← Quay lại trang sách

Chương XIV

Mặt trời đã lặn già nửa sau núi.

Một người bước chậm chạp trên chiếc cầu sườn gỗ sạp tre bắc qua khe Cốt. Cây súng đeo chéo trên lưng, bao gì như đòn bánh tét lớn vác vai, thêm cái tay nải buộc thít ngang lưng, như nịt đạn. Qua gần hết cầu, người ấy dừng lại, đặt cái bao xuống sạp, dựa nghiêng vào tay vịn cầu, đứng lặng.

Ông Tư Chua về nhà. Ông không muốn bước mươi bậc cấp cuối cùng xắn vào sườn dốc để vào căn nhà mà ông đã dựng cho vợ chồng Cả Chanh. Cũng như khi đến Linh Lâm. Ông đi vòng xa xóm để khỏi gặp dân làng, khỏi bị thăm hỏi.

Hoàng hôn ở làng ven núi là cảnh tấp nập, ồn ào: Trong xóm dồn dập tiếng giục trâu từ sông về chuồng, tiếng gà gọi con đi ngủ, tiếng loa báo họp đêm, tiếng réo mắng trẻ con chơi rông. Nơi xa làng này cũng nhộn nhịp không kém với lũ chim ngày rủ về tổ hay giành cành đậu, chim đêm kêu nhau đi kiếm ăn, những chuỗi cò xếp hình tam giác hay ngược sông về hướng núi Ngọc Linh, những bầy két nối đuôi vừa phóng vun vút qua sông vừa keng kéc inh ỏi như sợ đến trễ mất phần, đàn chim đớp muỗi lông xám lốm đốm bay thấp phần phật tiếng cánh, trong khi những con dơi cụ to bằng diều giấy ngoặt đảo nghiêng ngửa hệt lá khô trong gió xoáy. Tiếng voi rống cọp gầm một dạo đã lùi vào núi sâu, nay xuống gần làng hơn trong mùa đại hạn. Vũng và suối trên núi khô cạn, thú rừng phải xuống tìm nước ở các cửa khe, nhánh sông. Nai mang đến đâu, cọp beo theo đó.

Rồi ông cũng phải xốc bao, leo dốc.

Hai Thùy đi đâu vắng, chỉ có hai đứa trẻ, con trai lớn của Năm Bưởi và con gái nhỏ của Hai Thùy, nằm ngủ mê mệt trên chiếc giường tre đôi buông màn tém kín, thêm một mẻ un muỗi nhả khói lá quế thơm cay trong góc nhà. Con dâu ông giữ đúng lời dặn chống sốt rét của chồng, dù bây giờ phải sống như gái góa. Điện bị tháo từ lâu, Câu lạc bộ Thanh niên trúng trái bom lạc đổ sập và sau đó bị dỡ xếp đống chỗ góc vườn. Năm Bưởi ngày càng bận công tác ít mó vào việc nhà, dân làng ngày càng khó kiếm ra vải đem đến may, hột gạo đổ vào nồi ngày càng ít ỏi trong năm đại hạn này. Lại trúng vào năm Nhâm Thìn mới thật lạ, các cụ tra lịch đều nhắc tới chín con rồng lấy nước, chỉ phải lo lũ lụt liên miên thôi. Thà rằng theo lịch tây, gọi là năm 1952 gọn trơn, khỏi bói toán gì hết!

Ông Tư đánh bật lửa, châm ngọn đèn dầu lai, bấc vải thả vào đĩa đất nung. Vừa lúc Hai Thùy lôi lệt sệt vào nhà một bụi sắn to, nhác trông cũng biết là thứ sắn hai ba tuổi, sượng sần và đầy xơ. Mặt Thùy đỏ ửng, mồ hôi nhỏ giọt, có hai đường gai cào trên má và cổ, tay áo lấm đất nâu.

Thùy thả ngay khúc gốc sắn đang túm kéo, chạy vọt tới:

- Cha đã về... được tin gì không?

Ông Tư khẽ lắc đầu.

- Cô Năm về chưa cha?

- Về sau... ít bữa nữa... Nè con, có hai ang nếp đây, con nấu cho hai đứa nhỏ nó ăn một nữa no, để thèm lại miết...

- Dạ, cha với mẹ ba, nhà chú Tư năm, đây hai đứa vị chi chẵn một chục. Nấu chín lon được không cha?

- Mày nhịn à?

- Ối, con ăn xía với sắp nhỏ, đàn bà ăn bao lăm! Con mới tìm ra cách ăn sắn hay lắm, như bánh dày người Bắc, lát cha nếm. Cha rửa rồi ngả lưng một giấc, cơm chín con kêu. Nằm mùng với hai đứa cháu, cho tụi nó quen hơi ông nội ông ngoại!

Mạch nước sườn núi đưa nước xuống ao cá đã khô, ông Tư xuống khe Cốt rửa. Khe này mùa lụt rộng hằng nhánh sông, nay chỉ còn là dải nước rộng một sải, cạn đến gối, chiếc xuồng nan be gỗ rất nhẹ vẫn ghếch thân lên bãi, sợi dây buộc vào chân cầu chùng như võng.

Trong khi bắc nước chờ sôi, Thùy đã kịp đốt đống lá quét dọn ở góc vườn, bỏ thêm ít lá quế cho khói nồng tỏa vào nhà. Ông Tư không buồn ngủ, chỉ thấy mệt rã rời đến từng sợi gân, đốt xương, tuy trên đường về ông quá giang ghe nhiều hơn đi bộ. Ông vừa ngả lưng, lập tức chìm ngay vào một giấc mê thiếp không cưỡng nổi.

Thùy lay ông dậy khi bên ngoài đã sẫm đen. Ngồi quanh ngọn đèn dầu lai bó thêm bấc có bà Tư, vợ chồng Tư Quýt với ba đứa con đang giành nhau mấy đĩa xôi nhiều ít, kêu chí chóe, dì Thanh Yên can không được.

Ông Tư liếc nhìn cái nồi nhôm gò của anh em Cao Thắng tặng Cả Chanh, thấy ngấn cơm nếp lên đến gần miệng nhưng trong nồi chỉ còn một phần tư. Thùy đơm cho ông một đĩa xôi tú hụ, đặt bên cạnh một đĩa cá sông thính chua và nửa chai lùn rượu sắn ngâm thuốc, một mớ chuối khế và rau thơm kèm chén mắm nêm nhiều ớt. Thùy hơi vội khi bốc một miếng gì tròn dẹt như bánh dày rắc đậu trên mặt, quệt vào mắm nêm, cười:

- Con vô phép ăn trước nhiều rồi. Ngon cực kỳ, sắn nhiều xơ thì hầm thiệt nhừ với chuối già, hột mít. Tuốt bỏ xơ lấy bột, bỏ vô cối quết chung ba thứ, rắc dầu lai vụn lên trên, bọn con nít nhà này ăn tới phình bụng, thở không được!

