Chương XVI
Tiểu đoàn phó Năm Chò cầm ngang cây tiểu liên Tuyn còn xếp băng và chưa rút báng trên hai bàn tay ngửa, toài thật êm đến bên trung đội trưởng Sáu Cam. Cam ngồi trong hố sâu nửa mét, nhô đầu nhìn quanh, nhẩm lại cho thuộc hình dáng đồn 76 đã xem ban ngày, sờ nắn ban đêm, phần trong ruột được trinh sát trình bày trên sa bàn.
Trước mặt họ, cái đồn rất quen như nín hơi, nhắm mắt giả vờ ngủ, trong khi các họng súng đều chĩa sẵn đợi siết cò. Cơ sở nội tuyến báo chúng đã tăng tuần gác lên gấp đôi, sửa kỹ công sự, trữ thêm đạn, gạo, nước từ khi gián điệp cho biết có quân của trung đoàn 108 lảng vảng trong vùng. Cam căng mắt ngắm nó, chỉ thấy lớp hàng rào tre ngoài cùng dựng chổi chà trên nền trời đầy sao, trong xa có thêm cái chuồng cu của mi-ra-đo nhô thấp thoáng.
- Mấy phút nữa anh?
- Mười ba. Nhớ nghen: đặc công bên Chiêm Lâu nổ trước, ta tiếp liền. Mà được đột phá khẩu thì tao mày cùng lên, mày bên mặt tao bên trái, chỉ đường cho xung kích vô tung thâm.
- Dạ nhớ. Anh xuống hố nghỉ một chút.
Năm Chò xuống hố của mình do trinh sát đào hộ, sâu hơn của Cam. Trong tối, Cam mỉm cười khi nghe tiếng nước óc ách khẽ, rồi mùi rượu bay thoảng. Dạo này anh Năm uống ít và kín đáo, không hề say. Cái hồ lô nước thánh của anh không giao cho ai nữa, chỉ nằm trong đáy ba-lô, ra trận anh mới đeo vào nịt trong bao vải U.S.
Sắp rồi. Cam xốc lại cây Tuyn xếp gọn đeo chéo trên lưng, đẩy ba băng dự trữ ra sau mông - súng đạn chưa dùng đến ngay - trườn sang hố bên cạnh. Tổ trưởng tổ mật bộc xoay đầu lại, mắt thao láo. Phần việc của cậu nhàn nhất trong Đội bộc phá giá thiết, tức là đội đánh thuốc nổ và bắc thang cầu. Đặt quả bộc phá sẵn vào hàng rào tre, nghe hiệu lệnh là giật nụ xòe và rút, xong, địch chưa kịp đối phó.
- Lên rào đi, đợi Chiêm Lâu nổ là giựt.
Mấy phút cuối cùng bò chậm hơn rùa. Rồi một loạt tiếng nổ âm âm của thủ pháo lọt trong lô-cốt dội tới từ đồn Chiêm Lâu. Dưới chân hàng rào tre, cách Cam hơn chục thước, một tia lửa đỏ phụt ra, xì xì, cậu mật bộc chạy xuống, giúi vào tay Cam sợi dây giật nụ xòe. “Xuống dự bị!”. Cậu chạy thẳng xuống dốc. Cam cúi đầu tránh tre gỗ văng.
Oàng!
Bên mũi phụ công, quả bộc phá cũng nổ sát nút. Mũi dương công trên sườn đồi bên kia châm lửa đốt dãy nhà tranh địch dùng để điểm phu làm đồn hay dồn người bị bắt. Trong và ngoài đồn 76 hiện cảnh động đất và núi lửa phun. Đạn đủ cỡ rít réo, vạch đường lửa xoắn nhau, đan lưới vào nhau. Đám cháy chập chờn không soi thẳng vào chỗ mũi chủ công, đỡ lộ, vẫn giúp cho hai khẩu ĐK.57 sửa đường ngắm, thúc đạn lõm vào hai lô-cốt nằm hai bên hướng đột phá.
Tre gỗ còn rơi lả tả. Cam đã hét to át tiếng ồn nhức tai:
- Tổ Hai lên!
Tổ này đánh hàng rào cũi heo bằng bộc phá ruột tượng. Tổ trưởng huỳnh huỵch chạy lên, bao vải dài vắt qua vai như cõng gạo. Chỉ một tổ viên theo sát, đeo chéo qua hai vai một túi lựu đạn, một túi dết đựng vôi bột, vừa chạy vừa bốc vôi rắc trên mặt đất làm lộ tiêu. Địch vẫn chưa nhận ra hướng chính của ta. Phía mũi dương công, hàng rào tre gỗ được tưới dầu lửa từ trước bắt đầu cháy mỗi lúc một to, địch xối đạn vào đấy.
- Tổ Ba lên!
Thép gai ruột gà thả bùng nhùng, đánh bằng bộc phá ống. Tổ trưởng vác cái ống tre chọc mắt dài hai thước giống ống lấy nước của đồng bào Thượng, tổ viên theo rắc tiếp lộ tiêu.
Quái, sau lâu quá vậy? Không nổ, cũng không thấy nụ xòe xì xì. Bánh khảo tịt ngòi... Cam chạy vọt qua hai lỗ hổng đã mở, nhào sấp xuống. Đúng, hỏng phần điểm hỏa. Cam rít răng:
- Tao dặn lắp hai nụ xòe. Sao?
