Chương 17
Trò chơi thám tử đã kết thúc rồi.
Lúc rời khỏi quán donut trước ga Musashiko Sugi, tôi đã tự nhủ như thế.
Hôm nay vì là thứ Bảy nên tôi vốn định ghé hiệu thuốc mua thuốc giảm đau. Đến cả tên loại thuốc và lượng tá dược gây chết người tôi cũng đã tìm hiểu trước. Giá thành khoảng hơn 10 nghìn yên. Mua thuốc tự tử tốn tiền lắm. Hôm qua tôi còn phải đi rút tiền mà.
Lần này chắc là mọi chuyện sẽ ổn thôi. Hi vọng tôi có thể chết trong yên ổn.
Ngộ nhỡ lần tự sát này thất bại, và Bác sĩ lại xuất hiện bắt tôi phải tiếp tục điều tra đi nữa, tôi cũng đã hạ quyết tâm sẽ từ chối thẳng thừng. Tôi đã chán đến phát ốm cái cảnh chuyện trò với lũ người suốt ngày chỉ toàn nói chuyện tình cảm yêu đương.
Vả lại, Bác sĩ tuy luôn lắm điều, thế mà lại chẳng bao giờ ra tay giúp đỡ tôi điều tra. Mối liên hệ mỏng manh mà tôi hi vọng sẽ dẫn mình đến với hung thủ thực sự đã bị Iwasa cắt mất.
Thêm vào đó, sẽ rất mạo hiểm nếu tìm gặp Ayako thêm lần nữa. Có khi cô bé đã gọi lên phòng Biên tập tờ Chuyện hậu trường và phát hiện không hề có bất kì phóng viên nào đang săn tin về mình rồi cũng nên.
Vì thế tôi cũng không thể truy ra những người đàn ông đã từng qua lại với Yukiko được nữa. Không phải tôi không muốn, mà do nó bất khả thi.
Nếu được thì tôi rất muốn tránh mặt Bác sĩ, nhưng lỡ giáp mặt nhau thì tôi sẽ nói với lão như thế vậy.
Tôi đến ga Musashiko Sugi, lên tàu đi Shibuya.
Tôi sẽ không còn cơ hội nào đi tàu điện ngầm nữa. Nếu may mắn đêm nay là đêm tôi chết thì đừng nói chuyến tàu điện ngầm này, mà các chuyến khác cũng sẽ không bao giờ có mặt tôi trên đó nữa.
Ngộ nhỡ xui xẻo phải sống tiếp thì tôi cũng chẳng có hứng thú lui đến nơi chốn từng mang dấu tích Yukiko.
Song, còn có chuyện khiến tôi lưu luyến.
Tôi xuống tàu ở ga Đại học Gakugei. Trước khi nói lời giã biệt với tuyến tàu quen thuộc, tôi muốn ăn món bánh thịt ở quán Ofurando một lần cuối.
“Chào mừng quý khách.”
Chuông cửa kêu lên trong trẻo, chủ quán tươi cười đón tôi vào.
Vì không cần để mắt đến cửa soát vé nữa nên tôi chọn ngồi ở ngay quầy bếp. Tôi có thể nhìn thấy những đường vân gỗ ánh lên sáng bóng, xem ra ngày nào quầy cũng được lau chùi.
Quầy bếp bên trong, chạn bát nơi để chén đĩa và ly tách, những chiếc bàn bốn cạnh và những chiếc ghế đều mang cùng một màu gỗ. Tường và sàn nhà trông như cũng làm bằng gỗ, nhưng vì quán ăn nằm bên trong một tòa nhà phức hợp xây bằng bê tông cốt thép nên hẳn là chủ quán đã phải mua ván ép về đóng.
Trên trần treo những chiếc đèn chạy gas có chao đèn bằng kính màu, tranh chép dán đó đây để trang trí cho tường. Tôi vốn mù hội họa nên không thể nhận ra là tranh của ai.
Tôi nhòm một bức tranh đằng xa, vẽ một cô gái đang nằm trên núi tuyết với tông màu trắng muốt như băng gạc. Hai mắt cô nhắm nghiền, chẳng biết đang ngủ hay đã chết. Tranh vẽ người gặp nạn trên núi hả? Sao cô gái lại ăn mặc hở hang đến thế?
Quán chẳng có khách nào ngoài tôi.
“Lâu lắm rồi đấy nhỉ.” Chủ quán tươi cười rót nước vào chiếc cốc trước mặt tôi.
Lần gần nhất tôi đến quán này là hơn hai tuần trước, thế mà chủ quán còn nhớ mặt.
“Trí nhớ bác hay thật đấy. Cháu mới đến đây có ba lần thôi mà.”
Tôi nói pha chút mỉa mai, nhưng người chủ quán có bộ mặt tròn trĩnh này dường như không nhận ra. Ông ta bật cười vui vẻ.
“Đúng rồi. Làm sao tôi quên được vị khách đã khen ngợi món bánh thịt của mình chứ.”
Thôi kệ, tôi nhủ thầm. Dù sao thì mình cũng không đến đây lần nào nữa.
Tôi tỏ vẻ ngưỡng mộ trí nhớ siêu phàm của chủ quán rồi gọi món bánh thịt kèm một tách cà phê.
