← Quay lại trang sách

Chương XV

Trên một gò nổi rậm cây nằm sâu trong vùng đầm lầy của làng Kiệt Ngông, cách quốc lộ 13 chừng mươi cây số, có một cụm năm sáu cái kho thóc dựng rải rác dưới những tán cây cao nhất. Thoáng nhìn cũng biết các kho này dựng khéo. Bốn chân cột to và cao đủ tránh nước ngập mùa lụt, mặt sàn cách đất tới hơn hai thước. Gần mặt sàn, mỗi đầu cột được lắp một tấm gỗ tròn như cái mâm, mặt dưới bào trơn, mặt trên quấn thêm những sợi mây để nguyên gai: chuột dưới đất đừng hòng bò lên. Mái kho bằng gỗ hoặc tre chẻ đôi, rất dốc, phủ đầy những khúc dây rừng có gai nhọn hoắt. Chim, gà rừng, cả những thứ chồn bay sóc bay đáp là là từ các cành gần đấy xuống phá kho cũng đập cánh nhảy trốn nếu không thủng bụng lăn xuống đất. Riêng lũ khỉ tinh ranh lắm mẹo, nếu vượt qua được bấy nhiêu vật cản, cũng khó thoát những bẫy đập bẫy kẹp được gài ở mép sàn, chỗ nhô ra dưới bốn vách gỗ, chúng thường dè dặt khi mới đến nhưng hăng máu quên ráo khi luồn được vào chỗ người giấu lúa bắp khoai sắn.

Duối cà-làng[1] một kho như thế, hai người ngồi trên võng buộc vào cột đang nói chuyện. Một người cởi trần, quấn cái phạ-phe kẻ ô vuông trắng đen, mỗi đầu chạy ngang mấy sợi đó, đi chân đất, đeo nịt súng ngắn. Người kia khác xa, mặc com-lê trô-pi-can, cà-vạt đã nới nhưng còn mắc trên cổ, ống quần chỉ gấp lên vài nếp và đi chân đất, nhưng trên tảng đá nhô cạnh võng còn đặt các thứ vừa lột ra: cái mũ phớt Flê-sê, đôi giày da đen bóng có tất ni-lông bỏ trong, cái cặp da giả cá sấu mới tinh, có cả một cây can đắt tiền bằng mây song chạm trổ và bịt hạc. Họ nói với nhau bằng tiếng Việt pha Lào, từng lúc vỗ đùi nhau cười hỉ hả.

Anh Hai Thỉnh, chính ủy Quân tình nguyện khu Hạ Lào - Đông Bắc Miên, cải trang làm một nhà buôn Hoa kiều ở Thái Lan lâu năm, đi họp Đại hội II của Đảng, đã về đến nơi trót lọt. Chiếc xe chở anh theo đường 13 từ Pạc-xê xuống phía Nam đã bị quân It-xa-la y hẹn ra chặn đường, soát giấy, bắt riêng anh về tra xét, chủ xe sẽ không bị rầy rà. Tiểu đội chặn bắt đưa anh về chỗ đồng chí Chanh, bí thư liên chi, đứng đợi cách đường chỉ một trăm thước. Họ đi gấp về chỗ chỉ huy sở tiền phương phòng địch đuổi theo hay bị biệt kích quấy nhiễu.

Từ dưới mẻ nước chợt vọng lên tiếng con gái:

- Hưa đi lấy cưa của anh Chín, mưa chưa?[2]

Anh Hai Thỉnh cười to:

- Lính của cậu Lào hóa mau thiệt chớ. Sao không nói hẳn tiếng Lào với nhau?

Cả Chanh đập con muỗi bám vai, tủm tỉm:

- Nhỏ này mới lên năm ngoái. Gặp nó chắc anh nhìn ra. Nó mới chẵn mười tám, con Hoàng Lan ở gần nhà vợ tôi. Mẹ nó là bà giáo Hạnh, em nó là Bạch Lan, cùng chết bom một lần với hai đứa nhà tôi, thằng con đầu với thằng em vợ. Anh nhớ chưa?

Từ khi Thùy sinh con Bình yên lành - thư báo tin đến chậm một tháng rưỡi nhưng vẫn là tin - Chanh đã có thể nhắc tới đứa con đầu lòng bằng giọng bình tĩnh, nhưng không bao giờ kể rằng nó chết thui trong nhà cháy.

Cô y tá trẻ bước tới, nói hối hả:

- Em đi nghe anh Chanh. Hưa anh Chín còn chỗ nằm, đi gấp, mà anh Vận với anh Chăn Bun coi bộ nặng, sợ sinh chuyện dọc đường.

- Ờ, Lan cứ đi. Đưa giùm các ảnh hộp sữa Con Chim đây, nói anh đang bận, chúc các đồng chí... nói sao cô biết rồi.

- Nói dễ, kiếm sữa mới khó!

Hoàng Lan cười khúc khích, bỏ đi tất tưởi. Anh Hai Thỉnh nhìn kỹ khuôn mặt khá xinh và vóc người thon gọn, nhăn trán nghĩ. Má trắng tròn, môi bậu đỏ, mi dài tóc dày, bao nhiêu cô gái có những nét ấy! Anh không nhớ ra tuy đã ghé thăm vợ chồng Chanh nhiều lần ở Sông Vệ, có khi kẹt xe lửa đêm phải ở đợi cả ngày, được bà giáo mời qua ăn chè rất ngon. Nhớ sao cho hết ngàn vạn con người đã gặp...