- Thấy đồ mới tinh, em tưởng...
- Đầu cha mày chớ tưởng! Xuống, tao đánh!
Cam luôn luôn đeo trên nịt vài bánh thuốc nổ tự nấu đúc cỡ hai lạng, lắp dây cháy chậm dài hơn lựu đạn, buộc sẵn dây cao-su. Xô cậu tổ trưởng sang bên, Cam buộc hối hả một bánh vào đít ống bộc phá, đánh cho kích nổ cả ống. Nụ xòe xịt lửa. Cả ba chạy nhào xuống. Một tràng 12 ly 7 chợt quét ào ào trên lưng họ. Địch trông thấy bóng họ lọt đến rào bùng nhùng, đã đoán ra mũi chính. Đèn dù bay lên tới tấp. Ống bộc phá nổ, hắt tung thép gai sang hai bên, lỗ hổng thứ ba hiện rất rõ dưới ánh sáng chói mắt. Các nòng súng lớn nhỏ xoay vội về phía Cam, thêm lựu đạn phóng, lựu đạn tay, đạn cối bắn dựng đứng nòng.
Gay go lắm rồi. Cho tổ thang cầu lên, chúng quét chết tươi ngay. Tổ trưởng thang cầu Một, đen lùn và rất vạm vỡ, sẵn sàng vọt khi có lệnh, không do dự.
- Anh Sáu cho lên?
- Khoan, đợi hỏa lực kềm chế bớt.
Đội hỏa lực từ nãy chỉ thong thả thổi tùng phát ĐK.57, lúc này mới rộ lên một lượt. Sáu cây trung liên nhả đạn thuốn vào các lỗ châu mai đang chớp lửa, bốn khẩu cối 60 cũng vừa bắn vừa chỉnh, cố cho trúng các hố đặt súng cối trên đồn. Đã bước vào cuộc đọ gang thép, đèn soi cho nó cũng soi cho ta. Một phát DK ngắm kỹ phá toác hẳn cái lô-cốt bên trái. Cam thấy rõ cái hốc đen ngòm méo mó.
- Thang cầu Một lên! Tổ lựu đạn chày yểm hộ!
Số lựu đạn cán gỗ mới ra lò chưa nhiều, lựu đạn đập ta làm hay thối, bộ đội thích dùng lựu đạn địch hơn. Thứ đó ở địch hậu dễ kiếm, bọn hương dõng vệ sĩ được phát nhiều thường bán hay gửi biếu ta lấy lòng, nổ ngon nhưng không ném được xa. Cam lập riêng một tổ lựu đạn chày, chọn những cậu ném xa và trúng đích nhất, cho tập thêm cách phối hợp với bộc phá giá thiết và xung kích, giao cho mỗi người mười lăm quả và một mã tấu, trông hơi lạ mắt. Một trận trước, tổ này đã ném hơn bốn chục quả, cứu được tổ bộc phá đánh lô-cốt bị mắc kẹt cách lỗ châu mai chỉ mấy sải tay.
Tổ thang cầu khiêng “cái chõng” chạy lên lạch bạch. Cam đổi ý, khoát tay hét, chỉ cho lên hai người xách túi lựu đạn. Phải để dành cho các bước sau. Hỏa lực địch yếu hẳn đi chệch choạc, nhiều luồng tuôn chéo lên cao, thằng bắn không dám nhô đầu. Năm Chò lom khom chạy tới nằm bên Cam:
- Cần gì nữa không, Cam?
- Đạn thẳng đỡ rồi. Rán trị bọn cối dựng nòng thử coi. Đó, nữa, mẹ cố tổ nó!
Những quả cối 81 và 60 vẫn rơi vung vãi giữa các lớp rào. Vừa lao xong cây cầu tre có chân chống qua hào chông, một tổ viên bật ngửa, ngã vật ra, hai vết sẫm loang nhanh trên ngực và bụng. Một cái bóng chồm tới xốc bạn, cõng chạy xuống. Hai cậu lựu đạn quỳ lên, giơ tay dứ dứ lấy đích, giật nụ xòe, ném hết đà. Chớp lửa mé trong tường đất quá gần, mà trên sa bàn các hố súng cối nằm giữa rốn đồn, chung quanh lô-cốt mẹ. Cối 60 ta chỗ rốn ấy, nóng lòng đợi tiếng rền trời của một đống đạn trong hố nào đó bị kích nổ theo.
- Tao cho phóng bom nghe Cam?
- Dạ. May nhờ rủi chịu!
Năm Chò vọt đi. Một tràng đại liên xóc chiu chiu bên chân anh, tung những búng đất bột như bốc khói, không trúng. Đội bộc phá giá thiết gờm phóng bom vì hay sai tầm lệch hướng, họ càng đến sát lô-cốt càng dễ bị đấm lưng. Xung kích còn chờ bên ngoài không ngại mấy.
Bịch, bịch bịch!
Cam hét hai tổ trên kia nằm xuống, cũng thùa, họ đã dán bụng xuống đất.
Ba quả bom 11 cân nổ rung đất trong ruột đồn. Hay lắm, tiến bộ lắm, yên bụng rồi! Tiếng xì xào của tổ bộc phá Bốn nghe rõ. Lại ba trái bom nữa bay lên sau những tiếng phóng nặng trịch.