Ngồi nghe hòa tấu nhạc cụ cổ truyền Nhật do quán bật một lúc, thì món bánh thịt và cà phê được dọn ra. Tuy hơi bất lịch sự, nhưng tôi đã cầm bánh lên bằng tay không để ăn. Món xốt cà chua này đúng là ngon tuyệt cú mèo.
“Cháu thấy sao?” Chủ quán nhìn vào mặt tôi.
“Xốt cà chua ngon lắm ạ”, tôi nói với vẻ xúc động.
“Xốt nhà làm đấy.” chủ quán đón nhận lời bình phẩm với nét mặt tràn đầy tự hào.
Tôi ngốn thêm một mồm đầy bánh. Khóe miệng dính xốt cà chua, tôi liền dùng ngón trỏ quệt đi rồi liếm sạch tay. Lúc ngẩng mặt lên, tôi mới biết chủ quán đang chằm chằm nhìn mình.
“Xin lỗi. Hẳn là bác thấy cháu vô phép lắm.” Tôi rút tờ khăn giấy trên quầy ra lau tay.
“Không không, đừng để ý. Cháu cứ thoải mái ăn đi.” Chủ quán huơ huơ hai tay.
Thoải mái sao được khi bị nhìn chòng chọc thế này? Mà hình như quán cũng ít người lui tới. Trông ông chủ rảnh rỗi thế, chắc vẫn chưa có ý để tôi yên.
“Lúc nào cháu đến cũng thấy quán vắng hoe nhỉ.”
Cà lời mỉa mai lần này, chủ quán cũng không hiểu.
“Ừ, chỗ này bé mà, khu này cũng vắng vẻ nữa. Tôi chỉ ước có nhiều khách quen đến thường xuyên hơn, chứ cũng chẳng mơ đến cảnh khách khứa ra vào tấp nập.” Chủ quán đưa mắt về phía bức tường trang trí bằng tranh vẽ. “Chà, nhưng từ đầu tuần đến giờ thì tình hình tệ hẳn đi.”
“Tệ hẳn đi là sao?”
“Thì khu này không còn an ninh như trước nữa chứ sao. Vụ Người kéo đấy.”
“À, vụ đấy ạ? Cháu cũng có xem qua trên ti vi.”
Tôi tỏ vẻ thông cảm rồi gật đầu lấy lệ. Với tâm trạng hiện giờ, tôi không muốn nghĩ đến Yukiko nữa nên cũng chẳng muốn đào sâu làm gì.
Thế mà ông chủ lại cho rằng Người kéo là chủ đề hay ho để tán gẫu với khách.
“Địa điểm phát hiện thi thể gần khu này lắm. Đi bộ ra cũng được. Nhà của bé nạn nhân cũng quanh đây nên cánh truyền thông báo chí nườm nượp kéo đến, rõ khổ. Ngay sau khi vụ án xảy ra, có tới mấy chiếc trực thăng bay lòng vòng trên đầu, đài nào cũng truyền trực tiếp, rồi lũ phóng viên báo chí đánh hơi kéo tới rầm rộ như quân Nguyên.” Chủ quán nhún vai. “Nhoáng cái mà khu này đông đúc hơn hẳn. Ai cũng xôn xao. Giờ mới yên được một chút.”
“Lúc ấy hẳn là bác phải đông khách lắm nhỉ?”
Hình ảnh ông chủ quán tất bật nướng bánh thịt để phục vụ cho hàng chục phóng viên lăm lăm máy ảnh và sổ sách trên tay khiến tôi muốn bật cười.
Vậy mà ông chủ lại có vẻ không vui cho lắm.
“Tôi không cho lũ người ấy vào. Cái lũ khuấy đục chuyện không may của người khác đấy. Bé Yuki đã tội nghiệp thế rồi.”
Bé Yuki.
Tôi bất giác chững lại, ngẩng lên nhìn mặt chủ quán.
Ông ta vẫn đang dán mắt vào bức tường đầy tranh, vẻ mặt như đang theo đuổi dòng suy tưởng nào đấy. Có thể là đang hồi tưởng lại chuyện của Yukiko.
Đây là một trong những người đàn ông từng có quan hệ với cô bé sao?
“Bé Yuki là ai vậy ạ?” Tôi lặng lẽ hỏi.
“Hả? À, là cái bé Người kéo sát hại đấy. Bé hay đến đây lắm.”
“Có thường xuyên không ạ?”
“Có chứ. Bé cũng khen món bánh thịt ở đây đấy.” Chủ quán nhìn xuống đĩa bánh.
Ra thế! Yukiko hẳn là chỉ có hứng thú với món bánh thịt chứ không phải với bản thân ông chủ quán.
Ông chủ quán đã ngoài năm mươi này giống kiểu đàn ông sẽ cảm thấy xót xa và buồn bã khi bị một đứa con gái tuổi teen dụ dỗ hơn là kiểu người sẵn lòng lên giường với bọn chúng.
“Bé Yuki thích ăn bánh thịt và uống trà thảo mộc.” Chủ quán vẫn tiếp tục hồi tưởng với nét cười hồn hậu trên môi. “Bé ngoan lắm. Rất xinh, nhưng không vì thế mà có thói kiêu kì. Luôn vui vẻ tiếp chuyện một lão già như tôi đây. Giới trẻ thời nay nhiều lúc khiến tôi không hiểu nổi, nhưng bé Yuki lại khác hẳn. Bé trưởng thành hơn tuổi thật của mình nhiều. Chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy bé như con gái mình nữa.”
