Chương 14
Thứ Năm, ngày 27 tháng Mười một, Horinouchi báo cáo kết quả của đợt profiling đầu tiên.
A nằm trong tầm tuổi 20 đến 35. Có khả năng thuộc dạng béo phì. Độc thân, sống một mình trong thành phố. Không có quan hệ với gia đình…
A là người thích sống cô lập. Hạn chế qua lại với người khác, không thích phô bày cảm xúc…
Chỉ số thông minh rất cao, thành tích học tập thời cấp ba có thể thuộc dạng được khen thưởng. Là người thích ở nhà chứ không hay ra ngoài…
Xu hướng tâm lý: thuộc dạng tự luyến, mắc chứng tâm thần phân liệt (có thể mới giai đoạn đầu), gặp chướng ngại về nhân cách phân lập. Khả năng cao hay ảo giác, ảo thanh và mắc chứng hoang tưởng…
“Thế này thì tự tôi viết cũng được,” Muraki đập bản báo cáo lên bàn. “Chẳng có ích gì cả.”
8 giờ tối.
Đã lâu lắm rồi Tổ Hình sự mới lại có mặt đông đủ thế này.
Sau khi xem qua bản báo cáo Horinouchi phát cho, ai cũng lớn tiếng ý kiến ý cò.
“Đúng rồi,” Matsumoto nghiêng đầu vẻ khó hiểu, “Nghe đến phân tích tâm lý, tôi cứ nghĩ kết quả phải cho ra thứ gì đó mới mẻ hơn cơ, ai dè lại mơ hồ thế.”
“Anh ta nghĩ Tokyo có bao nhiêu đàn ông sống độc thân ở độ tuổi này chứ?” Muraki tiếp tục càu nhàu. “Định bắt chúng ta đi hỏi cung từng người thuộc lứa tuổi ấy à?”
“Mà… chướng ngại nhân cách phân lập nghĩa là gì?” Shimokawa hỏi.
“Đa nhân cách ấy,” Muraki giải thích. “Nói cách khác là trong một người tồn tại nhiều nhân cách khác nhau.”
“Thế thì sao không viết dễ hiểu hơn đi?” Shimokawa lẩm bẩm. “Sao chuyên gia nào cũng thích dùng nhiều từ khó thế?”
“Viết dễ người ta không mua thì sao?” Muraki cười mỉa, với lấy tách cà phê nhạt của mình.
“Chướng ngại nhân cách phân lập à? Dạo gần đây nổi lên nhiều bệnh tâm lý nhỉ?” Matsumoto châm điếu thuốc rồi rít một hơi dài, “Chứng nghiện pachinko, chứng nghiện mua sắm, rốt cuộc những căn bệnh ấy ở đâu ra?”
“Ở chỗ lũ thầy thuốc á! Toàn là họ bịa đặt cả!” Shimokawa đáp. “Chắc âm mưu mồi chài bệnh nhân mới ấy mà.”
“Ôi, không đơn giản thế đâu,” Muraki xen vào, “Những người mắc bệnh ấy, họ thực sự không thể làm chủ hành vi của bản thân được. Họ không cưỡng nổi nỗi thôi thúc chơi pachinko hoặc đi mua sắm. Vậy nên mới thành bệnh.”
“Thì hồi xưa người ta cũng hay gọi mấy đứa thích tiêu hoang là con bạc mà,” Matsumoto bật cười.
“Bạn gái người quen em cũng mắc chứng nghiện mua sắm đấy…”
Shindo đứng bên cửa sổ cũng tính xen vào cuộc trò chuyện, nhưng Muraki đã cắt ngang.
“Tật tiêu hoang nằm sẵn trong tính người rồi nên cần gì phải chữa, nhưng chứng nghiện mua sắm là một căn bệnh nên cần chữa. Bản thân người mắc chứng ấy dù cảm thấy đau khổ cỡ nào cũng không thể dừng lại nên đấy rõ ràng là bệnh rồi. Giống như thích chè chén và mắc chứng nghiện rượu là hai khái niệm khác nhau vậy.”
“Tôi thì chẳng thích thú gì việc tự dưng lại lòi ra vụ tâm lý mình bị bệnh,” Matsumoto nói với giọng điềm nhiên, “Nói thế thì ai trong chúng ta mà chả mắc bệnh, đúng không?”