Cà nhà đang chờ ông Tư kể chuyện thằng Bảy Bòng nhảy về vùng địch ra sao.

Nể lời Thùy, ông gắp một đũa xôi nhai trệu trạo, thêm một đũa cá thính kẹp chuối khế, nhấp một chén rượu thuốc, nuốt tất cả như ăn rơm. Ông buông nhát gừng:

- Con Năm dự chiến phía Duy Xuyên nhiều trận, quen lu bù... ủy ban, du kích công an, mấy bà cơ sở mình hay xuống vùng địch... Tìm hỏi khắp nơi, không ai biết...

Chỉ có Thùy hỏi dồn dập, những người khác nín lặng với vẻ mặt u ám như khách dự đám tang. Bà Tư chống bàn tay đang cầm đũa vào cằm, ngồi quay mặt né ánh đèn, không hé miệng. Tư Quýt ăn xôi uống rượu đều đều, sau mỗi hớp rượu lại thổi “phì” một hơi dài. Chị Song luôn tay đơm xôi cho chồng và bầy con mình, luôn mồm đe nẹt dỗ dành, chỉ cố nói khẽ vì gờm ông Tư chứ không vì sợ chồng. Con Thanh Yên với thằng Chung len lét ăn trong góc tối, chúng cảm thấy người lớn đang gặp chuyện buồn.

- Cha có tới chỗ đám đi buôn ngủ trọ không?

- Đó là cái nhà tranh bỏ hoang, chủ nhà tản cư. Dân buôn trình giấy, du kích cho họ ngủ tạm đó chờ người dẫn, lần nào cũng vậy.

Thùy ngập ngừng lâu mới nói:

- Mấy anh Cao Thắng đi móc hàng dưới đó về, ghé đây, nói họ bị Tây phục kích chết hụt. Họ còn kể chuyện dân buôn phản nhau, giết nhau cướp tiền, về đổ cho Tây bắn chết... Con nghe bắt run...

- Ngủ giữa làng kháng chiến, du kích bộ đội đóng đầy. Trong số tám người Linh Trung Linh Hạ đi chung chuyến, thằng Bảy khỏe mạnh nhứt, cũng quen biết nhau hết, đi chung nhiều lần rồi.

Bà Tư dường như ra khỏi cơn tê điếng, cất giọng khàn khàn:

- Nó đi cà thảy mấy chuyến, Hai?

- Cuối năm ngoái, hồi Nông đoàn giải tán, nó đi hai chuyến. Từ Tết lại đây năm chuyến nữa, vị chi bảy. Vài chuyến đầu nó chưa có vốn, gánh thuê thôi, về sau nó mới có vốn buôn riêng, cũng thua số buôn nghề.

Thùy giấu biệt hai điều: nó nhận tiền làm tay trong cho Hai Khánh bí mật về thăm con, nó mượn cái nhẫn vàng một chỉ của bà mẹ cho Thùy để làm vốn. Nó thương Thùy nhất nhà, Thùy cũng rất thương nó. Mỗi khi nó trở chứng ngang bướng với cha mẹ hay cãi lộn với Năm Bưởi, chỉ có Thùy mới can nổi.

Tư Quýt chừng đã no, bắt đầu góp chuyện bằng cái điệu cố làm ra bệ vệ của một ông chủ gia đình biết răn dạy vợ con:

- Tôi nói nè. Việc này rồi to chuyện đây, mất hết thanh danh đây. Rồi người ta nhổ vô mặt mình, kêu là nòi Việt gian một lũ với nhau, tôi cũng bị vạ lây. Hồi trước tôi bày biểu nó một câu, nó đã móc lại ba câu, cả nhà còn nghi tôi vụng đường ăn ở để em út nó ghét. Bây giờ cháy nhà ra mặt chuột rồi, nó trở mặt theo Tây rồi, ai bênh nó nữa không?

Thùy buông cái bánh dày trở xuống mâm, nói run run:

- Khoan đã chú Tư. Thằng Bảy có về vùng địch, cũng chưa chắc nó làm... làm Việt gian đâu chú. Chỗ mình mất mùa liên tiếp, đồng bào tản cư tới đây năm sáu năm, dựng nhà phát rẫy đủ hết, bây giờ cũng xin giấy hồi cư về vùng địch. Ủy ban mình cấp giấy chớ có cấm đâu. Thằng Bảy còn trẻ, đi buôn có tiền lần hồi học đòi ăn chơi, chắc nó bỏ chỗ cực tìm chỗ sướng...

Tư Quýt gắt to, hằn học:

- Tới cơ sự này chị còn bênh nó, hèn gì nó hư! Báo cho chị biết, vụ này họ truy chị trước hết đó nghe, họ không nể vợ ông giám đốc giám điếc gì đâu. Thằng Bảy lần nào xin giấy cũng nói đi mua phụ tùng máy may, chỉ ngoại, vải ngoại về cho chị may đồ bán, hễ công an không cho mua vài tấm thì nó mua đồ may sẵn về cho chị sửa, khi qua trạm gác nó mặc bốn năm hộ trên mình. Hồi trước Tết nó bị chặn bắt gần Trà Kiệu, công an tư giấy về xã, chủ tịch Ba Mít kêu chị ra vặn vẹo miết, bắt phải nhận là cho nó về bắt liên lạc với họ hàng phía cha chị, dân công giáo nòi hết, bỏ ông bà theo đạo Tây hết. May con Năm nghe tin tới cứu viện, chị mới khỏi đi cải hối thất. Thời buổi này, cha làm ông xã, chồng làm ông tỉnh, họ cứ coi chị là mụ thợ may chỉ biết có Chúa Trời là một, đồng tiền là hai!

Ánh đèn dầu lai lù mù vẫn soi rõ khuôn mặt của Thùy tái dần đi, cặp môi chị trắng hẳn ra trong khi Tư Quýt tuôn những lời cay độc. Ông Tư bỗng đập mạnh tay xuống cái bàn mặt tre - may là chị Song đã bưng hẳn mâm xuống giường cho bầy con mình ăn xả láng - trừng mắt quát:

- Câm họng!

- Tôi còn lạ gì, nhà này chia phe đã lâu...

Ông Tư quờ tay kéo cây súng ba nòng dựng chỗ góc phên, rít răng:

- Mày nói một tiếng nữa, tao cho một phát liền tay. Bắn què chân thôi, không bắn chết!

Cả nhà bật kêu nhốn nháo. Chị Song xốc đứa bé nhất sắp vọt chạy. Thùy gắng gượng nhỏm dậy, lại ngồi bệt xuống giường, tóc đổ xuống mặt như sắp ngất. Chỉ có bà Tư tỉnh hoàn toàn, bước tới xô mạnh vào vai Quýt, gằn giọng: “Đi, đi cho rảnh!”. Bà nắm lấy nòng súng, kéo nó lệt sệt trên nền đất, đem dựng vào góc phên cạnh mình, nói điềm đạm:

- Chấp chi thằng say rượu, ông. Nó hỗn ẩu thì la rầy nó, rồi con cứ là con mình thôi.