Ánh mắt chủ quán lóe lên tia giận dữ.
“Vậy mà lại gặp phải chuyện thương tâm.”
Tôi im lặng nhấp cà phê. Yukiko có đến quán Ofurando một mình không? Hay dùng nó làm điểm hò hẹn với những người mà cô bé qua lại nữa?
Tôi quyết định dụ ông chủ nói thêm, “Quán mình trông phù hợp để hẹn hò người yêu mà. Có không khí lắm đấy ạ.”
“Đâu, bé Yuki luôn đến đây một mình thôi. Nó thích ngồi ở quầy lắm.” Chủ quán cười nhẹ.
Nửa thất vọng, nửa nhẹ lòng! Đúng là tôi nên quên vụ làm thám tử đi thì hơn.
“Nhưng… có lần cô bé dắt theo một đứa trông giống bạn trai lắm. Chuyện lâu lâu rồi.”
“Vậy ạ?” Tôi đáp lại với vẻ thờ ơ giả tạo.
Ông chủ thì đã hoàn toàn chìm trong dòng hồi ức nên cứ tiếp tục nói mà không để ý gì.
“Đấy là lần hiếm hoi bé Yuki ra bàn ngồi, nó đi chung với một cậu con trai trạc tuổi.” Chủ quán đưa mắt về phía chiếc bàn trống. “Thằng bé nói chuyện mà mặt mày nghiêm túc lắm, làm tôi còn tưởng nó sắp tỏ tình cơ.”
Nếu là bạn cùng tuổi hẹn gặp Yukiko ra để tỏ tình thì không sao, vì đấy không thể là chủ nhân của chiếc bật lửa có khắc chữ, càng không thể là người đàn ông đã đi cùng cô bé đến quán ăn nhanh.
Nhưng tôi vẫn muốn chủ quán nói tiếp.
“Thế không phải cậu ta đến để tỏ tình ạ?”
“Ừ. Sau bữa đó bé Yuki đến đây một mình tôi có hỏi thử, bạn trai đi cùng cháu hôm trước đâu rồi, trông được đấy. Nghe vậy bé bật cười bảo không phải bạn trai, mà là em trai nó.”
Em trai.
Tarumiya Kenzaburo.
Cậu thiếu niên đã tháo chạy khỏi linh đường hôm tang lễ.
Tôi nhớ lại nét mặt dữ dội của cậu ta lúc chạy vọt qua hàng ghế khách viếng.
“Tôi bảo vậy á, vậy mà bác cứ nghĩ đẩy là bạn trai của Yuki cơ. Bé liền nghiêng đầu đáp, ừm, em trai thì cũng có thể làm bạn trai chứ nhỉ. Tôi có hơi giật mình. Nhưng mà lúc ấy bé Yuki đang cười ranh mãnh lắm, nên tôi nghĩ chắc nó chỉ đang đùa thôi.”
Em trai cũng có thể làm bạn trai.
Ừ nhỉ.
Yukiko có cùng huyết thống với em trai mình đâu.
Kenzaburo. K.
Nhưng dẫu cho thằng lỏi cấp ba ấy có nghiện hút đến đâu đi nữa, nó cũng chưa thể tự mua cho mình một chiếc bật lửa có khắc kí tự tên được.
Tuy nhiên, cũng không thể loại trừ nghi vấn Kenzaburo là thủ phạm.
Nghĩ đến đây, tôi sực nhớ ra một chuyện không hay.
Kazuhiro cũng bắt đầu bằng K. Có khi bật lửa đấy là của Kazuhiro cũng nên. Nếu cô bé có thể coi em trai kế là bạn trai thì quan hệ với bố dượng cũng chẳng phải chuyện gì lạ.
Tôi thở dài đánh thượt. Tưởng tượng của tôi đã đi từ hình ảnh một gia đình êm ấm hạnh phúc như trong phim bộ đến một bối cảnh ảm đạm vô chừng.
“Bánh thịt hôm nay không vừa miệng cháu hả?”
Chủ quán nhìn tôi với vẻ mặt lo lắng. Miếng bánh cắn dở trên đĩa của tôi đã nguội lạnh từ lâu.
Tôi vội nở nụ cười rồi ăn nốt miếng cuối cùng.
“Ngon lắm ạ. Tại bác cứ nhìn chằm chằm nên cháu bị ngượng mồm.”
“Xin lỗi cháu nhé.” Ông chủ gãi gãi đầu. “Thấy khách ăn món mình làm với vẻ ngon miệng như thế, tôi rất lấy làm mừng… Mà nãy giờ tôi cũng nhiều lời nữa hả?”
Chủ quán toan nhích ra xa. Tôi gọi giật ông ta lại, “Cho cháu hỏi bác thêm một câu nữa ạ!”
“Cháu muốn hỏi chi?”
“‘Ofurando’ nghĩa là gì thế ạ? ‘Vùng đất hẻo lánh’ hay sao?”
“À, cháu nghĩ là phiên âm từ ‘off-land’ à? Cách cắt nghĩa này mới đấy. Vì quán cũng vắng khách nên lý giải như thế cũng hợp nhỉ!” Chủ quán bật cười với vẻ đồng tình. “Thật ra đấy là tiếng Pháp, có nghĩa là ‘món quà*’.”