Isobe nhớ lại lời của thanh tra Ueda.
Rốt cuộc như thế nào mới gọi là “bình thường”?
Ai cũng muốn thấu hiểu. Không ai muốn nghĩ rằng có kẻ nào đó sẵn sàng giết người chẳng vì lý do gì.
“Đúng là có nhiều chứng bệnh quá thì cũng đáng ghét thật,” Muraki tỏ vẻ đồng tình với ý kiến của Matsumoto, “Chứng tăng động của lũ trẻ con, chúng trở ngại về mặt tính cách của lũ người xấu, chứng trở ngại về mặt hành vi của lũ thiếu niên bất hảo. Tất cả các chứng bệnh ấy đều là bệnh thần kinh loại nhẹ.”
“Mấy tay chuyên gia toàn thích dùng từ khó,” Shimokawa vẫn khăng khăng giữ nguyên ý kiến của mình.
“Từ xưa đã có những học sinh tiểu học không thể tập trung nghe giảng, hay đứng dậy bất chợt, làm chuyện riêng trong giờ học,” Muraki tiếp. “Ngày xưa, người ta đã nghĩ những đứa trẻ ấy cần dạy dỗ nghiêm khắc. Nhưng giờ thì lũ trẻ ấy sẽ được nhận tư vấn y tế, cho thuốc Ritalin chữa bệnh.”
“Ritalin là gì thế?” Shimokawa hỏi.
“Thuốc trầm cảm đấy. Là loại thuốc giúp giải phóng dopamine trong não bộ,” Muraki cười mỉm chi, “Công bằng mà nói, nó cũng là một loại thuốc kích thích có công dụng gần như tức thời.”
“Uống thứ đó vào thì học sinh dễ phân tâm có thể tập trung trong giờ học á?” Shimokawa kinh ngạc lắc đầu, “Thế có khác gì uống thuốc kích thích để máu dồn lên não rồi thức trắng đêm làm việc đâu?”
“Đúng. Nếu có thể kiểm soát các hợp chất bên trong não bộ thì tất cả mọi chuyện đều ổn thỏa hết. Toàn bộ hành động của chúng ta đều bị chi phối bởi các hợp chất vĩ đại trong não bộ đây!” Muraki dang rộng hai tay, giọng điệu nghe như một nhà tiên tri.
“Nhân tiện, người ta bảo ngành dược sắp cho ra đời loại thuốc chống phá phách, một sản phẩm mang tính bước ngoặt trong việc điều trị chứng trở ngại hành vi. Chỉ cần mỗi ngày uống một viên thì sẽ cải thiện được những tác phong như để tóc chôm chôm, đi dép xỏ ngón hoặc ngồi xổm.”
“Thời đại này làm gì còn mấy đứa côn đồ ngây thơ như thế,” Shindo vừa cười vừa nói.
Isobe cũng nghĩ thế. Lũ thiếu niên bất hảo thời nay trông vẻ ngoài cũng bình thường thôi, nhưng hành vi thì độc ác bội phần. Thay vì ăn cắp thì cướp của, thay vì hút hít thì tiêm chích, thay vì tán tỉnh quấy rối thì cầm thanh sắt đe dọa cưỡng hiếp, thay vì một chọi một thì kéo cả băng đảng thanh toán lẫn nhau.
Và phần lớn các vụ án mà thủ phạm là thanh thiếu niên thì đều gây ra thương vong.
So với lũ côn đồ bặm trợn ngổ ngáo, đám thiếu niên đồng phục chỉn chu nhưng trong túi áo lại giấu con dao còn đáng sợ hơn vạn lần. Đây là suy nghĩ thật lòng của Isobe với tư cách cảnh sát hình sự. Lũ côn đồ có khi còn biết hối cải, còn đám thiếu niên chẳng ai biết bọn chúng có thực sự hối lỗi hay không.
“Thuốc chống phá phách hẳn sẽ được đám thiếu niên bất hảo hoan nghênh lắm.” Muraki phớt lờ ý kiến của Shindo, tiếp tục dự báo. “Có lẽ đó sẽ là loại thuốc kích thích như thuốc chống trầm cảm nhỉ? Lũ côn đồ sẽ tự mình đến phòng khám tâm lý để nhận thuốc. Sau đó nuốt ực viên thuốc vào bụng, đầu óc lập tức lên mây.”