Tư Quýt đã biến mất. Chị Song tay bồng tay dắt đã lôi lũ con ra khỏi nhà, mỗi đứa còn cầm một miếng xôi cháy vét nồi. Thùy ngồi hai tay bưng mặt, đến đấy mới từ từ nấc, những tiếng nấc nghẹn cổ nín vẫn cứ bật qua mũi, qua mỏi. Dì Thanh Yên, mới mười tuổi ta đã có tới năm cháu gọi bằng o và dì, thường bắt lũ trẻ gọi là dì cả cho tiện và cũng ngọt tai hơn, đang quạt cho thằng Chung và con Bình ngủ, đông người không buông màn được.

Im lặng. Tiếng vạc kêu sương dội xuống mấy tiếng quang quác, rồi giun dế lại hòa giọng nỉ non nghe to hẳn lên. Ông Tư nhấm nháp bát nước chè đậm bà Tư bưng đến, bẻ một đầu lạt tre buộc phên làm tăm xỉa răng. Bà Tư bưng hai bát nước nữa cho mình và cho Thùy, cứ nín thinh, xưa nay bà vẫn ít lời ít tiếng.

Thùy nuốt xuống được tiếng nấc cuối cùng, vơ mảnh vải cũ dùng làm khăn lau mắt, lau cả mặt và cổ, đặng hắng vài lần, hỏi khản tiếng:

- Bao giờ cô Năm về, cha?

- Nó ở lại dò thêm... vài ba ngày gì đó... cầu may thôi...

Lại im lặng. Mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ riêng, che giấu một hay nhiều bí mật riêng.

Thùy che giấu chuyện Năm Bưởi chửa hoang, chuyện Bảy Bòng xoay tiền, chỉ vì thương hai đứa.

Bà Tư ở mãi chỗ nhà cũ, vườn cũ cùng con Thanh Yên, với ý nghĩ: mình qua ở với Hai Thùy, Năm Bưởi thì vợ chồng thằng Quýt nó chiếm hết sạch, về sau nó dám đuổi cả cha mẹ em út lắm.

Ông Tư chia cho Tư Quýt nửa bộ đồ rèn, nhất định vào ở rèn cho Nông đoàn chứ không về chỗ Thùy và Bưởi, dù lệ thường cha mẹ ở với trưởng nam là phải, và tất cả các con đều thúc giục ông lập lò rèn mới dưới vạt dầu lai cổ thụ, Tư Quýt cũng muốn vậy. Ông nghĩ xa hơn: dâu là con, rể là khách. Thằng Cả đi vắng, ông ở với dâu, con Năm đi trận mạc luôn, lỡ mấy đứa xấu phao tin ông bậy bạ với nàng dâu thì tội loạn luân trốn đâu cho thoát. “Bà gia lấy rể có thể quan cho, ông gia lấy dâu bán trâu mà chạy”. Con Thùy vào loại xinh đẹp nhất làng, biết nó có giữ thân được không, hay khi hữu sự lại đổ vấy cho ông cha chồng ở chung nhà? Lứa trẻ mới lớn hay liều mạng, cùng đường thì bỏ xứ đi biệt, chứ ông đã bứng rễ từ Hòa Vang lên cắm sâu đất này, làm sao vất bỏ hết thảy khi đã ngoài năm mươi?

Những tính toán của Tư Quýt sâu hơn cả, được người vợ con buôn giúp thêm lắm mưu mẹo. Hơn chục năm qua, Quýt vẫn tự coi như vai trò không nhất thì nhì trong nhà. Hồi xưa, khi ông Tư quanh năm ngồi lò, Quýt là nhì. Từ khi ông Tư “tập làm chánh trị”, lãnh chức này việc kia lăng xăng, Quýt tự coi là người nuôi cả nhà. Bà Tư với Năm Bưởi lo ruộng rẫy, đó là công phụ giặm của đàn bà thôi, tay làm vừa đủ hàm nhai. Cả Chanh làm cách mạng thì chánh phủ trả công, chớ nên cho xơ múi gì vào của cải do Tư Quýt làm ra phần nhiều. Mấy đứa em lớn lên hằm hằm đi bộ đội, cán bộ, cơm vua ngày trời có chánh phủ nuôi. Tốt nhất là cha mẹ giao trụm nhà cửa, ruộng vườn, đồ nghề cho Quýt, về ở giữ con và làm việc nhà cho Quýt, hưởng miếng chín mà khỏi phải lo đời, khi trăm tuổi còn có đứa vuốt mắt đưa ma.

Gọi xa thúc gần mãi, cha mẹ mới chịu chia cho Quýt nửa số ruộng bậc thang, hạn mấy cũng được ăn nhờ nguồn nước đập (Xì, mấy miếng đầu trâu trán khỉ, gặm không nổi mới chịu nhả ra...). Ông Tư chia đôi bộ đồ rèn tích cóp lâu năm, lắm thứ xưởng Cao Thắng cũng thèm, để cho Quýt tự ý bắt phần trước khi đem phần mình vào Nông đoàn, Quýt vẫn thấy chưa đủ: “Nông đoàn thì chỉ có đóng cán cuốc với mài lưỡi rựa chớ rèn đúc gì...”. Một lần ông Tư phát ngán, nói toạc: “Tao coi bụng mày như đứa đi săn, bắt được dấu máu con nai trúng đạn rồi, nhịn đói đạp gai cũng rán theo miết, lấy cho được con mồi!”. Quýt hiểu nhưng lặng im, coi như cha giỡn cho vui.

Thất vọng đến từng bước một. Khách rèn cứ bám ông Tư, ông thợ tài hoa và dễ tính. Lò Tư Quýt ngày càng ế vì Quýt rèn vụng và Ba Song tính công đắt. Ba Song không quen làm ruộng rẫy, lại vướng bầy con không đi buôn được, lúa khoai trong bồ vơi hẳn đi.

Vợ chồng cãi nhau mấy trận. Bao giờ Quýt cũng thua, vì Ba Song có tài cãi dai sức, có thể nói vài ba giờ liền không mỏi miệng, ai nín trước là người ấy thua, cha mẹ đẻ và anh chị em ruột cũng khiếp cái tính ấy. Rồi mỗi người lại tự nghĩ ra cách bòn rút khác.

Tư Quýt siêng qua Nông đoàn thăm cha, mỗi lần lại đem đồ khó qua nhờ rèn và mượn mấy thứ dụng cụ loại hiếm quý mang về: máy khoan quay tay, lưỡi dao gọt sắt cực tốt, các loại giũa hay lưỡi cưa thép mua trước chiến tranh. Muốn lấy luôn mà không lấy được: đồ nghề ông Tu có đánh dấu riêng, bán không ai dám mua, lâu lâu ông Tư về thăm nhà lại đếm ra vanh vách và soạn lấy đủ. Nếu Quýt đi vắng, nhờ Năm Bưởi hay Bảy Bòng đốt than cho lò, chúng nó làm vài lần rồi dứt khéo, đành phải bỏ tiền mua. Những người hồi trước hay đến la cà tán gẫu và tự ý phụ việc cho ông Tư hàng buổi nay biến hết, phải hỏi thuê, và họ mặc cả phải trả công bằng thóc chứ không nhận thứ tín phiếu rách của bà Song.