- Tổ Bốn lên! Hễ nghe bom rít phải nằm!
Tổ này phá lớp rào chống giáp tường đất và lô-cốt cũng bằng bộc phá ống. Ba người ôm hai ống dưới nách lao tới. Vào sát địch phải kín võ với nó. Có thể người trúng đạn, ống không nổ, nổ mà không quét hết chông - thứ chông tre đực cao đến ngực, đóng bằng vồ xuống đất, có mìn nối dây chôn bên dưới. Ống dài hai thước, lớp rào có thể dày bốn thước... Gì thì gì, bộc phá viên cũng chỉ được chạy con thoi từng nhóm nhỏ, không được dồn cục hay xếp dãy bám đuôi nhau ở nơi không hầm hố. Một đội bộc phá ở tiểu đoàn bạn quá liều lĩnh, mở rào tới đâu đưa đội hình mũi nhọn bò lên tới đó, bị thương vong gần hết chỉ vì một tràng đại liên từ trên mi-ra-đo rỉa xuống lưng dưới đèn dù sáng rực. Bị lắm người chê là nhát, Cam cứ phớt: cho lên từng tổ, đội trưởng không rời vị trí chỉ huy bên ngoài rào, chỉ nhảy khỏi hố khi rất cần. Chết e? Dễ thôi, nhưng chỉ được phép chết sau khi mở toang đột phá khẩu cho xung kích lao vào ruột đồn!
Tổ Bốn đánh cả hai ống. Tổ trưởng ào xuống giúi cho Cam những bốn sợi dây giật nụ xòe:
- Sạch lắm, anh Sáu. Bánh chưng lên ngon!
- Tổ Năm lên! Hai lựu đạn nữa lên!
Cam chợt nhận thấy tay và giọng mình run. Đây là quả cuối cùng, quyết định thắng bại. Tám cân thuốc nổ gói nén kiểu bánh chưng, buộc thêm hai chân gỗ choãi ra để dựng vào tường lô-cốt, lắp ba nụ xòe còn thêm tám kíp phụ tăng sức nổ. Đây là quả thằng địch khiếp nhất, còn bao nhiêu đạn dốc ra bắn chặn, bắn trượt thì thằng gần cửa đâm đầu chạy, thằng mắc kẹt cố dùng súng lắp lê thọc qua lỗ châu mai hất ra xa tường. Đây là quả mà đôi khi các anh hùng bộc phá, đạn xóc đầy thân, cố bò lên để ép ngực dựa vào nó không cho địch hất ra, gượng hết sức tàn giật các nụ xòe, về sau đồng đội chỉ còn cúi đầu trước một ngôi mộ tượng trưng.
Đây cũng là quả mà trung đội trưởng Cam thèm tự tay đánh. Thèm đến phát cuồng. Cấm lên sớm. Đội mất chỉ huy là rắn mất đầu.
- Tổ Năm dự bị, sẵn sàng chua?
- Sẵn sàng!
Lúc này không thể hà tiện. Các trung liên, đại liên, súng cối ta bắn như mưa bão, phóng bom tống đạn túi bụi, đất này dồn dập xốc bụi bay mù. Bốn tổ viên lựu đạn đứng thẳng người, ném như máy. Sấm sét của ta trùm hẳn lên góc đồn này, đè chúng nó xuống bẹp gí, chỉ còn phát ra nhũng tiếng òng ọc tử thương.
Chớp trắng. Trắng chói mắt. Tiếng nổ quá to lại nghe ra nhỏ khi tai chịu không nổi. Gạch đá đất gỗ bay lên trời, trông rất chậm trong lửa loe lóe, và muốn dừng lâu trên cao chẳng chịu xuống.
Tổ trưởng tổ Năm dự bị gào vào tai Cam đang ngập tiếng ve trưa hè:
- Tiếp trái nữa, anh Sáu?
- Khoan. Đợi tôi lên!
Năm Chò chạy tới, chỉ đập vào vai Cam không nói, cầm tiểu liên thốc lên cửa mở. Cam cùng tổ năm dự bị lao theo, cầu tre nhún dưới chân. Một sợi thép gai rơi vãi xé vải và thịt trên đùi Cam. Cam quát tổ dự bị: “Dọn sạch đường lên!”.
Tổ Năm đánh rất tốt. Quả bánh chưng được kê vào chỗ giáp mí của tường đất nối vào lô-cốt xây đá và xi-măng, phá toác được cả hai. Đá to gỗ lớn đã rơi hết, chỉ còn mảnh nhỏ rắc lộp bộp xuống đầu và vai. Cam nhoài người qua chỗ tường hổng, quét hú họa mấy loạt ngắn phòng địch ùa tới chặn cửa. Năm Chò rút đèn pin chĩa xuống chân đồi, nháy ba lần, ngừng, lại nháy ba lần. Đội xung kích Một chạy lên từng tổ rời, thở hồng hộc, lao qua trước mặt Cam, biến vào các con hào trong đồn. Những súng trường không lưỡi lê đều có dao găm buộc đầu nòng.
- Phần mày xong, thu dọn đi Cam!