Vốn là người trong hoàng tộc ở Huế, là mệ Vĩnh Thỉnh hẳn hoi, anh học tới đệ tam niên trường Pen-lơ-ranh thì phải rẽ ngang kiếm việc làm vì mẹ chết, nhà cùng quẫn, cháo cám không còn mà ăn nữa, trong khi mệ Bửu Khả cha anh chỉ quanh quẩn ở nhà trên, nhấm nháp rượu cúc trà sen, đóng bộ khăn đen áo dài để vài ngày một lần tiếp khách. Sau khi chị và em gái đã chật vật kiếm được chồng, anh không chịu nổi nữa. Anh chán ngán đến thù ghét tất cả: cẩm cò Tây, vua quan nhà Nguyễn, các mệ phá sản hay lui tới nhà anh với giọng điệu kênh kiệu đến chết không chừa (mi dâng mệ một xu, mệ chém đầu củ khoai coi nà...). Anh đá tung hê tất cả, dặn cha bán nhà vườn mà tiêu, bỏ sang Ai Lao tìm vàng, dạt qua tới Tân-gia-ba, Xiêm La, Diến Điện, lại quay về Xiêm, tính ở lâu và học nghề. Hồi ấy đi lại còn dễ, vốn tiếng Pháp giúp anh đỡ lóng ngóng. Anh tình cờ gặp Thầu Chín ở Xiêm, nghe ông nói chuyện vài lần với Việt kiều. Anh đoán ông này là người yêu nước chưa gặp vận như các cụ Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh, chỉ ngạc nhiên sao Thầu Chín lại biết chuyện Pháp Anh Nga Tàu sâu đến thế, tính nết dễ gần dễ mến đến thế. Anh được kết nạp vào Đông Dương cộng sản đảng năm 1940, vẫn chưa biết Thầu Chín là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lừng danh khắp nơi, vẫn đinh ninh đồng chí Nguyễn đã chết oan ức trong nhà tù Hương Cảng.

Cuộc sống lang bạt kỳ hồ ấy để lại cho anh nhiều hiểu biết về đất nước và con người Lào, Thái Lan, vài nước nữa ở Đông Nam Á. Đồng chí Nguyễn Phước Thỉnh là người không thể thay thế khi liên khu ủy chọn một cán bộ làm chính ủy Quân tình nguyện sang Hạ Lào - Đông Bắc Miên. Ít lâu sau, anh được bổ sung vào liên khu ủy.

Lâu lâu có việc phải vào một thành phố Lào, anh hay mượn áo quần đồ đạc thật sang, chừa tóc dài chải bóng và tỉa ria mép con kiến, dùng giấy tờ mua của chính quyền Thái Lan, đóng vai một nhà buôn gốc Hoa sinh ở Thái, từ Kroong-thệp tức Băng-cốc qua Lào kiếm mối hàng. Ở Lào và Miên, người Hoa người Thái ít bị nghi, Pháp với bù nhìn chỉ chăm nã tiền và bắt bớ bà con Việt kiều. Anh nhập vai tốt nhờ mấy năm giữ sổ và bán hàng cho một má chín ở Kroong-thệp, thêm cô con ông chủ mê anh, cứ quấn quýt cả ngày để dạy chữ và tiếng quan hỏa cho anh. Còn tiếng Thái thì anh giàu, qua Lào chỉ cần bớt rung lưỡi và thay một ít từ ngữ là dùng được gọn. Riêng đối với tầng lớp trên thì chẳng cần thêm bớt gì cả: các nhà trưởng giả thích gửi con qua học bên Thái Lan, lâu hay chóng đều được, để về nói giọng Thái nghe cho sang.

Lần này, anh không phải leo núi về liên khu, tiếp đi bộ nhiều tháng ra Việt Bắc, mà được phép “đi hợp pháp”. Lượt đi anh mua vé ô-tô theo đường 13 lên Thượng Lào, lại mượn cớ tìm lâm thổ sản đi xe hàng lên gần biên giới Lào -Việt, tạt vào rừng ở chỗ hẹn, mấy tên chức dịch cấp dưới được dúi tiền và ngại gây thù đều kín miệng. Xong Đại hội Đảng, làm xong việc với các cơ quan Trung ương và với Đoàn đại biểu liên khu Năm, anh lại trở về hợp pháp. Sợ đường cũ lộ, anh đi vòng xa hơn. Anh đón xe và đổi xe vài làn, về gần Viêng-chăn, được cơ sở It-xa-la nửa đêm lái xuồng máy chở sang sông, vào đất Thái. Xuống tít phía nam, anh bật sang thị xã Pạc-xê thuộc Hạ Lào, để sau đó bị It-xa-la đón bắt trên đường 13, trong túi còn vé mua đi Khôổng-xê-đon giáp đất Miên.

Cả Chanh ngắm không mỏi mắt con người kỳ lạ trước mặt mình, nghe như nuốt từng chữ, cuối cùng mới nói:

- Y như trinh thám! Không gặp anh, nghe kể lại, chắc tôi chẳng dám tin.

- Ở đời thiếu gì chuyện khó tin. Cậu cũng có một chuyện ly kỳ, mình đang muốn hỏi đây.