Ba Song về bấu xấu cha mẹ đẻ, nhưng hai bên đều thạo tính toán nên chẳng được gì. Hai Thùy chuyên may áo quần cho cả nhà Song, còn phải may thêm những thứ “bà con nhờ”, chẳng biết bà con nào mà không hề thấy mặt tuy chị quen khắp làng. Bà Tư thường được cháu bưng cái mủng hay cái bát qua mượn bà ít gạo hay tô mắm, “bận quá không kịp xay giã, đi chợ”. Buồng chuối trái mít trong vườn thì bà ít để ý, cho cháu mình chứ cháu ai. Phiền nhất là Ba Song chuyên đùn con cho bà giữ. Cho con ăn sáng, gói mo cơm trưa phần mình xong, Ba Song gọi các con ra sân, vừa gài cửa bên ngoài vừa nói: “Mấy đứa qua chơi với bà, với o Út, mẹ đi chiều mới về”. Đứa đầu cõng đứa cuối, đứa giữa lũn cũn chạy theo, qua hết vườn rộng thì Ba Song đã đi xa. Bà Tư đành bỏ một ngày làm cỏ ruộng hay vun gốc sắn để trông các cháu, tắm rửa và nấu ăn trưa cho chúng, có hôm bà Tư bận đi sớm, lũ trẻ dắt nhau qua nhà bác Hai Thùy, nhập chung với hai đứa bên ấy chơi rất vui, bác Hai lại dễ thương và luôn ở nhà. Vài lần như thế, đến khi o Năm Bưởi thấy bác Hai bị quấy rầy quá, phải bảo chúng:

- Bác Hai lo làm nuôi tới năm miệng ăn, bay thấy đó: hai đứa nhỏ, tao, chú Bảy, cái miệng bác nữa, sức đâu lo thêm ba đứa ngày nào cũng tới. Về nói với ông Quýt bà Song là o Năm cấm tụi bay không được qua đây, nhớ chưa?

Lũ trẻ bén hơi nhau vẫn cứ sang, dù Năm Bưởi nói thẳng với vợ chồng Tư Quýt. Họ gờm cái tính đốp chát của Năm Nhím gai ngạnh cùng mình, không dám lấn lướt nặng lời, nhưng vẫn để con đi đâu thì đi. Hai Thùy mát nết, thương trẻ con, lúc nào cũng sẵn lòng đón các cháu. Đến một hôm Bảy Bòng đi bứt mây xa, bị beo rượt phải vừa ném đá, hú hét, vung đòn xóc vừa chạy hăng gai gốc đến trầy truột khắp người, về tới nhà lại gặp lũ trẻ đang cấu xé chửi bới nhau - các con Tư Quýt nhiễm thói chửi tục của cha và thói vùng vằng lắm điều của mẹ, hay gây sự với thằng Chung con Bình ngoan hơn nhiều. Bòng bẻ roi quất cho hai đứa lớn khá đau, xua chúng bồng dắt nhau chạy về như vịt, Thùy đang cuốc khoai trên rẫy, không biết gì. Từ đó Quýt thề không nhìn mặt Bòng nữa, cũng lạnh mặt với Thùy tuy Ba Song vẫn nhờ vả như cũ. Cuộc sống của vợ chồng Tư Quýt ngày càng hiện ra cái thế kiến bò vào sừng trâu.

Còn một bí mật nữa của Năm Bưởi, ông Tư đoán biết nhưng khó nói ra. Bưởi ở lại sau, gửi cây súng kỵ binh Nhật cho đội du kích quen, mượn áo quần son phấn giả làm gái buôn vùng tề, nhét lựu đạn trong giỏ trầu cau vàng hương, quyết đi lùng cho ra cái thằng phản phúc đang bôi nhọ cả nhà. “Làm gì hả? Tới đó rồi sẽ hay!”.

Chưa bao giờ gia đình ông Tư Chua cần Cả Chanh có mặt như lúc này. Cũng như chưa bao giờ làng Linh Lâm và cả xã Linh Giang trông ngóng Cả Chanh như trong năm qua. Ở đây cần một người rất sạch tay, thạo việc, biết hỏi và nghe khắp mọi người, nhưng khi quyết làm thì trời gầm không nhả.

Ông Tư ngậm miệng lâu đến nỗi bà Tư phải buông màn cho ba đứa trẻ ngủ, trong khi Thùy rót thêm dầu vào đĩa đèn. Rồi ông như chợt tỉnh, đập mạnh tay vào trán:

- Phải vậy thôi, bà.

Thuộc nết chồng, bà Tư đợi ông tự nói tiếp.

- Bà với con Út, mẹ con Hai Thùy, thêm thằng Chung này nữa, dồn vô ở nhà cũ, rào vườn lại, đem trích lục ra xã làm giấy chia phần ruộng cho thằng Tư, cấm cửa luôn không cho tụi nó bòn rút nữa. Tôi với con Năm mở lò rèn bên này, lo luôn cái nhà kiếm miếng ăn thêm. Hồi ở Nông đoàn tôi có mấy thằng nhỏ xin ở chung học nghề, tôi đưa về đây phụ rèn là đủ.

Bà Tư ngẫm nghĩ và thất vọng:

- Ông với con Năm mở lò ở đây là tốt. Có điều tôi với con Hai về bên kia nhắm có êm xuôi với vợ chồng thằng Tư không?

- Rào vườn, rấp ngõ, cấm lui tới!

- Đâu có dễ vậy! Thì ông chớ ai, cãi lộn với nó buổi chiều, chút xíu nữa tát tai nó, mà tới tối nghe con nó sốt nặng ông chạy ào qua, bồng cháu chạy vô xóm Chợ tìm thày thuốc! Tôi với con Thùy nghe lũ con nó khóc đói bên kia hàng rào, bụng dạ cứng bằng đe lò rèn cũng phải mềm!

- Ờ, hay là tôi với con Năm dựng lò bên kia, bà về đây với ba đứa nhỏ, con Hai may, bà làm nà, cần thì tụi này phụ thêm?

- Để rài rài rồi tính, chẳng gấp rút gì...

Vô tình, bà Tư nhắc lại các câu đầu lưỡi “rài rài rồi tính” của cán bộ xã thôn trong năm qua. Một năm nhiều biến động thầm lặng ở Linh Lâm.

