm trong tay để đem ra mặc cả khi cần đổi người của chúng bị Pháp bắt, như tai mắt của chúng để theo dõi tình hình quân Pháp, tình hình các thành phố?

Giọng Ri-sô lạnh như băng:

- Trí tưởng tượng đưa ông đi quá xa rồi đấy, ông Kít-man!

Ngồi hơi lùi ra mé sau, Pi-e chưa hề lên tiếng, lúc này bỗng chen vào:

- Đến lượt tôi muốn hỏi ỏng Kít-man một câu, được chứ!?

- Rất sẵn sàng, thưa đại úy. Ông đến làm việc với ông Ri-sô?

- Xin tự giới thiệu: tôi là Pi-e La-phác-sơ, anh ruột bà Gia-nét Ri-sô, đến thăm em gái từ trưa hôm qua. Tôi đánh giặc ở Đông Dương từ những ngày đầu nổ súng.

- Hân hạnh tuyệt vời! Dịp may hiếm có! Tôi mong được ông soi sáng...

- Tôi không muốn và không thể soi sáng cho ai cả. Tôi chỉ cần biết một điều: ông Giêmx Kít-man là ai? Là nhân viên tình báo Mỹ, là sĩ quan Phòng Nhì hay phản gián Pháp, hay cũng có thể là một phóng viên chuyên moi chuyện người để viết theo ý mình?

Mỹ Duyên che miệng cười. Ăng-đrê ngoảnh mặt đi, nhắc vợ lấy thêm rượu và cà-phê, rõ ra ngượng gạo. Gia-nét hơi tái mặt, đứng dậy ngay. Trước cặp mắt gườm gườm vằn đỏ của Pi-e, mặc quân phục và đeo đủ huân chương, gã người Mỹ ngớ ra, nuốt nước bọt liên tiếp, mặt hết đỏ lại nhợt, bàn tay gãi đùi như máy. Mãi gã mới buông ấp úng:

- Sorry, very sorry... It’s only a misunderstanding[4]… Chúng ta là đồng minh, là bạn, phải không nào?

- Tôi chờ được trả lời: ông là ai?

Từ đường ô-tô chợt dội vào ba tiếng trọng liên nổ rời nhau, cách chừng vài cây số. Bẵng mấy giây, lại thêm ba tiếng nữa. Kít-man hớt hải vồ lấy cái máy ghi âm đang chạy, nhét bừa vào túi du lịch, đứng vọt lên. Mỹ Duyên xua tay:

- Đừng vội, Giêmx. Đoàn công-voa trở về Sài Gòn đang báo cho ta kịp sửa soạn đi chung, mươi phút nữa họ sẽ qua trước đồn điền. Tất nhiên, nếu anh muốn đi tách riêng cho thoải mái...

- I’m not a fool, no![5] Xin cảm ơn ông bà Ri-sô về cuộc gặp gỡ rất bổ ích và thân tình. Còn về câu hỏi của ông đại úy, thời gian sẽ cho biết ai là ai. Mọi sự chưa đến gần chỗ kết thúc đâu, thưa ngài sĩ quan viễn chinh Pháp!

Dứt câu nói hằn học, Kít-man bước thẳng ra chiếc xe du lịch sơn đen đậu trước thềm. Lái xe người Mỹ da đen ngồi trong xe như tượng suốt hai giờ qua, Gia-nét thương tình đã bưng ra cho gã một khay bánh mì kẹp thịt và nước cam chai. Cửa xe đóng sầm sầm, xe vù đi tung bụi.

Lập tức Gia-nét trách ông anh nóng nảy, gây thù kết oán với bọn Mỹ thêm phiền. Pi-e lắc đầu:

- Em chưa biết. Chúng nó mới sang, kiêu ghê gớm, tưởng bỏ đô-la ra sẽ mua được tất cả, khinh người Pháp chúng ta là đồ ăn hại đái nát. Nếu Ăng-đrê tỏ ra nhút nhát, chúng nó sẽ bám dai như đỉa đói, truy ngược vặn xuôi, kỳ cho vợ chồng em chịu nhận có nộp thuế cho Việt Minh, nín lặng khi bắt gặp Việt Minh hoạt động, mua thuốc mua vải gì đó cho Việt Minh. Chúng không mách cho Pháp biết đâu, mà dùng những vụ “tiếp tay đối phương trong chiến tranh” để ép vợ chồng em làm việc cho CIA, từ dễ đến khó. Các em sẽ biến thành kẻ thù của lực lượng Pháp tại Đông Dương. Nguy hiểm sẽ đến từ mọi phía: Việt Minh có thể bắt cóc các cháu đòi tiền chuộc, quân Pháp và bọn Bảo Đại muốn ám sát một điệp viên, ngay CIA cũng không ngần ngại khi cần bịt đầu mối. Rõ chứ, Gia-nét? Nay bọn Mỹ mới sang, lạ nước lạ cái, chỗ nào cũng thò tay nắn gân thử tìm thịt mềm, các em phải gạt ngay chúng nó sang bên, đừng cho quấy rầy nữa. Ăng-đrê nghĩ sao?

Ăng-đrê trầm ngâm gãi cằm khá lâu, rồi thở dài:

- Anh nói đúng. Không còn cách nào khác.

Gia-nét trố mắt nhìn ông anh được cả nhà coi là võ biền thô bạo, buột miệng:

- Pi-e-rô, pô-li-si-nen... Anh đầy mưu mẹo như bộ trưởng ngoại giao từ bao giờ thế?

- À, cái khôn nó ngấm vào người qua nắng mưa nhiệt đới và đạn Việt Minh thôi!

Cuộc thương thuyết về bãi thả coi như hỏng. Pi-e không ân hận. Hắn đã thấy vợ chồng Gia-nét đi trên dây, cố giữ thăng bằng giữa cơn xoáy lốc. Hãy để cho ít nhất một người trong gia đình La-phác-sơ được đứng hơi xa bom đạn đôi chút - cũng không xa lắm đâu, đồn lính bên cạnh có thể bị đánh - sống yên ổn bấp bênh trong ốc đảo trung lập được ngày nào hay ngày ấy.

Hôm sau Pi-e bám công-voa về Sài Gòn. Chơi đã, hưởng đã, quên sạch đã. Hắn tìm đến trụ sở hãng tin AFP, rủ Mỹ Duyên đi chơi. Duyên đáp tỉnh khô: “Tại sao không?”, cùng hắn đáp tắc-xi vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu, tiếp ghé vào Vườn chơi Đại thế giới. Đảng cướp Bình Xuyên quy hàng Pháp, được giao quyền giữ trị an Hòn ngọc Viễn Đông, tha hồ ăn hối lộ và tống tiền, đã nắm trọn và mở rộng khu sòng bạc khổng lồ này cùng nhiều chỗ nướng gia tài khác nữa.

Mỹ Duyên vào các sòng sang nhất, không đánh bạc, chỉ xem kỹ từng khuôn mặt khách làng chơi. Pi-e nghĩ cô ả lại sắp viết phóng sự mới về nạn cờ bạc. Đang tập sự chắc là hăng lập công lắm. Trên tắc-xi quay về, Pi-e vòng tay ôm hôn Duyên. Nàng né đầu, nhẹ nhàng gỡ tay hắn:

- Chưa qua sông, anh đã định cho nổ cầu?

Pi-e cho địa chỉ để đưa xe về khách sạn hắn ở. Duyên tiếp ngay:

- Trước đó, anh cho tôi xuống đường Mắc Ma-hông. Tôi sẽ chỉ chỗ.

Duyên xuống xe, đi vào một trong những ngõ hẻm quanh co mà Sài Gòn có rất nhiều, chỉ ném lại một câu ngắn: “Cảm ơn vì tối vui, sẽ gặp lại”.

Pi-e nhìn theo, nhún vai. Đất này vô số gái điếm, phải vạ mà bám theo cái ả kênh kiệu ấy, đến những ổ cướp mà cảnh sát không dám vào!

Năm hôm nữa qua. Hai món tiền to lĩnh ở Mác-xây và Sài Gòn gần cạn, Pi-e lại tìm Mỹ Duyên, mời đi chơi một chuyến vét túi trước khi ra Đà Nẵng. Họ ăn cơm Ý trong một quán của người Coóc-xơ, uống rượu nho chi-an-ti đến say mèm. Lứa người Pháp đầu tiên sang Đông Dương gồm phần lớn dân đảo Coóc-xơ và khu vực Mác-xây. Đánh nhau ít lâu, dân Coóc-xơ thường ra khỏi quân thuộc địa, xin môn bài với thuế nhẹ mở tiệm ăn, thường kiêm thêm buôn lậu thuốc phiện, vàng, giấy bạc.