Năm Chò thay băng tiểu liên, nhảy xuống hào theo xung kích. Cam dợm chân định lao tới, lại kịp ghìm chân, chỉ gọi tổ Năm dự bị ôm quả bánh chưng thứ hai bám anh tiểu đoàn phó, phòng khi phải đánh lô-cốt mẹ - một boong-ke xây bê-tông rất chắc, e rằng DK dùi không thủng. Cam thong thả đi xuống chân đồi, cảm thấy mỏi nhừ khắp thân như sau một ngày cõng nặng leo núi. Trung đội phó đang thu quân, kiểm vũ khí, cho tải thương khiêng một tử sĩ và hai thương binh về trạm phẫu. Đánh một đồn to bằng cường tập, bộc phá giá thiết mất như thế là nhẹ. Cam sửng sốt khi nghe trung đội phó bảo từ quả đầu đến quả cuối chỉ mất mười sáu phút, cậu ta làm đốc chiến ở cuối đội hình nên rảnh rang hơn. Cam tưởng chừng mình vừa đánh suốt một buổi.
Bốn khẩu pháo 105 nãy giờ bắn bủa lưới chung quanh đồn Chiêm Lâu bắt đầu tách đôi, hai khẩu nhả đạn chung quanh đồn 76. Ta với địch đang quần nhau trong đồn, chúng không dám bắn gần. Đạn nhổ nhiều nhất ở quãng giữa Chiêm Lâu và 76: Việt minh đánh hai đồn một lần, ắt là đặt sở chỉ huy ở giữa chứ sao!
Ba giờ sáng, Năm Chò về đến hầm chỉ huy, để Ba Dĩnh và đại đội phó ở lại thu dọn chiến trường thật sạch bong. Cô y tá vồ lấy anh chỗ cửa hầm, mếu máo:
- Chú coi thử, anh Cam bị gì mà lịm chết giấc, có dấu máu to ở đùi. Cháu lay miết, ảnh hự hự trong mũi, gạt tay cháu ra.
Năm bước sấn vào hầm, nhấc cái đèn thẫu dầu dừa soi lên mặt và người Cam, sờ trán nắn ngực, bật cười:
- Thằng khỉ, ngủ không ngáy làm người ta hết hồn. Máu ở đùi hả? Thép gai quệt rách quần rách da, nó bôi thuốc đỏ tùm lum, coi dễ sợ.
- Thiệt không chú, ngủ gì như người tắt thở...
- Cô chưa ngủ với nó lần nào, biết sao được?
Cô y tá thụi vào sườn tiểu đoàn phó, chạy biến. Năm Chò biết cô này mết Sáu Cam từ khi mới gặp, Cam phớt đều. Tốt thôi, nó mới hăm mốt, chẳng vội.
Càng lớn lên nó càng đẹp người, cao to, râu quai nón rậm, tóc bồng dọn sóng, chỉ hưởng của ông Tư Chua cặp mắt xếch với lông mày nét mác, cái cằm chẻ đôi. Lời ăn tiếng nói cũng đĩnh đạc, chọn lọc, rõ ra cậu học sinh chuyên khoa Văn được rèn tiếp trong trường chính quy Lục quân, mà vẫn nhớ những bài học của cái thời ở mướn, ăn xin, làm chú nhỏ liên lạc theo bộ đội Nam tiến.
Ở lớp tập huấn đánh công kiên, Năm Chò nhiều lần nổi khùng khi huấn luyện viên Phan Cam thổi còi đánh toét, hô hai tiếng đáng ghét: “Làm lại!”. Sai một chút, quên một tí xíu, hở một ly lai nào đó: làm lại. Cam nói lạnh ngắt: “Khi ứng dụng, xin tùy các đồng chí đánh sao cũng được, bây giờ đang học thì yêu cầu phải đúng trăm phần trăm”. Cuối lớp, Năm Chò cố thuyết ban chỉ huy trung đoàn xin Cam về, rồi lại năn nỉ ỷ ôi để đưa đội bộc phá giá thiết của Cam đến phối thuộc đại đội 8 liên tiếp mấy trận. Thắng to thắng nhỏ, chưa trận nào thua, anh chỉ có một mối lo canh cánh, lo nó chết hay què cụt. Bộc phá viên rất dễ thương vong, mà mấy khi được một đứa như nó trong hàng cán bộ...
Năm Chò ngả lưng xuống tấm sạp tre lót đáy hầm, bên Cam. Tiếng răng rắc và mùi mồ hôi nồng đánh thức Cam dậy. Cam chớp mắt liên lu, xoay đầu, hỏi ngay:
- Anh Năm hả? Đánh trận nội ra sao?
- Hơi rắc rối, nó có hầm ngầm dưới lô-cốt mẹ...
- Xài bánh chưng không?
- Khỏi. Lựu đạn thủ pháo đủ ngon. Nó mới đào thêm, chưa lắp cửa, tính xoi đường hầm ra ngoài rào, mới được chục thước... Ngủ đi mày. Thức trắng mấy đêm rồi, phờ râu.
- Anh em mình bị nhiều không?
- Ít. Ngủ đi, tao cũng nhắm mắt một lát.
Năm Chò chợp được một giờ. Ba Dĩnh dựng anh dậy, đưa lệnh viết của trung đoàn cho đại 8 rút qua sông Thu Bồn để nghỉ ngơi chấn chỉnh, trong khi các đơn vị bạn tỏa ra đánh viện. Riêng với Năm Chò có cái lệ ấy: lệnh tiến quân nói miệng cũng được, lệnh lui dứt khoát phải viết. Trung đoàn trưởng nói qua điện thoại, gắt, chửi, anh chỉ cho bộ đội chuẩn bị chứ chưa lui ngay, đợi giấy đến tay. Anh bị vài lần hớ khi mấy ông cấp trên chối lỗi bay biến, người biết rõ cũng ngậm câm, ai dám bênh anh thì cầm chắc trầy vi tróc vảy. Từ đó anh thề nắm đằng chuôi chứ không nắm đằng luỡi.