Ở đây không có những đảo lộn đẫm máu và đày tro như vùng chiến sự, nơi chỉ cần một giờ để biến một làng đông dân và giàu có thành bãi cháy rải đầy xác chết, sau trận càn quét lớn hay đợt ném bom hủy diệt. Địch có thọc lên xê-ca đơ vài lần, phải bỏ cuộc vì không đủ sức băng núi, không dám cho ca-nô ngược sông Thu Bồn lắm thác ghềnh. Máy bay Mỹ mới đưa sang không thể rà bắn tỉa từng con trâu, nã chìm từng chiếc thuyền đánh cá như dưới xuôi. Bom na-pan không đốt được rừng rậm và ruộng bậc thang, bom tạ bom tấn ném hú họa từ trên cao không phá được hầm hố khoét vào sườn núi. Hai chiếc Cô-bra đã rơi chìm dưới vòm xanh bí hiểm kia, một bị bắn và một do liều lĩnh lao xuống. Tây chẳng biết rơi đâu mà tìm, lấy gì mà tìm.

Trong các xóm Linh Lâm đã lùi vào chỗ rậm rạp và đào hầm ngày càng sâu, bà con Linh Lâm trải qua nhiều lần động não, bàn cãi, xáo trộn.

Giáp Tết năm Tân Mẹo 1951, đội thông tin xã đi kẻ khẩu hiệu mới trên những bức tường còn lại của ngôi đình đã dỡ mái tiêu thổ. Bên cạnh những khẩu hiệu Tổng phản công, họ viết hoan hô chiến dịch Biên giới, chiến dịch Hoàng Diệu của Quảng Nam. Sau Tết ít lâu, họ quét vôi phủ sơ sài trên khẩu hiệu Tổng phản công, viết khẩu hiệu chào mừng Đảng Lao động Việt Nam. Vài tháng sau nữa, họ lại quét vôi trên những câu hoan hô chiến dịch, viết lại thật đậm những lời đã thuộc từ ngày cả nước cùng nổ súng:

Toàn dân kháng chiến

Toàn diện kháng chiến NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI!!!

Trường kỳ kháng chiến

Người dân thường ít để ý đến các khẩu hiệu, bởi mạnh ai nấy viết từ việc lớn đến việc nhỏ và câu nào cũng đúng cả. Tòng quân, tiêu tín phiếu thay bạc Cụ Hồ, đả đảo đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương, uống nước chín và ăn đũa hai đầu, chửi bù nhìn Bảo Đại, thi đua dùng phân bắc nước giải, thực hiện bảo mật không biết không thấy không nghe, chế giễu người mù chữ phải chui “cổng mù” khi đi chợ... nhớ sao cho hết được chứ!

Người dân quen đón hỏi cán bộ, mà chỉ hỏi những cán bộ họ tin cậy nhất: có gì mới không, nói nghe thử?

Linh Lâm có nhiều chuyện mới.

Đầu tiên, sau phần giới thiệu Đại hội thành lập Đảng Lao động, là nghe đọc chỉ thị của liên khu 5 giải thể quỹ Tổng động viên, phê bình việc thu gom trâu bò, cày cuốc, nồi niêu của dân là sai lầm. Của ai sẽ trả lại người ấy, riêng các thứ đã đem ủng hộ bộ đội thì được trừ vào khoản Đảm phụ quốc phòng, trừ chưa hết sẽ tính vào Thuế nông nghiệp sắp ban hành.

Vụ này khá là rắc rối. Trả lại các thứ không ăn được thì dễ, bà con theo gương ông Tư Chua đã đánh dấu riêng vào mọi thứ nộp kho. Nhưng chủ tịch xã Hùng Minh và chủ tịch Liên Việt Mười Áng gây nhiều nghi ngờ.

Mới tập trung bốn con trâu - vùng ven núi này lắm trâu bầy, bà con dễ nộp - ông Mười Áng đã tính công giữ trâu cho quỹ mỗi ngày một ang thóc, bằng công gặt ngày mùa gấp rút. Người nhận lại là con Hùng Minh. Cãi qua lại ít nhiều, rồi cả làng cho trôi: do tư tưởng không nặng gia đình, đồng chí Hùng Minh bỏ bầy con đói rách và nhà cửa dột nát đến thảm hại, chỉ chăm lau sửa chiếc xe đạp và gây cơ sở phụ nữ dọc đường xuống huyện, tất cả để phục vụ nhân dân tốt hơn. Trả mỗi ngày một ang cái công dắt trâu ra buộc dòng dây vào cọc, chiều dắt đi uống nước, thôi cũng coi như cứu tế lũ nhỏ.

Lại thêm cái khoản cơm đãi khách: ba mươi bảy ang rưỡi và ba con heo xẻ lần lượt, nấu nướng tại nhà Mười Áng. Cậu thôn đội phó nắm an ninh lật sổ khách đến và đi ra đọc: đoàn ông Ba Mậu được cụ tú Đỉnh bao nuôi hoàn toàn, từ đó trở đi chỉ có bảy khách đến xã, cộng số ngày người là hai mươi chín. Không phải khách ba chủ nhà bảy. mà một khách những hơn mười chủ!

Giằng co một hồi, rồi cậu an ninh nói toang toang: “Ăn lâu rồi, cứt trôi quá biển Đông rồi, để thì giờ hỏi kỹ vụ năm heo!”.

Vụ ấy không truy ra được. Hùng Minh hối hả cho bắt năm con heo to đã ghi sổ nộp quỹ, bảo rằng có một tiểu đoàn Liên khu Lào - Việt sắp vượt biên giới mà thiếu lương khô, nhờ xã giúp gấp. Cậu ta cùng một người bà con chủ đò dọc chở năm con heo ấy xuống một trạm nào đó rất chi là bí mật quân sự đặt ven sông Thu Bồn, giao heo xong mang về một lá thư cảm ơn dài, không có con dấu, đọc lên thì rất rõ lời văn hiệu triệu dốt hay nói chữ của ông chủ tịch. Bà con vặn dồn tới tới, phe Hùng Minh trả lời ít mà phàn nàn nhiều về tình nghĩa quân dân sa sút. Đơn vị đang hành quân không kịp khắc dấu. Các anh Cao Thắng nói ở Quảng Nam không có đơn vị nào là tiểu đoàn 33 cả, bởi họ không thể biết hết bộ đội liên khu Năm, nhất là các đơn vị quốc tế tối mật cực kỳ. Đến hai giờ sáng, dân làng đành hậm hực ra về.

Thiệt thòi nhiều nhất là vợ anh Cả Chanh, vì anh dặn phải làm gương mẫu đầu tàu cho dân theo. Mất hẳn một heo. Được trả cái soong to bằng đu-ra gò, vợ Cửu Áng nấu cháo bị cháy đáy. Cái máy phát điện đút tận đáy kho - nhà gạch của lão nghiện Xâm Tô đã được phép về thành phố - trúng chỗ ẩm và dột, bị gỉ nát. Dây điện được nhà Ba Mít căng phơi áo quần, đứt nối lung tung. Bóng điện vỡ gần hết. Anh em Cao Thắng đến giúp ông Tư Chua tháo sửa máy hai ngày, chịu bó tay. Tiếp đó ít lâu, Câu lạc bộ bị hơi bom nổ gần thổi sập, Đoàn thanh niên đành giỡ xếp đống, rầu rĩ nhắc lại những đêm diễn kịch và học văn hóa trong hội trường rực ánh điện y hệt thành phố.