Mỹ Duyên ngất ngưởng chỉ vào mình:

- Tôi lạc chồng trong chiến tranh. Dân Sài Gòn gọi những kẻ như tôi là “bò lạc”, theo nghĩa xấu nhất, uống nữa đi. Chắc anh mê cô-nhắc hay huýt-xki hơn rượu nho Ý?

- Phải, cô-nhắc... Một chai Mác-ten đây, ông chủ... Có vé rồi, ngày kia tôi đi Tu-ran... từ trên máy bay quan sát, tôi sẽ nhìn xuống đồn điền La-phác-sơ, thấy ông chồng già của cô ngồi dưới hầm trông lên...

- Phịa! Đại úy mà làm như ông tướng! Anh phải dành dụm mấy tháng mới đãi tôi được một chầu thế này?

- Hà hà hà... cô em ngây thơ lắm... Trong chiến tranh thuộc địa, có thằng chết đói, có thằng chết vì phát phì... có con gái làm điếm tự tử vì giang mai, có ả một đêm nhảy lên bà đại tá, bà bộ trưởng... Tôi có nguồn tiền không bao giờ cạn, đến từ vùng Tam giác vàng. Ô, ly cô em vẫn đầy!

- Cạn đây! Tôi còn đủ tỉnh để nghe anh nói khoác!

Riêng Pi-e dốc cạn hai chai chi-an-ti, một chai Mác-ten nặng độ. Hắn say đến líu lưỡi, mờ mắt nói mê, cũng chẳng biết đã nói những gì trong cuộc rượu kéo dài gần ba tiếng ấy. Mỹ Duyên phải giúi tiền kha khá nhờ hai người hầu bàn lực lưỡng gọi tắc-xi, dìu Pi-e ra xe, cùng theo xe đến khách sạn để xốc Pi-e lên tầng hai. Trưa hôm sau, Pi-e dậy, thấy mảnh giấy đặt trên bàn ngủ: “Trách anh đấy nhé, làm hỏng chuyến đi chơi Sở Thú. Tối nay tôi lại bận, tiếc lắm - Bức tường cao-su của anh”.

Mỹ Duyên tự gọi như thế, đúng quá rồi!

Bay ra Đà Nẵng trên máy bay quân sự, Pi-e nhẵn tiền đến nỗi phải nhịn đói ngót một ngày, hỏi Ngân hàng nghỉ việc. May sao đến tối hắn gặp người đang tìm là đại úy Xa-va-ni, vừa lên thiếu tá cách một tuần, cũng là sĩ quan nắm “Kế hoạch X”. Xa-va-ni mời hắn uống rượu ngay tại Câu lạc bộ sĩ quan cho kín đáo, ngạc nhiên khi thấy hắn ngốn đến chiếc xan-úych kẹp dồi thứ năm, chiêu bằng bia, bởi các thứ ngon hơn đã bán hết sạch. Pi-e nói dối đã nhịn đói theo lệnh bác sĩ, do rối loạn tiêu hóa.

Xa -va-ni đồng ý cho Pi-e đi thị sát khu vực đồn 76. Trực thăng của hiếm chỉ dành cho cấp tướng và tải thương. Xa-va-ni mượn cho Pi-e được một chiếc máy bay thám thính Mô-ran Xôn-ni-ê hai tầng cánh từ Đại chiến thứ nhất còn lại ở Đông Dương, đã vào bào tảng rồi được lôi ra để phi công tập lái vỡ lòng. Xa-va-ni vỗ vỗ vào lớp cánh khung nhôm bọc vải sơn của nó:

- Cậu yên trí. Nó xấu xí, bay chậm như rùa, nhưng rất hợp với việc của cậu. Máy mới thay, đã rà trơn đúng độ, khó hỏng. Địch bắn rách năm bảy lỗ trên cánh hay thân, chẳng hề gì. Bị trúng đạn toác máy, nó vẫn bay là là kiểu tàu liệng xuống tới lộ Đông Dương số Một, đáp thoải mái xuống bất cứ sân bay dã chiến nào, hay là sân đá bóng, mặt đường, bãi cát, không dùng động cơ. Tiếc rằng nó chỉ có hai chỗ ngồi, mình không đi chung với cậu được.