Gần cụm kho có một nhà sàn nhỏ làm theo kiểu thiểng na[3] nhưng rộng và cao hơn, ấy là nhà bí mật của anh xã đội trưởng cùng vợ và hai con trai lớn. Sau mấy trận chống càn, anh cùng tiểu đội du kích bí mật bị lộ, địch đốt nhà và bắt cha mẹ lên đồn tra khảo. Dân làng kéo lên đồn nhiều lần đấu lý, địch mới thả. Du kích bật cả ra vùng bung, ở rải rác nhưng gần nhau, đi lại bằng xuồng độc mộc, đánh tiếp.

Chị Đeng thấy mặt trời gần lặn, nhen lửa nấu tối. Anh Đeng về, một tay chống mạnh xuồng cho mũi trượt ghếch lên bờ, tay kia cầm gì như hai chiếc đèn lồng bằng quả bưởi treo vào đầu hai nhánh cây nhỏ. Anh gài hai vật lạ vào một kẽ đá cho nhô ngang lủng lẳng, nói to về phía hai anh Việt:

- Tối nay ăn chung đây, cả hai. Còn ai nữa không?

Chanh đáp:

- Đi cả rồi. Chúng tôi đợi anh em đem cơm típ về cũng được.

- Hoại! Đội trinh sát đường lớn sáng mai mới về, tổ xây dựng cho dân làng học tình hình tới khuya, các anh nhịn đói à? Anh nhịn quen, chứ ông Chệt đeng[4] chắc chưa quen!

Anh xã đội trưởng cùng đi với đoàn bộ đội It-xa-Ia chặn soát xe, biết rằng ta đón một nhà buôn người Tàu. Tàu của ta, ắt là Tàu đỏ chứ gì nữa, cũng như khi họp Đảng Nhân dân Lào, anh vẫn gọi các vị có ảnh treo cao nhất - Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Xta-lin - là bốn ông Tây đỏ, để tránh nói sai bốn cái tên khó nhớ.

Thấy chồng rút tấm lưới chài ôm xuống thuyền, chị Đeng lẳng lặng nhen thêm bếp thứ ba, đặt thêm cái nồi rộng miệng. Bếp dầu đồ xôi bằng cái nồi đất hình trụ cao, trên đặt cái rá tre hình phễu dựng nếp đã ngâm mềm. Bếp nhì đun một soong nước. Khi nó sôi, chị rút hai cái đèn lồng khó hiểu kia nhúng lần lượt vào soong, lắc lắc mươi lần, ném ra hai chùm lá dính bết vào nhau ở đầu nhánh cây. Lúc này anh Thỉnh mới hiểu chị nấu canh bằng tổ kiến vàng, giống kiến to chuyên kéo lá kết lại thành tổ trên cây.

Chanh cười, hỏi:

- Anh Thỉnh chắc thạo các kiểu ăn Lào lắm hè?

- Không. Mỗi vùng một khác, biết sao cho hết được. Mình chưa ăn canh kiến bao giờ.

- Ngon đấy. Cay cay chua chua, kiến non với trứng hơi béo nữa. Nấu kỹ, không ngại vi trùng đâu.

Anh Thỉnh hơi ngượng. Anh ở Lào lâu, nhưng chỉ ở thành phố, thị trấn, chỉ vào các làng khi thật cần, ít sống với nông dân. Sau này trở lại Lào với Quân tình nguyện, anh nằm dưới quyền một đồng chí cần vụ kiêm bảo vệ rất khắc nghiệt, được chi bộ cơ quan khu bộ giao nhiệm vụ giữ không cho anh đi lang thang và ăn những thứ đáng ngờ. Còn khi sống tại cơ quan, tất nhiên cấp dưỡng chuyên nấu theo kiểu chém to kho mặn của bếp tập thể. Anh thầm ghen với Chanh: hắn ta lăn lộn trong dân quanh năm, hèn chi học tiếng Lào chữ Lào rất nhanh, nổi tiếng là anh Việt được dân và cán bộ It-xa-la rất tin mến. Bao nhiêu lần Ban cán sự khu định rút hắn về, cả Lào lẫn Việt đều năn nỉ xin giữ hắn lại đất Châm-pa-xắc này.

Họ chỉ nghe anh Đeng vãi chài hai lần, ngay gần chỗ ở. Nước trong cái nồi thứ ba chưa sôi hẳn, đã thấy chiếc xuồng nhô đầu trườn lên bãi đậu. Anh Đeng tới bên vợ, đặt cái giỏ cá khá nặng và ném xuống đất con rùa to, dùng chân hất ngửa nó ra:

- Làm cá đi, con rùa để đó tôi.

Trong ánh chạng vạng, anh thoăn thoắt căng lưới ra phơi, buộc thuyền. Chanh bảo anh Thỉnh ngả lưng một lát, rút củi đỏ ra nhen thêm một bếp nữa trước nhà, kê lại ba hòn đá để sẵn đấy. Thỉnh cũng bước lại, cười cười với chị Đeng:

- Tôi vụng lắm, chỉ biết chụm lửa. Chị giao bếp cho tôi để làm món ăn.

- Ờ, được. Cả ba bếp anh cho nhỏ lửa thôi. Anh Chệt đeng nói giọng Thái, mới từ Thái qua đây?

- Hồi xưa tôi ở Thái nhiều... Cà-boong[5] để đâu, chị?

- Dưới sạp kia, hai cái đế... Anh thắp luôn hai cây cho sáng, đây chẳng thiếu dầu rái. Bên Thái có thắp thứ này không?

- Nhà nghèo dùng chứ, chị. Tính nấu cá sao đó?

- Cá trắng với cá tràu tôi kho. Hai cá trê làm lạp ăn sống, ngon nhất. Hễ anh chưa quen, tôi xào chín phần anh ăn riêng.