“Loại thuốc như vậy thì tôi cật lực phản đối,” Shimokawa lên tiếng. “Có nó rồi lũ quậy phá sẽ ngày càng tăng lên, không ai kham nổi đâu.”
Isobe vừa chăm chú đọc bản báo cáo của Horinouchi, vừa lắng tai nghe cuộc chuyện phiếm của mọi người trong phòng.
Thấy vậy, Shimokawa cười trêu, “Ê thằng lỏi, cuộc tản bộ của cậu xem chừng chẳng được nước non gì nhỉ?”
“Anh thôi gọi em là thằng này thằng nọ đi,” Isobe hơi cáu, “Đây mới là bản báo cáo đầu tiên thôi. Thông tin còn chưa đầy đủ. Nếu có nhiều thông tin hơn, bài phân tích nhất định sẽ chi tiết…”
Đúng lúc ấy, bên ngoài chợt lóe lên một vầng sáng, tiếng sét rền vang cắt ngang lời Isobe. Mọi người cùng đổ dồn mắt ra cửa sổ.
“Xem chừng mưa đến nơi rồi,” Shindo nhòm ra ngoài cửa sổ. “Thế này thì sao mà về được.”
Đúng như Shindo nói.
Chẳng mấy chốc, mưa rào rào trút xuống như xiên bạc qua vầng sáng của các cột đèn trên đường Meguro. Tiếng mưa đập xuống mặt đường nhựa, tiếng lốp xe kin kít qua làn nước, tiếng sét đánh xa gần, tất cả phối với nhau tạo nên một bản hòa âm. Vị đặc trưng của cơn mưa lan khắp khu phố.
“Cậu bảo thông tin vẫn chưa đầy đủ à? Là bản phân tích này không bao gồm các thông tin ấy thì có.”
Muraki nói. Isobe giật mình vì sấm nên mãi mới nhận ra câu công kích đang chĩa về phía mình.
“Phân tích không gồm á?” Isobe hỏi lại.
“Nói cho chính xác thì bản phân tích của chánh thanh tra Horinouchi đã bỏ qua điểm mấu chốt.”
“Điểm mấu chốt?”
“Đúng vậy.” Muraki đáp, đoạn cầm cây kéo trên bàn giơ cho Isobe xem. “Chính là cây kéo này. Cây kéo mà cậu đã phát hiện ra. Anh ta đâu có phân tích xem tại sao ở hiện trường lại có đến hai cây kéo.”
“Nhỡ do hung thủ đánh rơi thì sao,” Isobe lập tức đáp trả.
“Cũng có lý,” Muraki hết đóng rồi mở kéo, “Ta có thể suy đoán như thế nếu hung thủ vô tình làm rơi cây kéo ở gần thi thể nạn nhân hoặc trên bãi cỏ công viên. Nhưng cây kéo này được phát hiện ở đâu? Cậu là người tìm thấy nó mà?”
Đúng vậy, người tìm ra nó là Isobe nên cậu còn nhớ rất rõ. Cây kéo nằm trong bụi rậm, ở khá xa thi thể nạn nhân.
“Cây kéo nằm trong bụi cây.”
Muraki chĩa mũi kéo xuống dưới, “Hơn thế nữa, mũi kéo lại nằm trong tư thế cắm xuống mặt đất. Trông như bị ném vào bụi rậm từ một khoảng cách khá xa thi thể vậy.”
“Thì hung thủ vứt nó đi sau khi sát hại nạn nhân?” Isobe chỉ ra.
“Vứt nó đi? Thế nghĩa là hung thủ vốn định dùng cả hai cây kéo ư? Hắn siết cổ nạn nhân rồi dùng một cây kéo đâm vào cổ họng. Đến đấy đã đủ rồi. Tại sao lúc sau hắn phải ném một cây kéo đi? Nếu đã không dùng đến thì chỉ việc mang nó về thôi mà. Như chánh thanh tra Horinouchi đã nói, Người kéo là một nhân vật cẩn trọng và lề thói. Hà cớ gì hắn phải tạo thêm vật chứng ở hiện trường chứ?”
“Nhưng hắn cũng điên mà,” Shimokawa nhún vai, “Hành động trước sau bất nhất có gì là lạ.”