*
Cánh quân lên đóng lại đồn 76 bị đánh tơi tả. Địch bỏ hẳn điểm cao ấy, lập đồn khác gần quốc lộ Một dễ ứng cứu hơn, xây lại theo kiểu ngôi sao bốn cánh với những boong-ke đúc chìm rất chắc, nhiều hầm ngầm, trông xa như con nhện nằm giữa lưới thép. Kiểu đồn mới này trông oai vệ nhưng rất hiểm độc, địch có thể xả ít nhất bốn luồng đạn chéo cánh sẻ vào bất cứ điểm nào bên ngoài hoặc giữa các lớp hàng rào dày đặc mìn nổ, mìn đèn.
Đại 8 đánh thêm vài trận giao thông nữa, rồi được rút xa hẳn về phía Nam sông khi mùa lũ lụt năm 1953 bắt đầu, đúng lệ vào tháng 10-11 dương lịch.
Bộ đội kéo đi lãnh vũ khí, tân binh trẻ măng lũ lượt đến, dân công gánh gạo và đạn ùn ùn từng đoàn. Cả một vùng năm sáu làng to, chưa hề bị bom, đầy những người đeo vòng ngụy trang đi chật đường, mặc đủ kiểu và vác đủ thứ trên vai. Máy bay địch sục tìm không ngớt, nhưng dồn sức đánh phá cầu đường và bến đò nhiều hơn.
Ba Dĩnh phải chia tay với anh em: anh lên phó chính ủy trung đoàn, được điều về một trung đoàn chủ lực thuộc liên khu đang xây dựng ở Bình định. “Cụ Ba thầy tu” đành gãi gãi cái đầu cạo bóng từ xua, nói lòi tạm biệt trước một đại đội bùi ngùi.
Ba đại đội số 5, 7 và 8 nhập lại thành tiểu đoàn 578, Năm Chò lên tiểu đoàn trưởng, ban chỉ huy được bổ sung đủ bốn người. Chò nằn nèo, giữ được Sáu Cam và đội bộc phá giá thiết ở lại tiểu đoàn của anh. Trung đoàn xét Cam đánh 11 trận lớn nhỏ đều tốt, đề nghị đưa Cam lên đại đội phó, nhưng liên khu không duyệt: danh sát đề nghị đề bạt rất dài mà Cam còn ít thâm niên. Đề bạt non thì cán bộ trẻ sinh kiêu và chung quanh so bì, hậm hực. Khen thưởng ở mức bằng khen giấy khen thì được, chứ huân chương tại liên khu Năm là của rất hiếm, bộ đội chỉ trông thấy vài huân chương chiến sĩ sao bạc trong các đại hội thi đua, hay xúm lại trầm trồ sờ nắn.
Đợt học chính trị tiếp đó sôi nổi đặc biệt, chưa từng có. Liên khu đã làm thí điểm phát động quần chúng giảm tô ở các tỉnh. Mấy chục cán bộ trong trung đoàn được rút đi giúp phát động tại vùng tự do Nam Quảng Nam, nay chia nhau đi báo cáo trước những đơn vị say bốc, nghe đến khuya vẫn hò kể nữa, nói nữa. Lính ta bàn xôn xao, mặt tươi nở, háo hức đợi tin “phát” ở xã mình, thôn mình, lại nhắc nhau đừng nôn nóng, càng làm sau càng dày kinh nghiệm chứ sao. Ừ thì chưa phải người cày có ruộng, nhưng giảm được tô tức là đủ mừng lớn rồi. Ai lại để mãi cái cảnh ngược đời, mình đi đánh giặc cứu nước, chẳng biết khi nào mất mạng hay mất chân tay, trong khi cha mẹ già cùng vợ yếu con thơ cứ ăn cơm vay cày ruộng rẽ mãi mãi, vỗ cho mấy nhà địa mập ú! Anh em giấu nhau gửi rất nhiều thư lên trung đoàn, xin được ghi tên trước để khi xã mình phát động thì được đi phép về góp một tay.
Bước vào học chỉnh huấn quân sự. Nắng thì ra đồi học “ngũ đại kỹ thuật”, mưa ngồi dồn trong lán học lý thuyết. Năm Chò và Sáu Cam cùng đăm chiêu: kiểu đồn mới của địch khó đánh, cố đánh thì rất hao quân. Hai anh em thì thào rất nhiều về chiến thuật đặc công. Cái tên đã bí mật lại còn phủ thêm một lớp ngụy trang nữa là CK.1, đọc xê-ca-oong, tưởng như tên chiến khu nào mới lập, nhưng chỉ là một lời khen kín: công kiên số một, công kiên nhất. Rước được thày từ Nam Bộ ra dạy đàng hoàng, nhưng mới tập trung dạy ở liên khu thôi. Các đội CK.1 đến phối thuộc trung đoàn 108 thường gồm vài chục người, đầu cắt gần trọc và thân dẻo như bó gân, cõng ba-lô da khá nặng, chọn ở nhà có phên vách kín và ít người lui tới. Họ không vào hàng quán, không hút thuốc, chỉ ăn những thứ chọn kĩ và tự nấu, trời hơi trở gió đã lo quấn cổ. Họ tự làm bãi tập riêng ở góc rừng kín. Rất nhiều cán bộ đã rùng mình khi bàn phương án tác chiến: các đồn khác dùng tiểu đoàn hay đại đội tăng cường để đánh, nhúm người của họ nhận riêng một đồn, chỉ mượn thêm mấy cây tiểu liên và xin một đoàn dân công để thu chiến lợi phẩm!