- Quen chứ. Lạp cá trê ai chẳng thích!

Nói thế nhưng anh Thỉnh đã chục năm qua không nếm món ấy.

Chanh đã mặc đủ bộ quân phục xi-ta, tay buông cài cúc, còn quấn cái phạ phe trùm đầu và cổ. Mặt trời lặn là dứt nóng ngay, cũng là lúc những đám mây muỗi tràn ra kiếm ăn. Trong bưng làng Kiệt Ngôông ít có loại muỗi chổng đít truyền sốt rét, nhưng con muỗi lại to như con nhện nước, vòi chọc xuyên ba lớp vải dễ dàng. Xoay xở mãi rồi Chanh cũng kiếm đủ mùng và ép buộc được anh em nằm mùng.

Than hồng đã nhiều. Chanh đặt con rùa nằm ngửa trên ba hòn đá. Đầu và bốn chân nó thò thụt vài lần, rồi nó nhô hết đầu chân ra bơi ngửa cuống cuồng, trong khi đằng đít phụt ra từng chuỗi vỏ ốc, yếm ốc, càng cua que cua. Nó dần dần cứng đờ. Hơi nóng dồn ứ bên trong lớp da vẩy sẽ hầm cho thịt nó chín. Anh Đeng xong việc đến bên Chanh, gật gù, lật sấp con rùa lại cho lửa đốt dưới yếm, thịt chín đều. Khi chị Đeng bày mâm trên sạp, cái mâm to tròn khung tre mặt mây, anh Đeng mới rút con dao rừng lắp vỏ đeo bên hông, cạy bật lớp yếm rùa cháy sém, lột nhanh lớp da bọc đầu và chân: cạnh mâm hiện thêm một chậu to đựng thịt và lòng rùa chín tới còn bốc khói.

Chị Đeng lại ân cần:

- Anh Chệt đeng chưa quen ăn như ta, để tôi gỡ thịt ra xào...

- Chưa quen cũng tập cho quen chị ơi. Chúng tôi sẽ tập cho anh Đeng ăn thịt chó thịt mèo nữa. Chệt kin meo, Keo kin mả[6] chị biết rồi đó.

- Ôi trời, đừng, đừng nếm thứ ấy!

Ba người đàn ông cười ầm. Anh Đeng còn trêu thêm: “Ai chứ ông Chăn-thi đã nói là làm, ổng ra lệnh tôi phải theo thôi!”. Chị Đeng biết mình bị lỡm, đi lấy ra một chai rượu đế cất bằng nếp mời khách, nói chữa thẹn:

- Anh ăn đồ kiêng, dân làng xua ngay ra ở rừng như phỉ pọp.

- Thì tôi đang ở rừng chứ ở đâu!

Bữa cơm lạ miệng, anh Thỉnh ăn rất ngon, lại rầu rĩ nghĩ đến khi trở về dưới chế độ độc tài của cậu cần vụ, vĩnh biệt các thứ cá trê băm sống, canh kiến cả tổ, thịt rùa đốt trong mai. Cuối bữa, Chanh ra sân đào lên món tráng miệng. Anh đã khoét một hố giữa lòng bếp, trút xuống một mớ than hồng, đặt lên một quả bí đất chừng hai cân - giống như bí đỏ nhưng nhỏ, vỏ cứng, rất ngọt - phủ một lớp than hồng nữa, lấp đất, chụm cho lửa cháy nhỏ ngọn bên trên. Anh đào nó đặt trên mẹt, bổ ra trước ánh cà-boong và ngọn lửa đuốc dầu rái mờ đi một lúc khi quả bí nhả khói thơm ngào ngạt. Chị Đeng hối hả kiếm thìa, được hai thìa nhôm, một thìa sành, một thìa nứa gọt, trao cho từng người xúc ăn. Thịt bí ngọt như đu đủ chín, nhưng săn và béo như lòng đỏ trứng gà.

Cảm ơn vợ chồng anh xã đội xong, Chanh và Thỉnh lại ra chỗ nhà kho cũ buộc võng bàn việc. Chanh đốt lửa dưới cà-làng, lôi đặt vào đấy hai cây gỗ to, thả vào mớ lá tươi bốc khói khét xua muỗi, phủi đập hai chân nằm vào võng mình:

- Tôi chẳng có chuyện gì bí mật. Mời anh lấy cung đi.

Hai tháng trước, khi từ khu bộ nằm trong tỉnh Ắt-ta-pư đi về phía Tây, đến quốc lộ 13 chạy ven sông lớn Mê-công để kiếm xe lên Thượng Lào, anh Hai Thỉnh đã ghé một ngày đêm ở cơ quan liên chi và Ban chỉ huy mặt trận Tây-Nam của Quân tình nguyện. Đồng chí Chanh tức Chăn-thi đi vắng, người tiếp và nói chuyện nhiều nhất với anh Thỉnh là Chín Khiết tiểu đoàn trưởng, khét tiếng hay đuổi chính trị viên và quật đổ các bí thư liên chi ở Tây-Nam. Hai Thỉnh sửng sốt khi nghe Chín Khiết nhắc lại nhiều lần rằng anh rất lo đồng chí Phan Chanh bị trên rút đi nơi khác, mong Ban cán sự khu cứ để anh ở mãi đây, vắng anh thì bộ đội và cán bộ Việt sẽ khốn đốn to.