Đối với tôi mà nói, những điều ông chủ vừa kể thật chẳng khác nào một món quà thừa thãi.
“Thuốc thang đúng là khó hiểu.”
Bác sĩ lẩm bẩm trong lúc dịch nôn chảy ồng ộc khỏi miệng tôi.
“Uống giảm đau quá liều sẽ dẫn đến đau đầu, uống chống nôn quá liều sẽ dẫn đến nôn mửa. Tuy mày vẫn chưa thử, nhưng tao bảo đảm rằng nếu uống nhuận tràng quá liều thì mày sẽ bí tiện, còn uống chữa tiêu chảy quá liều thì mày sẽ đau quặn ruột cho mà xem.”
Tôi chỉ muốn gào lên bảo lão câm đi.
Thế nhưng với tư thế nằm vắt vẻo trên giường, mặt ụp vào túi nôn hiện giờ thì tôi không thể làm thế được. Đầu tôi đau âm ỉ, cảm giác buồn nôn thì cứ liên tục xộc đến.
“Thế nghĩa là uống kali xyanua quá liều có khi sẽ trường thọ đấy. Bí quyết sống khỏe với kali xyanua. Hay mày cũng thử xem sao?”
Bác sĩ dùng ngón cái và ngón giữa tay phải ấn ấn vào thái dương.
“Mày đấy nhé, muốn tự sát thì cứ việc, nhưng làm ơn thôi ngay cái trò uống thuốc ức chế thần kinh trung ương đi. Đầu óc thì thơ thẩn, đi bộ luôn chệnh choạng như thể mình vừa cao thêm hai mét ấy.”
“Im đi!” Đợi cơn buồn nôn trôi qua, tôi mới quát lại được.
“Còn sức la lối thế này thì chắc là khỏe rồi nhỉ.” Bác sĩ nhe răng cười với vẻ yên tâm, “Mai đầu óc mày sẽ mụ mẫm suốt cả ngày đấy. Cũng chẳng sao, Chủ nhật mà.”
“Tôi đã bảo rồi, tôi sẽ không đi gặp Tarumiya Kenzaburo đâu. Nhất quyết không.”
Tôi chống hai tay lên bàn, ngửa mặt tuyên bố với Bác sĩ. Mắt còn nhòe, khiến tôi nhìn ra trước mặt có tận hai Bác sĩ.
“Không cần tao giục, mày cũng sẽ tự đi thôi. Tao biết là mày cũng tò mò lắm.”
“Tôi chả hứng thú gì với gia đình của Yukiko cả.”
Điệu cười nhạt của Bác sĩ như lên tiếng thay lão, rằng, nói dối tao cũng vô ích thôi.
Một lần nữa tôi lại muốn gào lên, nhưng thần trí mụ mị không cho phép.
Chuông cửa reo.
Tôi mở mắt, bắt gặp tia nắng mùa đông yếu ớt nhảy múa trên trần nhà. Mặt trời chắc đã lên cao lắm rồi.
Chuông cửa vẫn reo.
Không phải mơ. Rốt cuộc ai lại đến nhà tôi vào Chủ nhật thế này?
Tôi ra khỏi giường, chệnh choạng té vật ra sàn. Đúng như lời Bác sĩ nói, não tôi hôm nay tê liệt mất rồi.
Bằng cách nào đó tôi cũng lết được đến cửa. Tôi ghé nhìn qua mắt thần.
Có hai người đàn ông mặc áo khoác đang đứng ngoài cửa. Người lớn tuổi hơn có quả đầu xoăn tít, người nhỏ tuổi hơn có khuôn mặt trông chẳng nhờ vả gì được.
Là nhân viên nhà tang lễ hôm bữa ở đám tang Yukiko đây mà.
Tôi bất giác ngoái nhìn về phía giường. Có khi tôi đã chết thật rồi, và hai người này đến đây để rước tôi đi.
Nhưng trên giường không có cái xác nào cả. Chi có mỗi tấm chăn vung ra, dưới sàn là một bịch nylon chứa đầy dịch nôn.
Chuông cửa lại reo.
“Chờ chút.”
Tôi cất tiếng đáp, đoạn vội vàng nhặt bịch nylon đem đi vứt. Tôi bước từng bước loạng choạng sang nhà vệ sinh, thả vào thùng rác, lấy khăn lau miệng rồi chỉnh lại vẻ ngoài.
Tôi ngó qua mặt mũi trong gương.
Ổn rồi. Sạch sẽ cả rồi.
Tôi lần mò theo tường, bước xuống chỗ để giày dép rồi mở cửa.
Hai người đàn ông nhìn tôi từ đầu xuống chân, sau đó quay sang nhìn nhau.
“Thành thật xin lỗi. Bị chúng tôi đánh thức hả?”
Người đàn ông có quả đầu xoăn tít hỏi tôi với vẻ áy náy. Ánh mắt của anh ta dán vào phục trang của tôi.
Tôi nhìn xuống ngực áo mình. Vì vừa thức dậy nên tôi còn mặc pyjama.
May thay, trên áo không dính vệt nôn nào cả, nhưng chắc do tối qua quằn quại nhiều nên nút áo trên cùng đã sút ra.