“Cũng là một khả năng,” Muraki gật đầu, “Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là hắn điên như thế nào. Một con quỷ giết người dù khùng điên đến đâu đi nữa thì hành động vẫn có tính nhất quán. Những hành vi mà chúng ta nghĩ là bất bình thường, đối với hắn lại vô cùng hợp lý. Hành động của lũ điên cũng có lý lẽ của riêng nó… Mặc dù lý lẽ ấy có hơi rồ dại.”
Muraki đóng xạch cây kéo lại.
“Tôi nghĩ bản thân chánh thanh tra Horinouchi cũng đồng tình với điều này. Nếu không thì ba cái trò phân tích tâm lý còn có ích gì nữa. Hành vi của Người kéo đương nhiên có tính nhất quán, điều đó sẽ không dễ dàng bị phá vỡ chi vì một cây kéo được. Tôi không thể không chú ý đến điểm ấy.”
“Thế cậu giải thích thế nào, Muraki? Về cây kéo còn lại?” Thanh tra Ueda nãy giờ im lặng cũng phải lên tiếng.
“Tôi vẫn chưa giải thích được. Không thể đưa ra bất kì lời giải thích nào cả,” Muraki lộ vẻ lúng túng, “Vậy nên tôi đã rất kì vọng vào kết quả phân tích của chánh thanh tra Horinouchi. Tôi cứ nghĩ anh ta sẽ phát hiện ra điểm mấu chốt gì đó trong bản báo cáo, nhưng hóa ra ở đây lại chẳng có phân tích nào cả. Thế nên tôi mới muốn càm ràm anh ta.”
“Chánh thanh tra cũng để ý đến cây kéo thứ hai lắm,” Matsumoto lặng lẽ lên tiếng. “Lúc tôi đến báo cáo về nạn nhân, anh ta đã nói vậy mà. Nghe giọng hết sức quan tâm.”
“Anh ta cũng để ý đến à?” Muraki đưa tay lên vuốt miệng, vẻ suy tư. “Rồi, để tôi trực tiếp hỏi ý kiến anh ta xem sao. Ê Isobe, chánh thanh tra Horinouchi đang ở phòng họp nhỏ đúng không?”
Muraki đứng dậy để lập tức đi đến văn phòng tạm thời của Horinouchi. Isobe gọi giật.
“Anh ấy về rồi.”
“Về rồi là sao?” Muraki ngoái lại nhìn Isobe, cất tiếng hỏi với vẻ ngạc nhiên.
“Chánh thanh tra đi làm theo giờ hành chính à?” Shimokawa cười khùng khục, “Có vẻ thư nhàn quá nhỉ.”
“Anh ấy ở lại văn phòng để viết báo cáo nguyên đêm hôm qua đấy.”
Isobe lên tiếng bảo vệ danh dự cho Horinouchi.
Sáng nay, lúc gặp Horinouchi ở văn phòng, Isobe đã không khỏi ngạc nhiên trước khuôn mặt râu ria lỉa chỉa của viên chánh thanh tra thường ngày vốn ăn vận bảnh bao.
“Lâu lắm rồi tôi mới thức thâu đêm.”
Anh nhìn Isobe bằng cặp mắt đỏ ngầu và nụ cười nhuốm vẻ mỏi mệt.
Chiếc máy in màu trên bàn liên tục phát ra tiếng rì rì trong lúc nhả từng trang báo cáo.
Horinouchi đưa báo cáo cho Isobe, nhờ cậu chuyển đến tay mọi người trong Tổ Hình sự.
“Xin lỗi cậu, hôm nay tôi phải về sớm. Cũng đến tuổi rồi, không đi ngủ thì không xong.”
“Thế anh ta về lúc nào?” Muraki hỏi.
“Vì anh ấy còn phải về Sở báo cáo trực tiếp với trưởng phòng Phòng 1, nên chắc là tầm 2 giờ chiều,” Isobe đáp.
“Thế tức là nãy giờ ngủ bốn tiếng rồi chứ gì,” Muraki tỏ vẻ quả quyết, “Cậu, gọi vào máy chánh thanh tra cho tôi.”
“Thật á, anh bảo em gọi điện cho anh ấy sao?”
Isobe hỏi với vẻ e dè. Cậu không biết Muraki sẽ nói chuyện gì.