Chín Khiết không nói rõ vì sao như thế. Đó là chuyện lạ mà chính ủy Thỉnh muốn hỏi Chanh.

Chanh nghe câu hỏi, vẫn hút từng hơi ngắn ở điếu thuốc quấn lá chuối luộc buộc chỉ trắng mà chị Đeng giúi cho. Rồi anh buông thõng:

- Chín Khiết đề nghị, sao anh không biểu báo cáo lý do?

- Anh ta nói tránh chớ hoài. Chịu.

- Chắc anh nghĩ là tôi xuôi chiều theo ảnh, hay kết phe cánh với ảnh?

- Ui cha, mi nói chi dễ sợ rứa Chanh? Ốt dột rứa?

Chỉ khi xúc động hay sửng sốt quá Hai Thỉnh mới buột miệng cho ra những câu đặc Huế.

Chanh không muốn nắn gân anh chính ủy thêm nữa, cười ỡm ờ:

- Anh không nghĩ vậy, càng may cho tôi chớ sao. Tôi cũng muốn kể hết anh nghe, nhưng chưa biết anh ưa thứ gì. Người Việt ăn mặn và ngọt nhiều, người Lào thích ăn đắng, cay, chua. Báo cáo với anh theo khẩu vị nào?

- Cậu bị Ba Mậu nó phản thùng một lần, đâm ra đa nghi hơn Tào Tháo. Khẩu vị mình hả? Cơm mắm thắm về lâu!

Chanh lặng im một lát, rồi ngồi dậy trên võng, nói nghiêm chỉnh như trước hội nghị:

- Hồi tôi mới về, Chín Khiết giữ ý với tôi rất ghê. Tôi xuống cơ sỏ vài tháng, thu góp ý kiến anh em mình, các đồng chí Lào nữa. Khiết được khen là đánh giặc giỏi, gương mẫu, không sợ chết sợ khổ, lại bị chê là rất độc đoán, quân phiệt, không bao giờ chịu nghe phê bình. Tôi họp liên chi ủy, kể lại những lời khen chê. Ôi trời, trận ấy sấm sét mưa gió không can nổi! Tôi tỉnh khô. Tháng sau liên chi ủy họp, tôi lại nhắc lời phê bình cũ, Chín Khiết chỉ nặng mặt không nói. Một đại đội trưởng nổi xung, đòi bầu người khác thay Chín Khiết làm phó bí thư liên chi, tôi không tán thành, ảnh có rất nhiều mặt mạnh. Tôi để ý thấy ảnh đi các đơn vị nhiều hơn, gợi cho anh em góp ý với mình, bắt đầu học tiếng Lào chữ Lào. Mất hơn tháng nữa, tôi mới nhận được mấy chữ ảnh gởi, ảnh muốn gặp tôi vài tiếng ban đêm. Hóa ra không phải vài tiếng mà vài chục đêm treo võng rù rì miết với nhau. Vậy thôi!

- Mình vẫn chưa hiểu cậu thu phục được ảnh cách nào...

- Nói cho công bằng, có chỗ tôi thu phục ảnh, có chỗ ảnh thu phục tôi. Chắc anh nghĩ ngay thằng này hữu khuynh, phải chưa?

- Dẹp cái giọng cay chua đó đi Chanh! Theo cậu, anh Khiết là người thế nào?

- Là người có tài đức, cũng nhiều khuyết điểm, nhưng bị thành kiến nặng, muốn bỏ chiến trường này trở về Việt Nam.

- Thành kiến... cậu nói rõ hơn được không?

Chanh bước tới đống lửa đốt giữa hai cái võng treo hình chữ V dưới cà-làng, sửa lại hai cây gỗ khô lúc này đã đứt rời thành bốn khúc, treo cái soong có quai vào một móc buộc thòng sẵn dưới sàn kho. Anh quờ tay lấy cái ống tre trên đầu cột, mở nắp ngửi thử:

- A còn thơm, chưa phải rang lại. Vùng này không trồng được chè, tụi tôi không có tiền gởi mua ở tiệm, quanh năm uống nước gạo rang cháy. Uống riết rồi, cũng ghiền như ghiền cà-phê, mà khỏi mất ngủ.

Anh trở lại ngồi võng, bỗng nói nhanh và to hơn, không đắn đo lựa chữ nữa:

- Từ ngày quân mình thọc mạnh qua hết tỉnh Ắt-ta-pư, tiến vô Châm-pa-xắc, lập mặt trận Tây-Nam, ở đây liên tiếp thay bốn bí thư liên chi kiêm chánh trị viên mặt trận. Đầu tiên là anh Sanh người Bắc vô Nam tiến, ở với Chín Khiết đã lâu, được bộ đội thương lắm. Khiết cũng phục. Ảnh chết trận bên kia sông Nặm Khoỏng, chôn tại chỗ, khỏa bằng mộ, anh em tập hợp cùng nhớ dấu để sau tìm bốc về. Cả chục anh em chôn kiểu đó... Khu cử người thay là anh Hân. Đào Hân, ủy viên Ban cán sự, phó ban chánh trị trung đoàn, anh nhớ không? Tốt! Ông này quyết xây dựng nề nếp chánh quy, đầu tiên là ở mặt trận bộ. Cơ quan dời đô thiệt xa chỗ đánh nhau, tới chỗ giáp ranh Ắt-ta-pư, rút vô rừng sâu lập trại. Từ chỗ ông Hân về khu gần hơn tới chỗ bộ đội Lào - Việt đang hoạt động, hai bên bờ Nặm Khoỏng. Lần hồi, tất cả cơ quan biến thành người phục vụ cho ông Hân với vài vị ủy viên thường vị kiểu nhu ổng: cấp dưỡng, cần vụ, cõng gạo, đánh cá, săn bắn, không kể mỗi vị một thư ký riêng, một liên lạc. Bộ đội gọi là ông Đào Hang. Tới đại hội liên chi, ổng rớt trụi lui, chi ủy cơ quan cũng không trúng. Vậy là phải thay... Hồi đó ta bắt đầu học chỉ thị mới của liên khu “dân vận là chính”, đúng thôi, nhưng các ổng trên khu hiểu cách sao đó, cử về một cán bộ dân vận làm bí thư, tức là anh Chế Cương. Ảnh theo cách mạng lâu nhưng chỉ chuyên soạn sách giáo khoa ở Sở giáo dục liên khu, hình như sách dạy lớp tư thì phaei. Học xong hai năm Trung học Bình dân ảnh lên Lào. Ảnh nghe bom đạn là tái xanh, chạy trốn gấp. Sợ địch, sợ cả bộ đội ta nữa, ít dám gặp. Kể ra anh em cũng hay châm chọc, hay giở trò báo động giả cười chơi. Ảnh chịu khó học tiếng Lào, các bạn Lào cũng thương, nhưng là thương hại thôi. Ảnh cố chịu được ít lâu, rồi tự ý xin về khu, bây giờ đang làm tờ tin của khu, ở Ban chánh trị. Là ba. Anh Huỳnh Dinh tới thay. Anh này cũng là cán bộ dân vận đã từng làm bí thư huyện ủy ở địch hậu Quảng Nam, năng lực có thừa, sống khắc khổ gương mẫu, chỉ bị cái đau khớp lâu năm, lên Lào ở rừng nhiều càng phát nặng. Anh tuyên bố sẽ kiên quyết đưa đám kiêu binh ở đây vào khuôn phép, gạt bỏ những kẻ làm vua con bằng cách lấy lòng chiến sĩ. Đầu tiên là chỉnh huấn từng đơn vị. Anh Dinh lên lớp ngày hai buổi, đôi khi cả đêm. Anh vạch ra vô vàn tội lỗi của anh em, quy vô tư tưởng và hành động phản dân phản Đảng. Bộ đội cứ ngớ ra mà nghe anh chửi sa sả, đay nghiến, quát tháo, thường về cuối ảnh khóc vì đau đớn trước những con người lỳ lợm, mặt câng câng ra. Học chừng một tuần, làm bản tiểu kết, hễ thiếu mấy chữ phản dân phản Đảng thì đừng hòng được ghi “tương đối thành khẩn”. Chín Khiết nín thinh, chỉ mượn cớ bận không thể tham gia chỉ đạo, hay bỏ đi xếp chỗ đánh. Anh Dinh thường trả lời cắn cưa, kiểu đơn giản nhất. Xin về phép hả? Đó là tư tưởng “về Việt”, cá nhân chủ nghĩa. Trước hứa đi chiến dịch từ sáu tháng đến một năm sẽ về nước, bây giờ sao? Bây giờ khác rồi, hồi nào nước bạn không cần đến ta nữa thì về. Đề nghị đề bạt hả? Bộ đội đang giảm dần quân số, teo dần lại, chưa có nhu cầu đề bạt. Khen thưởng hả? Lỗi lầm chất đống chưa sửa, khen cái gì. Cho đến một việc dễ hiểu như góp thóc nuôi quân, hễ kêu đói cũng bị độp: tự làm mà ăn, dân đang thiếu, lấy của dân là ăn giành, ăn cướp. Từ đó xảy liên tiếp nhiều vụ đào ngũ: về biên giới lãnh võ khí thì đào ngũ về Việt Nam mất sáu cậu, bí đường quá thì đào ngũ theo địch, ba cậu, mất hai súng. Không khí rất khó thở, rất ít tin nhau. Đùa một câu thôi, đến lần chỉnh huấn sắp tới có khi các bạn đấm ngực sám hối, ông Dinh hiểu khác đi lại úp chảo gang cho. Thiệt tình, khi ông Dinh về nước chữa khớp nặng, anh em thở phào nhẹ người.

Chanh nhấc cái soong xuống đất, trút gạo rang ra nắp ống tre, rắc đều vào nước sôi, đậy vung. Anh lấy ra hai cái gáo dừa nhỏ gọt trơn tru, dùi lỗ đóng tay cầm bằng tre uốn cong thành cái cốc màu nâu đen.

Hai Thỉnh chống cằm, trầm ngâm:

- Bây giờ thì sao cậu?