Gia đình ít mất của hơn cả lại là ông Tư. Ông nộp trâu, nay trâu lại về, gầy đi nhưng vỗ béo dễ. Nộp nửa bộ đồ rèn bôi đẫm mỡ bò, nay thu lại gần đủ, ai có “cầm lầm” kìm búa của ông rồi cũng trả, bởi đem ra dùng thì cả làng đều thấy và nhận ra đồ ông Tư. Riêng cây súng ba nòng của hiếm được trả trước lâu. Ông nộp súng kèm năm bảy viên đạn cho phải phép, giấu biến số đạn dự trữ cùng bộ dụng cụ lùa vỏ, giập hột nổ, đúc viên chì to nhỏ, do ông vào xưởng Cao Thắng mượn máy của họ làm trong mấy ngày, anh em đều phục ông khéo tay. Vỏ đạn đồng của ông nhồi được nhiều lần, bằng vỏ 12 ly 7 nống đầu hay 13 ly 2 gọt đít, trông đẹp và dùng bền như đồ ngoại. Khi thiếu phun-mi-nát và thuốc súng lấy ở đạn thối, ông tự làm hột nổ bằng đầu diêm và thuốc đen phân dơi, vẫn bắn được. Cây súng vào tay Ba Mít, anh ta cùng số theo đuôi đi bắn công và khỉ về nhậu, chỉ vài lần là hết đạn. Anh ta làm công văn đóng dấu, cử người đến trạm liên lạc của Cao Thắng nhờ giúp đạn hoặc cho vào xưởng để mượn đồ làm đạn, bị từ chối gọn. Ông chủ tịch thân hành đi, vẫn không được giúp, không được vào. Các anh lãnh đạo Cao Thắng II thường ra làng, quen rộng, biết rõ Hùng Minh được huyện chỉ định nhưng xã kềm chắc, hễ tìm được người thay là cho rớt tức khắc. Đành phải ngậm ớt mà trả súng cho ông Tư, lại ngậm ớt mà nghe tiếng súng săn lâu lâu nổ một lần kiếm thức ăn cho du kích.

Nhà ông Tư bỗng có cuộc vui lớn: Năm Chò cưới Năm Bưởi, có Sáu Cam từ ngoài Bắc về kịp dự, và cũng tình cờ ông Hai Rề sửa xe lửa ở tận Quảng Ngãi ra thăm con gái đúng ngày làm lễ, với cái đầu ngưỡng thiên và một ba-lô đường phổi, đường phèn, kẹo gương.

Năm Chò giao đại đội cho Ba Dĩnh và một đại đội phó mới đề bạt, về liên khu dự tập huấn hai tháng đánh công kiên. Được Ba Dĩnh bỏ nhỏ trước, trung đoàn cho Năm Chò đi sớm hai mươi ngày để cưới vợ, lại làm công văn nhờ xã giúp đỡ. Tờ công văn ấy là thừa: Năm Phi Đao về Linh Lâm như cọp về rừng. Hồi xưa là chỉ huy du kích, sau này là ông chỉ huy đầy huyền thoại ở địch hậu Quảng Nam, là anh đồng hương thân thiết mà tất cả các đội du kích đi dự chiến đều xin đến phối thuộc. Dù cả nhà ông Tư sợ mang tiếng xài phí, nhưng bà con cứ nhất định làm linh đình và không để cho gia đình bỏ ra đồng nào. Mới gặt mùa tháng năm trúng khá, dân làng đem nếp tẻ đến thừa dùng, còn chia nhau xay bột làm bánh xèo, mì Quảng. Phụ nữ làm bánh ở nhà mang tới nhiều nhất là thứ bánh phu thê quen được gọi là su sê chẳng hiểu tại sao. Các bạn Cao Thắng nhồi cho hai chục đạn tốt, cho mượn đèn đeo trán để bắn đêm, anh em du kích khuân về một nai đực to, ba heo rừng, sang ngày cưới còn cõng về hai con mang tơ và hối hả làm tái nhúng dấm. Thứ rượu sắn thập thò xuất hiện, ban đầu là chút rượu thuốc nhấp khai vị qua loa, về sau ra công khai ngự trên mâm, đến cuối là những chai đế trong veo không hề có mùi sắn. Khách đến cứ oang oang: “Cả làng góp gạo nấu cơm chung, tay mình đãi miệng mình chớ đi đâu mà sợ phí!”. Quà biếu còn nhiều hơn cái lần Cả Chanh đi Lào, bởi ai cũng thấy cặp vợ chồng mới quả là mình trần thân trụi.

Một nỗi vui lại hóa ra hai: Năm Bưởi được bầu vào thường vụ Đảng ủy xã, được cử làm xã đội trưởng.

Sau một loạt thư tố giác của đảng viên và nhân dân xã Linh Giang, huyện ủy mới giật mình thật sự. Vùng căn cứ địa mà “bộ sậu nát bét” thì rất nguy. Anh bí thư huyện ủy cùng Tám Doãn lên tận nơi để chấn chỉnh, nhân đây cho học luôn về thuế nông nghiệp.

Soát lại hàng ngũ đảng viên, anh bí thư thấy chừng một phần ba được kết nạp ẩu: không làm đơn, không khai lý lịch, chỉ xếp hàng một dãy và cử một người lên hứa hẹn chung, cứ như thanh niên tòng quân. Dân làng gặp anh đều túm tay níu áo, buộc phải nghe hết những vụ bê bối của Hùng Minh, Mười Áng và số tay chân. Anh phải cho liên lạc hỏa tốc xuống huyện điều thêm một số cán bộ tổ chức, kiểm tra, tư pháp, nông hội về Linh Giang để gỡ rối.

Số vào Đảng không hợp lệ được mời riêng đến bàn bạc. Một số ít sửng cồ, trách móc. Phần đông vui vẻ rút lui với nhiều lý lẽ khác nhau. Nghe nói vô Đảng được nhiều quyền lợi, té ra chẳng có gì, thôi trót. Dạo này tôi bận quá không đi họp được, để khi rảnh rảnh xin vô lại. Đảng còn bí mật thì dễ, dân chẳng biết ai Đảng ai không, giờ ra công khai bị bắt phải làm gương, kham không nổi. Để hồi nào mấy ông cầm đầu khá khá hơn, tôi làm đơn xin tái đăng, chớ Ba Mít làm bí thơ thì quá ngán...

Thường vụ huyện ủy nhất trí với anh bí thư, ra quyết định thành lập Đảng ủy xã Linh Giang, đề cử Tám Doãn làm bí thư, nếu bỏ phiếu kín không trúng thì trở về làm huyện đội phó chứ không bầu ép. Mấy vụ xử trí sai được sửa, trong đó có Năm Bưởi bị treo sinh hoạt Đảng vì đứa con giống Hai Khánh. Anh bí thư cười xòa:

- Thì Tám Doãn đó, một chị ở Quảng Ngãi ra tìm chồng, cứ thề thốt hắn là chồng chị ta mà thay lòng đổi dạ, không nhìn vợ! Thiên hạ thiếu gì người giống nhau!