Bộ dạng không hẳn là chỉn chu cho lắm.
“Bây giờ mấy giờ rồi?”
Tôi hỏi. Người đàn ông trẻ hơn với gương mặt non nớt nhìn xuống đồng hồ.
“1 giờ chiều.”
Tôi nheo mắt lại, ngước lên nhìn trời. Ánh nắng đục ngầu đang loang trên nền trời bảng lảng mây. Từ lúc tôi uống thuốc giảm đau đến giờ đã mười hai tiếng, thế mà tiết trời vẫn chẳng khá hơn.
Tôi cảm ơn người đàn ông trẻ tuổi kia, đoạn quay sang người có quả đầu xoăn tít.
“Anh đây là ai vậy?”
“Tôi là điều tra viên Muraki của Cảnh sát Tây Meguro.”
Sau khi xưng danh tính, đầu xoăn trỏ sang thanh niên. “Đây là tuần tra viên Isobe. Chúng tôi ở Tổ Hình sự của Cảnh sát Tây Meguro mà tôi vừa nhắc đến ban nãy, nay đường đột đến đây vì có điều còn muốn hỏi về lúc phát hiện ra thi thể nạn nhân.”
Cặp đôi trông như một ca sĩ nhạc soul vô danh và một giám đốc trẻ tuổi vô dụng này là cảnh sát hình sự ư? Tôi vừa ngạc nhiên lại vừa có chút bất an. Tôi không muốn tiếp chuyện với cảnh sát trong lúc đầu óc mụ mị vì thuốc giảm đau thế này.
“Tôi có thể xem sổ tay cảnh sát của cả hai anh không?”
Tôi hỏi Muraki. Anh ta lấy từ túi trong áo vest ra quyển sổ tay rồi giơ cho tôi xem.
Không phải nghi ngờ rằng họ là cảnh sát giả nữa. Giờ chỉ còn nước câu giờ thôi.
Dĩ nhiên, tôi có thể đơn giản nói với họ rằng vì hôm nay tâm trạng tôi không tốt nên phiền họ hôm khác đến. Nhưng giờ mà từ chối khéo tôi sẽ họ nghi ngờ. Tốt nhất nên khiến chuyện này qua nhanh.
“Tôi hiểu rồi. Mời hai anh vào.” Tôi gật đầu, đoạn mở rộng cửa.
Muraki vội vàng xua cả hai tay.
“Ấy không, vào nhà thế này có hơi thất lễ… chúng ta có thể nói chuyện ở ngoài không?”
Tôi nhìn thẳng vào mặt Muraki. Hành vi của người này có chút quái lạ. Trông cả hai cũng có vẻ bồn chồn thế nào.
“Thế bây giờ tôi phải đi tắm, sửa soạn cũng mất kha khá thời gian đấy.”
“Không thành vấn đề”, Muraki đáp với vẻ nhẹ nhõm.
Tôi đóng cửa lại, đoạn đi vào nhà tắm.
Bọn họ đang nghi ngờ tôi sao? Hai người cảnh sát ấy nhất định đang âm mưu gì đấy. Có thể là một cái bẫy cũng nên.
Để đối phó với bẫy thì đầu óc tôi cần hoạt động. Sau khi cởi hết pyjama và đồ lót, tôi vào buồng tắm, mở vòi sen và chuyển nóng-lạnh liên tục, cho đến khi cơn tê liệt trong đầu đã giảm đi phần nào.
Tôi tròng áo len vào, mặc quần jeans, khoác áo khoác rồi lại ra mở cửa.
“Để hai anh chờ lâu.”
“Xin lỗi vì đã làm phiền.”
Muraki nở một nụ cười thân thiện, nhưng ánh mắt thì lộ vẻ gian xảo, hẳn đầu óc đang toan tính gì đấy. Một nhân vật đáng gờm.
Tôi cùng cả hai đi xuống cầu thang. Giữa chừng, bước chân loạng choạng, tôi vội chống vào tường.
“Bạn có sao không?” Isobe nhòm sắc mặt tôi.
“Lỡ quá chén ấy mà.”
Tôi đáp. Đấy cũng không hẳn là một lời nói dối. Chỉ có điều thứ tôi lỡ quá chén ở đây là thuốc giảm đau chứ không phải rượu.
Isobe lộ vẻ bối rối, không biết nên phản ứng thế nào.
“Giờ đến đồn cảnh sát à?”
Lúc rời khỏi khu chung cư, tôi quay sang hỏi Muraki.
“Không, không cần cất công đến tận đấy đâu.” Muraki đáp, đoạn đảo mắt nhìn quanh con đường bên dưới đoạn đường sắt trên cao. “Vào quán nào quanh đây thôi… à, chỗ kia thì sao?”
Nơi Muraki trỏ chính là nơi Kuroume đã phỏng vấn tôi.
“Quán đấy đắt lắm.”
Tôi nói. Muraki bật cười.
“Đừng lo, chỉ là vài tách cà phê thôi mà.” Anh ta nói với giọng hào phóng.
Tôi đã định thành thật bảo rằng quán đấy bán giá cắt cổ mà cà phê lại không ra gì, nhưng rốt cuộc lại thôi. Nếu không phải tiền mình bỏ ra thì đi uống thêm một lần cũng được.