“Đọc xong bản báo cáo của chánh thanh tra mà phát hiện ra điểm nghi vấn to tướng như thế thì dĩ nhiên phải gọi hỏi chứ.” Muraki nói, khẳng khái y như thể đây là nghĩa vụ rất ư chính đáng của một cán bộ điều tra. “Yên chí. Cậu chỉ việc gọi thôi, hỏi để tôi lo.”
Isobe thở dài. Giờ có can ngăn cản trở gì cũng vô ích.
Cậu lấy tờ giấy nhớ Horinouchi dúi cho rồi bấm số. Lòng thầm cầu nguyện điện thoại của anh đã tắt nguồn rồi.
Thế nhưng đầu dây bên kia lại vang lên giọng nói ngái ngủ của Horinouchi.
“Alô?”
Chắc là đang ngủ ngon lắm đây. Giọng Horinouchi nghe đầy chán chường.
Vì quá sợ sệt, giọng Isobe nhỏ lại.
“Xin lỗi vì đã quấy rầy lúc anh nghỉ ngơi. Tôi Isobe đây ạ…”
“Cậu Isobe hả? Sao thế? Có chuyện gì xảy ra à?”
“Thật ra thì… ừm…”
Isobe cứng họng vì chẳng biết mình nên nói tiếp thế nào.
Đúng lúc ấy, Muraki liền giật phăng ống nghe khỏi tay Isobe.
“Chào buổi sáng, thưa chánh thanh tra. Tôi là điều tra viên Muraki của Phòng Cảnh sát Tây Meguro đây ạ.”
Muraki đứng đó mà nói oang oang vào ống nghe. Isobe cảm thấy ngán ngẩm, có cần phải chào hỏi mỉa mai như thế không.
“Thật ra ấy, chẳng qua do tôi có chuyện muốn hỏi, liên quan đến bản báo cáo hôm nay của chánh thanh tra… Ừm, về một điểm mấu chốt ạ. Vậy nên tôi mới không thế đợi đến ngày mai… Dĩ nhiên rồi. Đấy là điểm rất quan trọng. Nếu không vì thế tôi sẽ không mạo muội gọi chánh thanh tra trong lúc anh nghỉ ngơi đâu…”
Horinouchi đã nghĩ đến “điểm mấu chốt” ấy chưa? Isobe cảm thấy lo lắng.
Muraki chẳng buồn quan tâm xem ai yêu hay ghét mình, nhưng Isobe thì không muốn vạ lây.
“… vâng, tôi hiểu rồi ạ. Dạ, điểm mấu chốt ấy chính là cây kéo thứ hai do Isobe phát hiện ra ấy… Trong bản báo cáo của chánh thanh tra không có bất kì đoạn phân tích nào về sự xuất hiện thêm một cây kéo ở hiện trường. Cá nhân tôi thì vô cùng thắc mắc về cây kéo thứ hai… Sao ạ? Suy nghĩ của tôi á? Thì tôi cũng đang có một giả thuyết… Vâng? Dạ vâng, dạ, tôi hiểu rồi…”
Muraki tắt điện thoại rồi đưa cho Isobe.
“Anh ấy không cáu chứ?”
Isobe hỏi với vẻ lo âu. Muraki nghiêng đầu nhìn cậu.
“Anh ta muốn nói chuyện trực tiếp nên bảo chúng ta chờ ở văn phòng.”
“Giữa cơn mưa thế này mà anh ta muốn đến đây á?” Shimokawa ngó ra ngoài cửa sổ, “Nghiêm túc hả?”
“Thế nghĩa là chánh thanh tra cũng quan tâm đến cây kéo thứ hai lắm nhỉ,” Matsumoto gí đầu thuốc vào gạt tàn.
Đúng như Matsumoto nói, Isobe và Muraki đợi ở phòng họp nhỏ khoảng ba mươi phút thì Horinouchi xuất hiện.
Chiếc áo choàng cổ lông ướt đẫm hai vai, từ vạt quần trở xuống nước mưa nhỏ từng giọt.
“Anh ướt hết rồi kìa.”
Muraki trợn tròn mắt. Trước bộ dạng lếch thếch này của Horinouchi, chẳng biết anh có đang tự trách vì đã gọi cuộc điện ban nãy không.
“Mưa to quá. Tôi cứ nghĩ mình sẽ cóng chết ấy chứ.” Horinouchi bật cười, treo áo khoác lên tường rồi ngồi xuống ghế. “Rồi, cậu hãy nói tôi nghe giả thuyết của cậu về cây kéo thứ hai đi nào.”