Một hôm mưa to, Năm Chò đến cái “xưởng tre” của Cam. Đội bộc phá giá thiết đi đâu kiếm tre đấy, hễ nghỉ tập là xoay ra cưa, chẻ, đục, đan, làm các thứ thang, cầu, sạp, ống bộc phá và khung bánh chưng, xong đến đâu đem gửi giàn bếp nhà dân đến đấy cho khô, hong khói chống mọt, có lệnh là rút xuống nhồi thuốc. Một tiểu đội công binh được phái đến cưa bom nấu thuốc nổ tại chỗ, đỡ phải khiêng về xưởng như trước. Chò vẫy Cam ra đầu hè, nhăn nhó nói khẽ:
-Trung đoàn lựa người đi học đặc công đó mày. Tao xung phong, không trúng. Các ổng nói tiểu đoàn mới ra lò, bỏ cho ai mà đi, nghe tức ói.
- Hay anh cử tôi đi?
- Tao mới ướm thử, cũng bị gạt luôn. Kêu là không phải đồn nào cũng chơi đặc công được. Bây giờ tao đang đòi cho kiến tập, coi nghề ngỗng mấy chả ra sao mà đánh ngon kì cục. Tao học mót về bày cho mày.
- Đành vậy. Với lại... hì hì... Đặc công họ tránh bay mùi, mà anh thì nồng nặc mùi thuốc, rượu, hôi nách nữa, vô chưa tới rào chó bẹc-giê đã sủa nhức tai...
- Phản tao hả? Tao chừa được, chừa hết!
- Chẳng cần bò lết theo Xê-ca-oong đâu, anh chừa được chị Năm thưởng anh liền một khi!
- Thưởng gì?
- Một thằng con mập ú!
Năm Chò bật cười, rồi trầm ngâm:
- Chị Năm mày một mình nuôi con, công tác ngập đầu, thôi cứ nuôi thằng Chung cái đã. Hồi chị mày mới kể, thiệt tình tao ngứa ngáy lắm, như nổi rôm xảy cùng mình. Lần hồi tao lại thương nó như con đẻ, tại nó dễ thương quá mà. Trâu nhà ai mặc kệ, sanh nghé tao cứ lùa! Với lại phần tao cũng chẳng mẫu mực gì mà chê thiên hạ...
- Quên không hỏi, lâu nay anh gặp chị Tư Toản không?
- Có, gặp ở Tam Quan. Lấy chồng rồi, hai con, vẫn buôn lậu mày ạ. Buôn hàng chạy dọc xe lửa, công an tịch thu cả chục lần chưa kinh. Nó không xài kiểu “đầu phồng đá lửa, bụng chửa ka-ki” đâu nghen, cũ rồi, mà nhờ bộ đội ngồi toa công hành chuyển hàng. Coi tướng rất tài, biết anh nào khôn anh nào khờ. Chồng nó sửa xe đạp, hơi đần đần. Nó còn tiếc tao đó Cam!
Hai anh em cười rúc rích.
Trong nhà chợt có tiếng gọi to át tiếng gõ đục lách cách:
- Anh Năm có đây không? Nghe nói ảnh qua đây...
- Có cái mẹt!
Một đại đội phó vừa về xưởng Cao Thắng sửa mươi cây súng hư và lãnh thêm dây cháy chậm bích-pho, bước tới đưa cho Năm Chò một bì thư khá dày, chưa có dấu kiểm duyệt của trung đoàn. Năm chúa ghét cái lệ kiểm duyệt thư, vẫn ỡm ờ:
- Phạm bảo mật rồi đó ông bạn. Học lệnh 154 rồi chớ!
- Ối, thơ vợ gởi cho chồng, kiểm làm trò cười à? Còn gói quà nữa, tôi để chỗ tiểu đoàn bộ, đưa thơ trước anh mừng.
Cam vào nhà lo việc mình, để Năm đứng nguyên chỗ đầu hè đọc thư Bưởi. Càng đọc anh càng thấy lạnh người như áo quần dầm mưa gặp gió thổi tăng dần.
.. Qua được nạn đói, tiếp được mùa thì bà con phấn chấn lắm anh à. Bộ máy xã mình bầu lại vững chắc nói dân rất nghe. Đội phát động giảm tô về cho cán bộ nhân dân học chánh sách bảy đêm, bà con bồng con bế cái đi học ham lắm, kì này đội không dầm dề nhà phủ Đỉnh nữa mà sâu sát dân nghèo hỏi thăm từng chút, làm việc với Đảng ủy xã, ủy ban chặt chẽ. Tiếp cán bộ đội về huyện họp mấy bữa, khi trở xuống Linh Giang thì đưa quyết định tạm ngừng công tác Đảng ủy ủy ban, cử ra một Ban giảm tô năm người nắm hết các việc và giúp đỡ đội lãnh dạo. Anh Tám Lự cố nông, tá điền xóm Ấp làm trưởng, anh này nhà nghèo đông con lâu nay không tham gia gì, kéo vô du kích cũng không vô. Cô Chín Mẹo bần nông ở Linh Trung làm phó, cô này ngoài hai mươi chưa chồng, cũng là người tốt mà bị cái tật nói ba hoa, nói thêm thắt, bà con hay ghẹo là “mồm mép như con Mẹo”. Còn lại một cố nông, một bần nông, một trung nông dưới nữa, đều ít tham gia chắc anh không quen.