Tôi bước vào quán nước kiểu Tây phương với những bức tường màu trắng, chọn chỗ ngồi bên cửa sổ trổ ra đường.
Muraki tự tiện ngồi xuống chỗ cạnh tôi rồi gọi phục vụ đến để kêu ba tách cà phê.
“Rồi, bạn có thể thuật lại cho chúng tôi nghe thêm lần nữa toàn bộ sự việc hôm phát hiện ra thi thể không?”
Muraki hỏi một cách tự nhiên.
Tôi bèn thuật lại cầu chuyện đã kể cho cảnh sát ở hiện trường và Kuroume nghe.
Đêm hôm ấy, tôi đang dạo bộ ở khu Takaban quận Meguro thì chợt phát hiện có điều bất thường trong công viên. Lúc tôi đến gần thì mới nhận ra đó là thi thể của một cô gái.
Những lúc thế này không nên nói dối. Tôi thành thật kể cho họ nghe toàn bộ sự việc. Tôi sẽ chỉ tránh chi tiết không muốn nói. Nếu được, tôi ước gì có thể quên hết những chi tiết ấy.
May mắn làm sao, chi tiết mà tôi không muốn kể cho cảnh sát nghe lúc này chỉ có một.
Tôi không muốn để họ biết mình đã tìm hiểu về Yukiko từ trước.
Tôi vừa lặp lại khẩu cung bám khá sát với sự thật, vừa đưa mắt quan sát hai người cảnh sát.
Muraki tầm 35 tuổi. Chẳng thợ làm tóc nào lại đi tạo kiểu đầu xoăn rối bù thế này, nên đây hẳn phải là tóc thật của anh ta. Khắc trên gương mặt hình bầu dục là nếp chân chim hình chữ bát. Khóe miệng luôn nhếch lên như đang mỉm cười.
Tôi hiểu rất rõ những gã đàn ông hay nhếch miệng cười. Bác sĩ là một điển hình, vừa tinh ranh lại vừa thích mỉa mai kẻ khác.
Isobe chắc là nhỏ tuổi hơn tôi. Tóc rẽ ngôi giữa, mặt hình tam giác ngược. Vóc người cao hơn Muraki, khuôn mặt cũng dễ nhìn hơn. Gương mặt cậu ta nom có vẻ khù khờ. Có thể là tại bộ điệu thư sinh hoặc là tại cặp mắt luôn ngấn nước. Kể cả bây giờ, so với một Muraki điềm tĩnh và tự nhiên, trông Isobe cũng có vẻ bồn chồn hơn, nếu không len lén đưa mắt nhìn tôi thì cũng nhìn ra cửa sổ hay ngước lên trần nhà.
Không phải, tôi chợt nhận ra. Có lẽ đây chỉ là do cậu ta đang quá căng thẳng thôi, chứ Isobe bình thường không như thế này.
Nhưng tại sao phải căng thẳng đến thế? Nếu chỉ lấy lời khai của nhân chứng phát hiện ra thi thể thì ánh mắt cậu ta đâu cần láo liên đến vậy. Không thể là vì còn trẻ tuổi, hay là lính mới lần đâu tiên ra ngoài thu thập manh mối được.
Hẳn là vì cậu ta đang gánh trên vai một trọng trách nào đấy, tôi tự nhủ. Đây là phản ứng của mấy tay cảnh sát trẻ khi mang trên mình nhiệm vụ hết sức quan trọng tác động đến việc phá giải vụ án sau này.
Suy đến cùng là nhiệm vụ gì?
Lẽ nào là lấy khẩu cung của nghi phạm?
Tôi trở nên cảnh giác.
“Ra là thế, tôi hiểu rồi.” Nghe thuật lại xong, Muraki liền gật gù.
“À này, tôi có thể hỏi thêm một việc không?” Isobe cất lời với vẻ nôn nóng. “Hôm đó muộn như thế, bạn còn đi loanh quanh khu Takaban làm gì? Khu ấy lại vắng người nữa chứ.”
Muraki chau mày, đánh mắt sang Isobe. Nét mặt như muốn nói, hỏi chuyện nhạy cảm vào lúc này là quá hấp tấp.
“Người quen tôi sống gần đấy, lúc đó tôi đang đến nhà họ.” Tôi đáp.
Đây cũng không hẳn là lời nói dối. Chỉ có điều “người quen” ấy vốn là Yukiko, còn “đến nhà họ” ám chỉ việc tôi rình cô bé trước sân chung cư Desert Himonya.
“Quan hệ giữa bạn và họ là gì?”
Isobe hỏi dồn. Nét mặt Muraki trở nên khổ sở.
“Tôi thực sự phải nói ra sao? Đây là chuyện cá nhân mà.” Tôi trừng mắt với Isobe.
Cậu ta nhỏ giọng lí nhí xin lỗi.
Cậu ma mới à, đặt câu hỏi thiếu ý tứ quá đấy, tôi lầm bầm trong lòng.
So ra thì Muraki lão luyện hơn nhiều.
Anh ta đằng hắng như trách móc Isobe rồi quay sang nhìn tôi.
“Tin này đã được một vài báo đài đưa lên nên có khi bạn cũng đã biết rồi. Về việc còn một cây kéo nữa ở hiện trường ấy?”