Lái chiếc máy bay cổ lỗ này là một phi công cũng cổ lỗ không kém, tóc bạc một nửa, đã luyện bay vỡ lòng ở Bắc Phi suốt ba chục năm. Lão nháy nháy mắt:

- Đi với tôi khỏi lo. Có những hai bà vợ, một tá con và vài tá cháu sống dựa vào tôi, phải giữ sổ lương cho chúng nó. Mỹ mới đưa sang mấy chiếc L.19 trinh sát tiền phương loại nhẹ, tôi vẫn thích cái chuồng gà cũ rích này hơn.

Trong ngày đầu, Pi-e đi quan sát khu vực đồn 76 và hai bờ sông Thu Bồn. Yên ắng cả. Như Việt Minh đã rút quân về phía Nam để mở những lớp học chính trị hay quân sự dài lê thê của chúng. Chiều, sau hai giờ xem địa hình, có lúc rà cách mặt ruộng chỉ vài chục mét, Pi-e cho đáp xuống đồn 76 nghỉ đêm. Lão phi công trổ tài cho viên đại úy trẻ xem mà tin: lão lên cao, tắt máy, đáp là là xuống sân bay dã chiến nằm dọc sườn đồi, chỉ dùng có non một trăm mét trên chiều dài hai trăm rưởi mét của đường băng! Nhưng lão nhất quyết không để máy bay tại đồn, nói như dao chém đá:

- Về, mai tới đón. Tại sao à? Đạn moóc-chê Việt Minh. Trinh sát bò vào giật thuốc nổ. Lính đồn ăn cắp phụ tùng. Lũ trẻ đâu, tránh ra tao lên! Hẹn chín giờ sáng mai!

Chẳng cần nghe đại úy Pi-e nói thêm, lão nổ máy vù luôn, chỉ dùng đoạn đường băng còn lại trước mặt.

Pi-e ê mặt, vẫn phải chịu lão nói có lý.

Đêm ấy, các sĩ quan từ chuẩn úy trở lên họp với Pi-e. Việc đơn giản thôi, chỉ cò kè lâu ở giá cả. Bọn sĩ quan đoán ngay loại hàng của Pi-e là hàng gì, đòi được trả thật hậu mới nhận, kém tiền thì chả bõ liều cả cuộc đời võ nghiệp để làm việc phi pháp. Rốt cuộc, Pi-e thu xếp được với hai phần ba cái giá cha hắn cho phép. Một phần ba còn lại sẽ vào túi Pi-e, tất nhiên, riêng nó đã bằng xấp xỉ mười lần lương đại úy. Pi-e vẫn vò đầu bứt tai, kêu sắp bị trừng phạt vì vung tay quá trán.

Một giờ sáng. Một loạt tiếng nổ vang dội dựng cả đồn dậy. Pi-e lăn xuống đất, lôi tấm đệm giường theo, phủ kín người tránh mảnh pháo cối. Đèn dù vọt lên tới tấp, các lô-cốt xổ đạn tơi bời. Đến sáng mới biết Việt Minh đã phá sập tất cả các cầu cống từ quốc lộ Một lên đồn 76, còn đào toang hoác những chỗ nước xói, đắp nhiều ụ đất đáng ngờ có gài mìn. Chúng vây đồn 76!

Chiếc máy bay già nua rè rè đến đúng hẹn lúc chín giờ sáng. Lão lái nói đều đều qua điện thoại vô tuyến trong khi quần cao trên đồn:

- Đường tỉnh và đường rẽ lên đồn 76 bị phá nhiều chỗ. Cái chuồng gà của tôi trúng đạn cỡ nhỏ ba phát, một ở thân và hai ở cánh, chưa nguy hiểm. Yêu cầu đồn 76 yểm trợ hỏa lực mạnh cho tôi hạ cánh.

Tất cả các cỡ súng trên đồn cùng bắn xối xả, băm vằm những chỗ nghi Việt Minh giấu quân, đặt súng. Máy bay sà sà xuống theo đường trôn ốc, không tắt động cơ. Đến vòng quần cuối cùng, khi bánh xe sắp chạm đất, dăm quả đạn cối 60 và phóng bom nhỏ chợt rơi chung quanh nó. Đạn không rướn tới đồn, nhưng sân bay lưng chừng đồi nằm trong tầm bắn. Còn may là Việt Minh bắn hơi sớm và ít trúng đích!

Pi-e nằm sấp dưới rãnh thoát nước, áp máy bộ đàm vào tai, tức đ