Đại hội Đảng bộ họp ba ngày, nói xả láng, bầu dân chủ. Tám Doãn được số phiếu cao nhất, điều lạ là Năm Bưởi theo sát nút. Ông Tư Chua được đề cử nhưng xin rút: “Tánh tôi nó bộp chộp bỗng chảng lắm, đập sắt được mà lãnh đạo trật trìa, làm chủ tịch bấy nhiêu năm bà con dư biết rồi”. Hùng Minh cũng được đề cử nhưng rớt đội sổ. Năm Bưởi không nhận làm bí thư hay phó bí thư chỉ xin nắm du kích, trúng vào thường vụ. Đồng chí Mười Áng chỉ cười hề hề, bắt tay chúc mừng các đồng chí trúng cử, nói đưa đẩy nhũng câu lấy lòng hay phân trần nhẹ nhàng.

Xã không có Hội đồng nhân dân, anh bí thư chiều ý Đảng ủy mở một cuộc “khuếch đại hội nghị” gồm hơn một trăm cán bộ Đảng chính quân dân cấp xã và thôn, bỏ phiếu bầu ủy ban kháng chiến. Kết quả có khác: Tám Doãn chủ tịch, Tư Chua và Mười Áng phó chủ tịch, Năm Bưởi xã đội trưởng kiêm trưởng ban an ninh, riêng “cây ăn nói” là Ba Mít vẫn được đề cử và vẫn rớt đội sổ!

Tiếp đó, toàn dân học chính sách thuế nông nghiệp. Đoàn cán bộ huyện ngạc nhiên khi nghe dân nêu thắc mắc rất ít, tuy anh nông hội huyện luôn nhắc nhở cán bộ xã thôn “đề cao khải phát tính”, anh bí thư phải dịch lại là khêu gợi cho dân nói. Dần dà mới biết: thuế công bằng hợp lý đã đành, dân ven núi lại sống dựa vào rừng và rẫy nhiều, mức thuế nông nghiệp của họ như thế là thấp, dễ nộp, chẳng phải như trước cứ kêu gọi ủng hộ mỗi năm vài chục lần.

Huyện rất lúng túng trước nguyện vọng lập nông đoàn. Vận động hăng nhất cho nông đoàn lại là những người trong sạch, đáng tin cậy. Tư Chua lãnh đạo vụng nhưng có uy tín lớn. Tám Lầu từ du kích Linh Trung đi bộ đội, lên tới trung đội trưởng, nay cụt tay giải ngũ về xã. Hai Xuyên mới trúng bí thư nông hội sau đại hội Đảng bộ xã. Hầu hết những người xin ghi tên vào nông đoàn là tá điền của tú Đỉnh ở xóm Ấp. Gặp bí thư huyện ủy, họ nói rất có lý:

- Nghe nói vài năm trước chánh phủ mình ra lệnh giảm tô, nhà giàu không chịu giảm, cán bộ xã thôn không ép được họ. Tụi tôi ở đây làm căng, chắc cấp trên coi là vô kỷ luật, tự ý bày ra đấu tranh giai cấp. Muốn người cày có ruộng phải đợi tới độc lập, nhưng mà trường kỳ kháng chiến kiểu này thì tới đời con đời cháu vẫn còn đánh. Chi bằng sẵn đất đồn điền của Tây đó, tụi tôi kéo qua khai khẩn, không được cơm cũng được cháo. Đem chia hả? Chia đất cũng được, mà ít lại hơn. Nghề nông phải tránh cái cảnh một chốn đôi quê, một nhà ở nhiều nơi. Huống chi bây giờ người khỏe phải đi lo việc nước hết, cuốc rựa khó sắm, đờn bà con nít ở nhà vừa làm ruộng vừa lo đất nà sao cho nổi...

Tám Doãn ủng hộ dè dặt, thật ra anh không mấy thạo nghề ruộng rẫy, chỉ quen lùng rừng và chống bè. Mười Áng cũng xin đứng ngoài vì chỉ biết ruộng, không biết làm rẫy làm nà. Năm Bưởi đùng đoàng giỏi hơn sản xuất. Nhiều ông lão nông tri điền, số cai đồn điền La-phạt ngày xưa biết cách điều khiển công việc hàng trăm người, mấy cụ trải bốn năm chục năm vỡ hoang lấn núi, đều được mời đến hỏi kinh nghiệm. Họ nói khác nhau, kẻ vun vào người cào ra, và không ai nhận vào Ban quản trị: tuổi cao, đông con cháu, ngại thiếu vốn, lo nước độc, nghề cũ lạc hậu, số lớn kêu bận việc nhà.

Đảng ủy đề nghị cứ cho làm thử. Huyện đồng ý, chỉ nhấn mạnh là phải hoàn toàn tự nguyện.

Hơn một trăm gia đình nộp đơn. Ban quản trị Nông đoàn Linh Lâm được bầu phiếu kín: Tư Chua chủ nhiệm kiêm các ngành nghề. Hai Xuyên phó phụ trách nghề nông, Tám Lầu phó phụ trách trật tự kỷ luật, một cậu học sinh đệ nhị niên trung học làm thư ký kế toán, một chị cứu thương từ bệnh viện Huề Bình về nắm tổ cấp dưỡng, y tế. Đại hội bàn rất bốc, riêng ông Tư Chua hứa sẽ lập đội rèn, đội mộc, đội chài lưới và đóng thuyền.

Bảy tháng sau, nông đoàn tan rã. Cuộc họp thanh lý tài sàn chỉ có hơn ba chục người dự, giục quầy quầy làm nhanh để về. Tám Doãn lên báo cáo những kết luận của Đảng ủy, bà con nghe dửng dưng vì biết cả rồi. Hoàn toàn không ai cầm dầu dính tay, rất tốt. Nhưng quản lý sản xuất thì quá kém: máy móc, luộm thuộm, nóng đâu phủi đó, lãng phí công sức ghê gớm, đặc biệt về kỹ thuật trồng trọt thì trật bậy hết. Kèm theo đó, xã viên rất nặng tính toán riêng tư, dựa dẫm vào tập thể, con rô cũng tiếc con giếc cũng muốn, thứ gì cũng đợi chánh phủ cấp.

Tám Doãn và các chủ nhiệm, phó chủ nhiệm được gọi xuống huyện để báo cáo. Ủy ban huyện chỉ báo cho mươi cán bộ đến nghe, nhưng số người dự vọt lên tới hơn bốn chục. Ai cũng muốn biết thêm về cuộc thí nghiệm đầu tiên bước qua ngưỡng cửa ngôi đền xã hội chủ nghĩa, diễn ra ở cái làng đã lập chính quyền Việt Minh đầu tiên trước Tổng khởi nghĩa.