Tập trung vào, tôi tự nhắc nhở. Phải phân biệt thật rõ đâu là chuyện mày có thể biết còn đâu là chuyện mày không nên biết. Quên những chuyện mày không nên biết đi, và trả lời trung thực vào.
“Tôi cũng có đọc qua trên tạp chí.” Tôi thật thà đáp.
“Lúc phát hiện ra thi thể của nạn nhân, bạn có để ý ở hiện trường còn một cây kéo nữa không?”
Muraki đã chạm đến điểm nhạy cảm của vấn đề. Đây nhất định là bẫy.
Bài phóng sự của tuần san Chuyện hậu trường đúng là có viết về việc phát hiện ra cây kéo thứ hai ở hiện trường, nhưng lại không đề cập gì đến địa điểm tìm ra nó.
Lẽ hiển nhiên, cây kéo ấy phải được phát hiện ở bụi rậm công viên rồi. Tôi là người quăng nó vào đó mà.
Nhưng không lý nào tôi lại biết được điều đó. Khi phát hiện ra thi thể của một cô bé bị giết hại dã man như thế, một người đang trong trạng thái hoảng loạn làm gì còn tâm trí chui vào bụi rậm để lùng sục?
Tôi chẳng biết gì về cây kéo thứ hai cả.
“Tôi không để ý nữa. Lúc trông thấy thi thể cô bé, vì quá sốc, nên là tôi…”
Tôi nhắm nghiền mắt lại, ra vẻ không muốn hồi tưởng về đêm hôm ấy. Chẳng biết trò mèo này có thành công hay không mà Muraki chỉ đáp lại rằng, “Tôi cũng nghĩ thế.”
“Tôi hiểu rồi. Cảm ơn bạn đã hợp tác với chúng tôi.” Muraki đưa ngón trỏ lên gãi đầu, ám chỉ buổi hỏi cung đã kết thúc.
“Cho hỏi, bạn cũng có đến lễ tang của nạn nhân, phải không?” Isobe thình lình cất tiếng.
Muraki lộ rõ vẻ âu lo. Có một cộng sự nhanh nhảu đoảng thế này, hẳn là anh ta phải khốn khổ lắm.
“Đúng vậy. Tôi nghĩ rằng mình nên đến phúng điếu cho em ấy… Thế thì sao?”
Nghe hỏi, Isobe liền đáp, “Chẳng sao cả.”
Đúng như lời hứa, Muraki trả tiền cà phê cho tôi. Chúng tôi chia tay nhau ở ngoài cửa quán nước.
Bước đi được một quãng, tôi ngoảnh lại nhìn, đúng lúc bắt gặp cảnh tượng Muraki đang gõ đầu Isobe.
Tay cảnh sát trẻ ấy hẳn là sẽ bị mắng như té nước vào mặt cho mà xem.
Về tới nhà, vừa đóng cửa lại, hai đầu gối tôi lập tức nhũn ra. Tôi đã gắng sức tập trung trả lời câu hỏi của cảnh sát, nhưng cơ thể tôi dường như còn chưa hết tác dụng của thuốc giảm đau. Tôi khuỵu gối xuống sàn, và phải bò mới vào được bên trong.
Nhưng giờ vẫn chưa phải lúc cho tôi nằm xuống. Tôi lại gần tủ sách để lấy bản photo giấy nhập học của Yukiko, vốn kẹp giữa những trang sách. Xem chừng tôi đã bị cảnh sát nghi ngờ rồi. Lưu lại thứ này trong nhà là quá mạo hiểm.
Tôi toan xé toạc tờ giấy, nhưng phút cuối lại chần chừ. Thông tin trong đây có khi còn hữu dụng cũng nên. Lỡ sau này tôi phải gọi điện đến nhà Tarumiya thì sao?
Đúng như Bác sĩ nói. Tôi thực sự rất tò mò về Yukiko và gia đình cô bé.
Mình có nên tiếp tục chơi trò thám tử trong lúc đang bị cảnh sát nghi ngờ không?
Quá mạo hiểm.
Nhưng mình đang mạo hiểm chuyện gì kia chứ? Bị cảnh sát tóm thì tốt chứ sao. Tôi đã ra tay sát hại hai cô bé. Tôi là kẻ giết chết Konishi Mina và Matsubara Masayo. Cảnh sát săn lùng tôi vì đó là nghĩa vụ đương nhiên của họ. Thêm nữa, nếu lỡ bị quy chụp là kẻ đã giết chết Yukiko đi nữa, tôi cũng chẳng bận tâm.
Chi có điều, bấy lâu nay tôi luôn cẩn thận để không cho cảnh sát tóm. Tôi sẽ giữ phương châm ấy đến phút cuối cùng.
Dù cuộc chơi này không có kẻ thắng cuộc, nhưng tôi cũng nên gắng hết sức để mà chơi. Thêm nữa, khi bị bắt, nhất định tôi sẽ được ban cho án tử như ước nguyện.
Tôi chép lại địa chỉ và số điện thoại của nhà Tarumiya vào một mẩu giấy nhớ, còn bản photo giấy nhập học thì nhét vào túi đeo vai. Nếu cảnh sát thực sự đưa tôi vào diện tình nghi, rất có khả năng họ sẽ lục lọi đến cả thùng rác nhà tôi. Bản photo này đợi mai đi làm tôi sẽ đem vứt ở thùng rác nào đó ngoài ga.