Tám Doãn tốc xuống huyện hỏi, té ra huyện ủy không được dính vô cách xếp đặt của đoàn giảm tô. Mà Ba Mít làm thơ ký cho đoàn huyện mới kì! Hồi rớt bí thơ chủ tịch, ảnh xin sao đó được rút về Nông hội tỉnh trót năm rồi, giờ lại có quyền lắm, chắc họ thấy nhà cửa vợ con ảnh xơ xác thì tưởng là trong sạch, chẳng biết ảnh bớt xén lu bù để ăn chơi và nuôi nhơn tình. Ông Ba Mậu thôi phó chủ tịch cũng hồi đó, lên tỉnh làm ty phó ty Giáo dục, vì nhiều ruộng đất không đi phát động được nhưng mà cũng được hỏi ý kiến hoài.
Còn một chuyện nữa rất lạ là cha em bị qui vô cường hào gian ác, tại hồi xưa có làm hương kiểm mấy tháng, sau làm chủ tịch đôi khi cũng nổi nóng quát nạt dân. Họ xoay trở cách sao mà các chỗ sai lầm Quĩ tổng động viên hay là Nông đoàn thất bại cũng tại cha em hết. Việc này Tám Doãn hỏi dò người quen chớ chưa ra công khai, cha em cũng chưa biết, trên đoàn dưới đội bàn tính để đấu phủ Đỉnh xong rồi mới qua Mười Áng với cha em, không làm vậy thì nông dân mất khí thế, phải chi đấu thằng Tây La-phạt với lão bợm ghiền Xâm Tô thì nhứt rồi. Linh Trung có nhà Phó Hửng, địa chủ phá sản lâu rồi nhưng đem truy tội cũ cũng được. Họ đang sốt ruột vì Linh Hạ Linh Sơn chưa tìm ra địa.
Em bây giờ lại hóa thảnh thơi, lo ruộng rẫy với phụ may cho chị Thùy. Có lệnh thu hết súng, cha lại nộp cây ba nòng không đạn, còn em thì thà chết không rời võ khí, đừng gây sự với con Năm Nhím mà dại! Có tin đích xác thằng Bảy Bòng về tề đi buôn, đã bị bắt vô lính ngụy rồi, tránh né đâu thoát. Mà cũng tại chuyện đó họ mới ghép thêm tội cho cha, Ba Mít nói cha thông đồng cho nó trốn, còn nói chị Thùy cho nó về Trà Kiệu bắt liên lạc với họ hàng xứ đạo. Sao thằng đó nó trả thù quá quắt vậy hè?
Hai đứa nhỏ chơi luôn, ít bệnh như năm ngoái. Nghĩ mà khiếp, hễ đói là sanh chứng bệnh, lo chạy ăn tới phát đau ốm. Hồi đó nhà phủ Đỉnh phát tài to lắm, dân đói đem tới cái nồi đồng thì vợ lão đong cho đúng một nồi gạo, đổi lấy cái nồi, đồ thiệt mới mụ trả thêm vài lon nữa. Mụ chết cách đây vài tháng, chòm xóm nói là trời có mắt. Em đoán trước sau phủ Đỉnh cũng trốn thôi, mà đám du kích cứ kêu trốn không lọt, ít ngó chừng lắm, em bị ngưng công tác thành thử đốc thúc tụi nó không tiện. Nam nữ thanh niên, du kích, anh em Cao Thắng vẫn mật thiết với nhà mình lắm anh à, họ nói tức cười là hồi trước ông Ba Mậu về đưa Ba Mít lên ngai vàng, ổng đi chưa lâu thì vua Hùng Minh rớt cái chủm, chạy lưu vong. Bây giờ bộ sậu lớ ngớ mới lên thua tài mánh lới rất xa, chắc đội rút là họ lạy dài xin thôi việc. Ngay anh Tám Lự làm đội trưởng ban giảm tô cũng đến gặp Tám Doãn với em nói thiết cốt là bị đội tới bắt rễ xâu chuỗi rồi bắt nhận việc, cãi không được. Anh Tám với em khuyên chung cả Ban là cứ rán làm, cốt sao đánh bại được phủ Đỉnh với số địa khác, giảm tô tức được khá khá là có công với đồng bào rồi, hễ làm tốt thì lứa tụi tôi góp sức ủng hộ chớ không ganh ghét gì đâu. Còn sau này ai làm ai nghỉ là do Đảng bộ với nhơn dân bầu lên, quan nhứt thời chớ dân vạn đại. Nghe vây họ cũng yên bụng.