Tám Doãn đọc biên bản kiểm điểm của xã ủy và ủy ban, đọc vất vả vì chép trên giấy rơm nội hóa vàng sẫm và rất nhám, chữ bị méo mó và mất nét. Phần nói miệng thoải mái hơn nhiều.

Ông Tư cứ nói kiểu nửa thợ nửa nông:

- Thưa thiệt quý anh em đồng chí, làm chủ tịch xã mấy năm tôi biết tôi dốt chánh trị, giờ làm nông đoàn mấy tháng tôi biết tôi dốt kinh tế. Thứ gì rờ tay vô được thì tôi chẳng thua ai, sắt gỗ tre nó chịu phục tòng, chớ chỉ huy con người sao khó quá! Thôi, Tư Rèn xin lui về làm Tư Rèn là phải chỗ nhứt!

Tám Lầu quyết xây dựng nề nếp quân sự hóa trăm phần trăm. Kẻng dậy, kẻng thể dục, kẻng ăn sáng, kẻng đi làm, cứ thế đến kẻng sinh hoạt tối và kẻng ngủ. Tháng đầu còn dứt khoát nghỉ ngày chủ nhật dù nắng ráo, làm ngày thường dù mưa to, sau mới bỏ. Thi đua bảo đảm quân số ra đồng, tuy có hôm mỗi người chỉ làm nửa giờ là hết việc, hoặc không kiếm ra việc để làm.

Đến Hai Xuyên là người bị chê trách nặng, làm nông đến tay chai vai mòn mà để mất ăn. Chẳng qua anh cả nể, theo đuôi nông đoàn viên. Đất đồn điền hợp với cây công nghiệp, nhưng ai cũng lo cái ăn là chính. Khoai đất lạ, mạ đất quen, anh bàn trồng khoai, gặp nắng hạn thì chịu tốn ít công gánh tưới chờ mua, mưa vùng núi đến sớm hơn dưới xuôi. Bà con lại bác: nhà nào cũng thiếu lúa chứ không thiếu khoai sắn trên rẫy, thời vụ này chỉ tránh trỉa lúa rẫy hay cấy lúa ruộng, chứ sạ giống lúa ngắn ngày còn kịp đón mưa. Hai Xuyên không tin mấy nhưng đành “thiểu số phục tùng đa”. Ông trời chơi xấu cho mưa chậm nửa tháng so với mọi năm, lúa chết héo một phần, sườn đồi dốc không tưới cứu lúa được. Lúa sót lại đang trổ đòng gặp mưa dầm tháng chín - mười âm lịch, bị luôn một trận bão quét rụi hết. Coi như trắng tay.

Đến phần nông đoàn viên, anh nông hội huyện nói như dao chém đá rằng “tất cả khó khăn đều do ta gây nên”, ta đây là cán bộ đảng viên, không được trút bớt gánh nặng lỗi lầm cho quần chúng. Anh bí thư huyện ủy phải can, bảo cứ để các đồng chí Linh Giang nói bằng hết. Một người thêm vài ý, dần dà mới vỡ lẽ.

Thì ra bà con tá điền ở xóm Ấp Linh Lâm, đội chủ lực của nông đoàn, có nhiều mặt mạnh mà cũng không ít mặt yếu. Họ căm ghét vợ chồng phủ Đỉnh từ xưa, nhất là mụ vợ cả riết róng vét tô tức, nhưng không dám rời số ruộng lĩnh canh khi dân tản cư đến nhiều, chỉ quen ruộng không quen rẫy, sẵn sàng đem gà rượu đến xin làm rẽ chia đôi mỗi đám họ nhả ra. Họ rất thèm khát có ruộng đất riêng, sống ung dung như những trung nông chẳng phải lụy ai, mà lại không đủ trâu bò, cày cuốc, giống má như trung nông, cũng không biết cách lo gần tính xa, sắp xếp mọi công việc cho già trẻ lớn bé trong nhà như trung nông. Vì ở cách biệt, họ ít được học Bình dân, càng ít đi học chính trị, họp đoàn thể, nghe chính sách mới. Quỹ Tổng động viên ít động đến họ, cụ tú Đỉnh nói là nhờ cụ xin dưới huyện cho tá điền được miễn, ngẫm cũng phải. Hiểu lõm bõm về thuế nông nghiệp, họ tin rằng hỗ càng nhiều ruộng đất càng bị thuế lũy tiến cao hơn, họ ngại nhận đất chia có giấy tờ, ưa tự tìm chỗ phát rẫy đồi núi kiểu người Thượng, hễ chánh phủ đánh thuế thì bỏ luôn, và cụ tú Đỉnh khen họ biết nghĩ xa. Họ xin vào nông đoàn nhiều vì nó là của chánh phù mình, khỏi nộp thuế, thiếu thứ gì có chánh phủ lo y như bộ đội hay công nhân Cao Thắng, thợ dệt Linh Hạ. Nhưng mỗi gia đình chỉ đưa vào nông đoàn một người thay mặt, thường là ông già hay thiếu niên, coi như ghi tên xí chỗ cho khỏi mất quyền lợi. Cả nhà vẫn cày thuê cấy rẽ cho cụ tú Đỉnh như xưa. Nông đoàn hỏng ăn, từng người lặng lẽ khoác tay nải hay cõng gùi, vác cuốc về nhà, sau những tháng dựa dẫm nhau, chân trong chân ngoài, chờ chánh phủ cấp cho mọi thứ. Chẳng ai thiệt thòi gì cho mấy, chỉ có Đảng và ủy ban xã một lần nữa bị sứt mẻ lòng tin của dân, cái khoản này thì chẳng ai bẻ thước mà đo được.

Sau vụ nông đoàn, ông Tư Chua chở bộ đồ rèn phàn mình về nhà, xin thôi phó chủ tịch. Ủy ban xã không chịu, cử ông làm trưởng ban đỡ đầu dân quân du kích và bảo trợ học đường. Thôi cũng được, lo cho con cháu mình chứ cho ai, ông nhận.

Ông gần nhu quỵ hẳn khi Bảy Bòng nhảy về vùng địch. Tư Quýt thù Bòng và không ưa Hai Thùy, ghen với Cả Chanh, mượn chén rượu xổ ra một tràng căm hận đã dồn nén nhiều năm. Ông Tư cảm thấy gia đình mình đang rã, rã theo những vết nứt từ xưa mà ông ít để ý, vết nứt mở ra thành vực, ông đang từ tù trượt xuống vực, mắt thấy những gì mình xây đắp cả đời đang thong thả sụp đổ mà ông không níu giữ được, cũng không thể bấu víu vào đâu cho mình ngừng trượt xuống đáy.

Nằm trên bộ ván nhà trên, ngửa mặt nhìn cái mùng nội mà Cả Chanh mua về buộc ông phải buông chống muỗi trong cả những đêm nóng nực nhất, ông nhớ thằng con đầu như xưa nay chua từng nhớ bất cứ một ai.