Đoạn, tôi lấy danh thiếp của Kuroume Natsue ra để gọi điện cho phòng Biên tập tuần san Chuyện hậu trường. Hôm nay là Chủ nhật, nhưng các phóng viên hẳn là vẫn đang phải tất bật làm việc.
“Vâng, tuần san Chuyện hậu trường đây ạ.”
Một người đàn ông trung niên nhận điện. Tôi hỏi gặp Kuroume Natsue.
“Cô ấy vừa ra ngoài. Để tôi nhắn cô ấy gọi lại sau.”
Tôi cho biết số của mình rồi gác máy. Chưa đầy năm phút, điện thoại reo.
“A lô, nghe bảo bạn cần gặp mình?”
Hình như Kuroume đang gọi bằng di động. Tôi loáng thoáng nghe tiếng bước chân.
Ra thế, chị ta là phóng viên tự do nên không có chỗ ngồi chính thức ở tòa soạn. Mỗi lần có người gọi đến tìm, tòa soạn sẽ trả lời rằng hiện tại Kuroume vắng mặt rồi chuyển cuộc gọi sang máy di động của chị ta.
“Bạn muốn hỏi mình chuyện gì? Mà xin lỗi bạn nhé, hôm bữa phỏng vấn đã đời xong lại không đăng báo. Tại vì tự dưng có tin nóng nên mình cũng bó tay. Nhưng trông bạn trả lời uể oải thế, không đăng chắc cũng không phiền đâu, phải không?” Kuroume nói một mạch.
“Tôi có chuyện muốn nhờ chị.”
“Nhờ mình?”
“Chị có thể cho tôi số liên lạc của nhà nạn nhân Tarumiya không? Sắp đến giỗ bảy ngày của cô bé nên tôi muốn đến khấn bài vị.”
“Bạn thật là… lễ nghĩa đến không ngờ đấy.” Kuroume nói với giọng gần như ngạc nhiên. “Nhưng bạn thông cảm giùm, mình không thể tiết lộ thông tin cho bạn biết được. Địa chỉ liên lạc của gia đình người bị hại không tiện đưa qua đánh lại…”
“Hôm nay cảnh sát đến gặp tôi. Tôi nghe được chuyện này hay ho lắm.”
“Ơ?”
“Xem ra cảnh sát cũng rất quan tâm đến cây kéo còn lại ở hiện trường mà tuần san Chuyện hậu trường đã đưa tin đấy. Tôi sẽ kể chi tiết cho chị nghe.”
“Chi tiết đó là gì?” Giọng điệu Kuroume thay đổi cái một, đúng ra giọng của một nhà báo háo tin.
“Thế chị sẽ cho tôi địa chỉ liên lạc của nhà Tarumiya chứ?” Tôi hỏi. Kuroume liền thì thào địa chỉ và số điện thoại vào loa.
“Nghe qua thì phỏng đoán ở Chuyện hậu trường số tuần trước sai bét rồi.” Tôi nói ra mẩu tin nóng sẽ thuộc độc quyền của Kuroume. “Cây kéo còn lại không cắm trên người nạn nhân, cũng không phải rơi bên cạnh thi thể, mà được phát hiện trong bụi cây cách đó khá xa. Cảnh sát cực kì chú ý đến cây kéo này.”
“Thật không?” Kuroume ngờ vực hỏi lại.
“Cảnh sát đã nói thế đấy, thực hư thế nào thì tôi chịu. Nếu tiện, chị cứ xác minh qua mấy phóng viên thân cận với cảnh sát xem.”
“Khỏi cần nhắc, người ta tự biết cách đi xác minh.” Kuroume cúp máy.
Tôi gác ống nghe, lảo đảo đi về phía giường rồi ngã vật ra. Cuộc gọi vừa rồi là cái cớ hoàn hảo cho việc tại sao tôi lại có trong tay địa chỉ và số điện thoại của nhà Tarumiya. Vả lại, nếu Kuroume thực sự viết bài dựa trên mẩu tin tôi đã tiết lộ thì hàng vạn độc giả của tuần san Chuyện hậu trường sẽ biết cây kéo thứ hai được tìm thấy trong bụi rậm. Và nó sẽ không thể trở thành mấu chốt để xác định xem ai là Người kéo nữa.
Chắc Kuroume sẽ không tiết lộ nguồn tin của mình đâu nhỉ? Dù bề ngoài phù phiếm, chị ta vẫn là một người có thực lực, đấy là điểm khiến tôi tin tưởng vào chị ta.
Chẳng may Kuroume có tiết lộ cho cảnh sát tin tức ấy là từ tôi mà ra, tôi chỉ việc giải thích như trên điện thoại ban nãy, rằng mình nghe được chi tiết đó từ hai viên cảnh sát vừa gặp là được. Không ai ghi âm cuộc trò chuyện hôm nay. Cảnh sát có phản bác rằng họ chẳng tiết lộ gì thì cũng không biết tìm đâu ra chứng cứ.
Tôi thách họ đem chuyện này ra tòa đấy. Rồi ai cũng sẽ nghĩ rằng có khi chính tay cảnh sát non nớt Isobe kia đã nhỡ mồm.
Thẩm phán nhất định sẽ phân xử thôi.