Nghĩ cũng thiệt lạ chớ anh. Ông này về hô hào là trắng, ai không nói trắng thì trị. Khi nát việc thì ông trước trốn biệt, ông sau về hò hét là đen, ai không chịu đen cũng bị trấn áp. Rồi tiếp ông nói xanh, ông nói đỏ, mà lỡ có ai khui chuyện cũ ra hỏi thử có kiểm thảo rút kinh nghiệm không thì ông nào cũng gạt bay luôn: thôi cho qua, cho qua, để bàn chủ trương mới, giữa hồi đánh giặc máu đổ thịt rớt ta chớ nên bươi móc nhau. Cái kiểu đánh trống bỏ dùi đó còn kéo dài bao lâu? Nghe nói bộ đội các anh bây giờ nghiêm lắm, đánh xong trận là bình công, bình tội, bình chỉ huy, bình thương vong, đủ thứ, có vậy mới tiến lên được chớ. Làm như xã nầy thì sa lầy tới trăm năm thôi anh à...
Năm Bưởi nhận được mấy thư chồng có chỗ bị kiểm duyệt gạch đen kịt nên thường viết thư ngắn và chung chung. Có lẽ lần này Bưởi gửi tay cho đồng chí cùng đơn vị với chồng nên viết rất dài và nói thẳng.
Nhét thư vào túi, Năm Chò còn đứng ngẩn ngơ một lúc chỗ đầu nhà, mưa to tạt ướt quần không hay. Nên đưa thư cho Cam đọc không nhỉ? Nên về tận nơi xem sự thật ra sao? Một số cán bộ về quê gặp lúc phát động đã chen vào góp ý, dằng co cãi lí, bị đội và đoàn gửi thư đến đơn vị nói là phản ứng giai cấp, đề nghị kỷ luật. Số ấy chưa nhiều vì diện phát động còn hẹp, nhưng cấp trên đã nhắc coi chừng.
Anh tìm cậu đại đội phó hỏi thêm, nhưng cậu này chỉ tạt qua đưa thư anh cho Bưởi, vào luôn xưởng Cao Thắng, vài hôm sau chỉ ghé qua một lát để nhận thư và quà của Bưởi, không biết trong làng có chuyện gì. Năm Chò nghĩ cáu kỉnh: “Mình lo suy tính bộc phá với đặc công, đằng sau lưng mấy chả quấy đảo tùm lum, ớn quá!”.
Anh không đưa thư cho Cam đọc, định để một người nhức đầu là đủ rồi. Anh xin được cho Cam dự lớp huấn luyện đặc công, bởi các chỉ huy đánh công kiên phải hiểu chiến thuật kỹ thuật của nhau mới phối hợp tốt được.
Đang học nửa chừng, Cam được Ban chính trị trung đoàn gọi lên hỏi về thành phần và liên quan gia đình. Lâu nay Cam vẫn tự khai trong lý lịch: cha là công nhân tự do (thợ rèn), bản thân là học sinh (phụ thuộc). Hai cán bộ già trong Ban chính trị nói xa xôi đến tội khai man lý lịch, nói dần đến ý kiến địa phương xếp ông Tư Chua vào loại cường hào gian ác, đối tượng đấu tranh của nông dân, còn Cam có thể được chiếu cố xếp vào tiểu tư sản vì xa nhà lâu. Đã học sinh thì ắt phải là tiểu tư sản, chứ học sinh không phải là tầng lớp hay giai cấp. Quân nhân cánh mạng cũng không được, ở bộ đội cả đời đi nữa bàn cố vẫn là bần cố, phú địa cứ là phú địa. Vả lại Đảng ta không có thành kiến giai cấp, biết rõ thành phần để giáo dục sắp xếp cho thích hợp thôi, chẳng ai tự chọn muốn sinh ra trong gia đình nào... Cam bối rối, nghĩ mãi rồi đề nghị cấp trên cứ quyết định sửa lý lịch cho mình, chứ Cam không biết rõ để tự sửa. Cò cưa lâu, sau đó chia tay lạnh nhạt.
Mấy hôm sau, trung đoàn thông báo nội bộ cho phép một số cấp ủy viên được rút ra khỏi cấp ủy để thuận tiện cho sự tu dưỡng, trong đó đồng chí Phan Cam được ra khỏi chi ủy đại đội, người thay thế là một tiểu đội trưởng bần nông trong trung đội. Cậu này tốt, đánh khá, chỉ có cái lạ là hoàn toàn không biết làm ruộng và rất sợ đỉa, mỗi khi đơn vị giúp dân cày cấy thường giao cho cậu nấu ăn, cậu lớn lên trong nhà ông bác bán cơm gánh, cơm quán, tập nấu khéo.
Đến đây Cam mới được đọc lá thư dài của chị Năm Bưởi. Cam bực mình mấy hôm, lại nghĩ: “Chào ôi, chẳng chết ai! Mình đi đánh giặc là thân trai đền nợ nước, tới hoàn toàn độc lập thì mỗi đứa còn sống tự kiếm nghề làm ăn chớ đâu có đi lính cả đời”. Cam nghĩ thôi, không ngỏ với ai, ngại bị chụp thêm cái “tư tưởng hòa bình hưởng lạc”.
Nửa tháng sau trung đoàn ra quân, lao vào con xoáy của chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, trong đó những băn khoăn của Năm Chò và Sáu Cam rơi rụng lúc nào chẳng biết. Thảng hoặc có nhớ lại cũng chỉ chép miệng: “Xong thằng Tây đã rồi tính”.