Nghe giục, Muraki bắt đầu trình bày, rằng việc vứt bỏ cây kéo không thể là hành vi cố tình để lại vật chứng của Người kéo được.
“Chánh thanh tra nghĩ thế nào?” Anh gặng hỏi.
“Cơ bản thì tôi đồng tình với suy nghĩ của cậu,” Horinouchi đáp. “Quả đúng là hành vi để thêm một cây kéo ở hiện trường không giống với tác phong chỉn chu của hắn. Bản thân tôi chưa thể đưa ra bất kì phân tích nào hợp lý, nên tôi mới cho rằng không đề cập đến nó trong bản báo cáo là điều đúng đắn. Thật ra tôi cứ tưởng các cậu có thể giải thích điểm ấy cho tôi hiểu kia.”
Horinouchi nói như thể thất vọng vì Muraki chưa giải đáp được bí ẩn về cây kéo thứ hai vậy. Nhưng anh mau chóng mỉm cười vẻ đấu dịu.
“Già thuyết của cậu dĩ nhiên cũng rất thú vị. Chúng ta đang bàn xem liệu cây kéo thứ hai có phải bị bỏ lại hay không nhỉ? Thêm nữa, nếu cây kéo ấy là do hung thủ đánh rơi thì lý ra nó phải nằm trên bãi cỏ bên cạnh nạn nhân chứ…” Horinouchi đột nhiên im lặng, vẻ mặt đăm chiêu. “Cây kéo thứ hai. Chúng ta luôn gọi nó là ‘cây kéo thứ hai’. Ai cũng nghĩ rằng cây kéo cắm vào cổ họng nạn nhân là cây kéo đầu tiên, còn cây kéo phát hiện là cây thứ hai. Thứ tự nên là như thế, đúng không?”
Anh hết nhìn Muraki lại nhìn đến Isobe.
“Vì Isobe phát hiện ra cây kéo đó sau khi thi thể được tìm thấy, nên trong vô thức chúng ta mới nghĩ cây kéo ấy là cây thứ hai có mặt ở hiện trường. Nhưng mọi chuyện không hẳn như thế. Có khi nào cây kéo tìm thấy trong bụi rậm mới là cây đầu tiên, còn cây cắm ở cổ họng nạn nhân là cây thứ hai không?”
“Thứ tự thì liên quan gì?” Muraki tỏ vẻ khó hiểu, “Chẳng phải câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Người kéo lại không mang cây kéo về sao?”
“Không, cậu thử nghĩ theo hướng này đi,” Horinouchi nhìn hẳn vào mặt Muraki, “Trong lúc đứng mai phục nạn nhân ở công viên, Người kéo vô tình làm rơi cây kéo. Bấy giờ hắn không để ý, chỉ sau khi siết chết nạn nhân và rời khỏi hiện trường hắn mới nhận ra. Là một kẻ vừa thận trọng lại vừa nề nếp, hắn sẽ cảm thấy bứt rứt trong lòng nếu vô tình để lại dấu vết ở hiện trường. Thế là hắn trở lại nơi gây án để nhặt cây kéo lên. Chỉ có điều… về sau đã xảy ra tình huống buộc hắn phải vứt cây kéo vào bụi rậm.”
“Vậy sao?” Muraki xem chừng đã ngộ ra điều gì đấy. “Có khi nào hắn muốn cảnh sát nghĩ rằng đó là đồ của người khác đánh rơi không?”
“Đồ của người khác đánh rơi?” Isobe không hiểu chiều hướng thảo luận này cho lắm. “Sao hắn lại muốn cảnh sát nghĩ rằng đó là đồ của người khác đánh rơi?”
Isobe nghiêng đầu. Người giải đáp thắc mắc của cậu là Horinouchi.
“Tôi thấy lạ là cậu lại không hiểu đấy. Người đầu tiên để ý thấy nó là cậu kia mà. Tại sao Người kéo lại không mang cây kéo về? Đó là vì lúc ở công viên, hắn đã bị ai đấy nhìn thấy nên không thể mang cây kéo về nhà được nữa, đành phải vứt đi. Còn hắn thì cứ thế ở lại công viên…”
Nói đến đây, Horinouchi nở một nụ cười.
“Với tư cách là nhân chứng phát hiện ra thi thể.”