- Lần hồi tháo gỡ thôi. Trên đưa xuống chánh sách luân lưu, anh em bình với nhau, ai cần thì về trước, cũng tốt. Tính leo núi khứ hồi mất hai tháng, thăm nhà và chữa bệnh hai tháng. Có cậu nhà ở địch hậu Hòa Vang hay tận trong Phú Yên, xin Phòng biên chính cho thêm. Bệnh thì lu bù, mặt bủng da chì, báng số ba số bốn. Thường phải mất nửa năm một lần phép. Chỉ được đi một phần mười quân số, vị chi năm năm mới đi được giáp vòng. Anh em bàn: năm năm, cộng với mấy năm chưa có chánh sách nữa là bảy tám năm, mà cũng được, nói tới phép tắc không bị mắng nhiếc là hay rồi... Tới đề bạt. Ban cán sự thấy đề bạt là phải, đánh giặc năm sáu năm vẫn cứ đội viên trơn cũng tội, coi như vinh dự thôi chứ chẳng có đồng xu phụ cấp nào, chẳng có lính mà chỉ huy. Danh sách chúng tôi đưa lên được duyệt hết, nhưng bản quyết định thì ghi tất cả đều “quyền”. Quyền tiểu đội trưởng, quyền tiểu đội phó. Vì khu chưa được liên khu quy định bằng văn bản là được phép đề bạt đến cấp nào! Tới cái ăn. Gạo nuôi quân ưu tiên cho bộ đội Lào, đồng ý cả. Còn sản xuất tự túc của ta thì đặt nhiều mức: các đội Xây dựng vùng giải phóng, các đội Xung phong công tác ở địch hậu thì vừa sản xuất vừa xin dân, trên không cấp. Cơ quan tự túc sáu chục phần trăm, các trung đội tập trung bốn chục, riêng bệnh xá được cấp đủ. Hễ đầu mùa mưa là bộ đội chia tổ ra ở với dân, giúp dân cày cấy, cũng tập dân vận luôn. Giữa mùa mưa dồn quân đi đánh, lúa chín thì về gặt, dân cho thóc gánh đổ kho bí mật. Được khá lắm anh. Đây ruộng không thiếu, chỉ thiếu người làm. Tánh người Lào lại rộng rãi, thương anh em lắm, có tới hơn một nửa được họ nhận con nuôi, làm lễ phục khẻn[7] đàng hoàng nghen. An ủi tình cảm vậy, bộ đội đỡ nhớ nhà. Hết hẳn đào ngũ... Đó, anh Hai thích khẩu vị Lào thì tôi dọn món khổ qua trộn ớt, thêm nhiều me với khế!

Hai Thỉnh cười dài. Những chuyện rối ren ở Tây-Nam anh đã nghe báo cáo từ trước, nhưng rất chung chung và hay bị bóp méo vo tròn.Các bí thư liên chi bật ra thường chĩa mũi dùi vào Chín Khiết, bởi cán bộ cấp dưới về cơ quan chỉ chào họ rất lễ phép, sau đó đi tìm hoặc đợi anh Khiết để bàn việc.

- Vậy là Chín Khiết không hất ai?

- Không. Chỉ góp ý ngang mức mọi người. Nhưng ác cái, ảnh không tin ai thì đừng hòng bộ đội tin người đó.

- Còn vụ diệt tề bên kia Nặm Khoỏng, giết tay phò bạn?

- Ảnh nhận lỗi, tự đề nghị cảnh cáo trong Đảng, hạ một cấp. Liên chi ủy bàn lâu rồi cho qua. Hồi đó bộ đội mới sang, nắm chánh sách rất lơ mơ, chánh quyền Lào chưa có. Anh quen nếp địch hậu bên Việt Nam, khi gấp rút quá cứ tiền trảm hậu tấu. Chúng tôi có thông báo khắp mặt trận Tây-Nam, phê bình ảnh để bộ đội rút kinh nghiệm, cũng sốt ruột vì anh em bị đánh úp, chết nhiều.

Hai Thỉnh nhấm nháp chén nước gạo rang khá thơm và đắng:

- Còn cậu, không cố gây cảm tình với Khiết à?

- Gây sự chớ gây cảm tình! May là ảnh biết tôi thiệt bụng, chẳng kèn cựa tranh giành gì hết. Anh hơn tôi đến bảy tuổi đó anh. Tôi băm hai, ảnh băm chín. Vợ con bị Tây càn giết sạch một lần, tội lắm. Nhà nào có con nít là ảnh ghé vô, bồng ẵm hôn hít không chán.

Trước mắt Hai Thỉnh hiện rõ nét vóc người cao gầy, bộ mặt dài và xương, đôi mắt trũng thành bọc của anh tiểu đoàn trưởng lầm lì, hay buồn một mình, có lúc bị anh Huỳnh Dinh ghép vào bệnh “ba tê”, tức là thiếu tinh thần. Khiết chỉ ngậm miệng nhường anh em cãi hộ. Anh tự hứa sẽ gặp Khiết nhiều hơn.

Thỉnh và Chanh bàn về thông báo mới đây của liên khu cho biết nạn đói dữ dội ở vùng tự do, nặng nhất là vùng ven biển Nam Ngãi, bộ đội phải tản ra nhịn ăn cứu đói, cứu bệnh. Việc tiếp tế cho các chiến trường xa như Hạ Lào - Đông Bắc Miên hay Cực Nam Trung Bộ sẽ phải giảm, riêng phần viện trợ trực tiếp cho bộ đội Lào thì nguyên như cũ.

Giũa lúc ấy, một tiếng “uỳnh” to và trầm dội lên, chỉ cách họ vài cây số. Đúng một lần nổ là hết, không có tiếng súng nhỏ hay lựu đạn tiếp theo. Chanh vọt dậy, lắp bắp:

- Mìn... mìn biệt kích... đúng hướng Kiệt Ngôông...

Anh Đeng hộc tốc chạy đến, tay cầm trường Mỹ, tay xách nịt đạn. Con trai anh chạy theo, khoác cây súng kíp, túi thuốc đạn kịp choàng qua vai. Đeng nói hụt hơi:

- Đã dặn đi một đường về một đường, chúng nó cứ ẩu. Tôi đi đây, Chăn-thi!

- Tôi cũng đi!

- Đừng. Anh bỏ khách cho ai?

Chanh lẳng lặng ngồi xổm xuống, kéo củi ra cho lửa hết bốc ngọn. Nhà anh Đeng cũng tắt đuốc dầu rái. Tổ trinh sát sáng mai sẽ đưa anh Hai Thỉnh về khu, nay vắng cả. Tổ Xây dựng vấp mìn. Chỉ còn anh để đưa đồng chí chính ủy khu đi lánh nếu địch ập tới.

Làng Kiệt Ngôông bị khủng bố nhiều lần, vẫn sống hợp pháp trên đất cũ, chỉ cán bộ và du kích ra ở bưng. Địch không dám làm quá tay, sau khi những làng bị chúng đốt đều rút vào rùng sâu, biến thành làng kháng chiến lởm chởm như xương rồng. Sục vào bưng bằng xuồng vài lần, chết nhiều phải lui. Cán bộ It-xa-la hay vào làng ban đêm, điệp báo tin nhưng địch không dám đánh úp ngay trong làng, sẽ bị dân kiện hàng tháng, tỉnh trưởng lại là dân làng này. Bọn biệt kích nghĩ ra cách đánh riêng: chúng rình xem It-xa-la vào làng đường nào, bí mật gài mìn vướng nổ hay mìn bấm điện, giết họ trên đường về bưng. Mấy tháng trước một nhóm đã bị phục bằng súng, may sao đêm đen khó bắn, chỉ một đồng chí bị thuơng. Nay chúng đổi dùng mìn...

Hơn một giờ sau, hai chiếc xuồng ghé bến. Đèn pin bọc vải xanh loang loáng. Du kích khiêng lên ba người: tổ trưởng Xây dựng chết nát thân, hai cán bộ một Lào một Việt bị thương, chỉ sót một đội viên Lào ghé thăm vợ con đi sâu xa mới thoát quả mìn vướng nổ cỡ to, được gài sau khi họ vào làng.

Hai Thỉnh lo lắng:

- Cô gì y tá... à cô Lan, lại theo bệnh binh về mặt trận bộ mất rồi, làm sao Chanh?

Chanh không đáp, leo vội lên kho thóc, lôi xuống một cái bồ có nắp, giốc ra võng mình. Cả mớ những thang thuốc nam trong lá chuối khô, những túm rễ lá, những lọ bột có nhãn, mấy cái túi nhựa trong đang còn là của hiếm. Anh chọn lấy vội mấy thứ, chạy đến nhà anh Đeng, nơi hai đồng chí bị thương đang rên, giãy. Ga-rô chặn động mạch. Thuốc tím rửa vết thương, cầm máu bằng lông củ cu-li[8] vàng rộ, băng bằng vải hoặc bẹ chuối lột vỏ xanh tùy chỗ khó dễ, tất cả đều đã luộc sẵn, gói kín. Hai Thỉnh ngạc nhiên khi thấy Chanh rút ra một hộp nhôm đựng ống tiêm và kim, nấu lại, pha nước cất vào lọ pê-ni-xi-lin, bơm thử dưới da trước, sau đó tiêm cho mỗi người nửa lọ kháng sinh, thứ này ở bệnh xá khu cũng xếp lại quý hiếm.

Đợi khi ngớt việc, Hai Thỉnh mới hỏi rụt rè:

- Chớ cậu học nghề thuốc hồi nào tài vậy?

- Học thuốc nam với cụ Chín Chưởng ở Huề Bình. Học thuốc tây mỗi khi nằm bệnh viện. Thuốc tôi gởi mua ở Pạc-xê, đôi khi cơ sở Lào gởi tặng. Tiêm sẵn pê-ni-xi-lin, đỡ lo thối thịt, mờ sáng mai khiêng về bệnh xá mặt trận.

Hai thương binh đã thiêm thiếp. Thỉnh trở về võng mình, ngả lưng. Rõ quá rồi, không thể để cậu Chanh ở đây mãi. Thường vụ Ban cán sự khu đã nhất trí điện về liên khu đề nghị đưa Chanh vào ủy viên thường vụ, để ở lại Tây - Nam ít lâu nữa cho ổn nội bộ, rồi rút về làm trưởng Ban chính trị khu. Anh trưởng ban hiện nay vẫn tốt nhưng không hiểu gì về chiến trường này cả, từ ngày lên Lào chỉ chuyên ở cơ quan như một công chức cần cù gắn với bàn giấy, cần đưa về địa phương ít lâu cho hiểu đất Lào người Lào.

Khi Chanh trở về võng mình thì Hai Thỉnh đã ngủ say. Chanh nhẹ nhàng treo cái mùng dã chiến của mình phủ lên trên võng anh chính ủy, nhen lại lửa, bỏ thêm lá xông khói, buông thân hình mỏi nhừ của mình xuống võng, kéo tấm vải đắp trùm kín người, rơi chìm vào một giấc ngủ lắm tiếng nổ.

Chú thích:

[1] Tiếng Lào: mặt đất dưới sàn nhà.

[2] Tiếng Lào và Việt: thuyền đi lấy muối của anh Chín về chưa?

[3] Trại làm ruộng

[4] Tàu đỏ

[5] Đuốc dầu rái

[6] Tục ngữ cũ: “Tàu ăn mèo, Việt ăn chó”. Dân Lào thường kiêng hai món này.

[7] Lễ buộc chỉ cổ tay, để chúc phúc hay kết thân.

[8] Còn gọi là cẩu tích.