Chương 4 .
CON SUỐI NGUỒN từ trên núi cao, nơi sinh sống của những khu rừng thông lão đại, về tới đây đã hóa già, chầm chậm lượn vòng qua khu đồng lúa, giữa đôi bờ xanh rườm cây cỏ.
Chẳng có vật gì nơi đây mà không nhuốm màu xưa cũ. Tuy nhiên, kỳ lạ đến mức cổ tích lại chính là cây cầu mây bắc qua dòng suối lớn. Nó khiến thầy Quang Tình phải ngỡ ngàng. Chẳng có một cây cầu nào giàu chất lãng mạn mà lại nghiêm túc, chặt chẽ với khái niệm đến thế. Đã là trâu thì đúng chỉ là trâu. Là ngựa thì cũng phải đúng là ngựa. Cầu mây thì chỉ được làm nên từ song mây. Chỉ rặt song mây thôi. Thậm chí là gỗ cũng không được tham dự. Thoạt kỳ thủy là bốn sợi song đại, loại song đá, cứng như dây cáp thép, dàn hàng ngang chạy qua mặt suối, níu vào hai gốc mít rừng ở hai bên suối. Tiếp đó, mây nếp dẻo vàng ngà họp thành những tấm đan, rải khít rịt nhau, tạo thành một mặt cầu vừa mềm mại vừa dai bền. Cầu mây như áng mây trời vĩnh cửu cả trăm năm đung đưa trên dòng nước trong văn vắt như đã được lọc qua hàng thế kỷ. Hiện lên trước mắt thầy Quang Tình, chúng là các tạo vật thay mặt cho người làng Nhuần ra đón thầy.
Thầy Quang Tình xuống ngựa. Con ngựa trắng này là của pò Rúm, con trai cả cụ Lục Đình Hoàng, nguyên châu úy khu tự trị người Giáy hồi thực dân Pháp còn cai quản đất này. Cụ Hoàng làm quan nhưng thương dân, được dân làng coi như người cha già làng bản.
Đi đón thầy Quang Tình là một người đàn ông trung niên vóc hình tầm thước, nhưng từ gương mặt đến thân mình, tứ chi đều rất gân guốc, tráng kiện, tên là Lục Đình Siểu. Vừa đi anh vừa nói chuyện với thầy Quang Tình về dân tộc mình. Anh Siểu rõ là một pho tri thức của dân tộc.
Nghe chừng sắp đến làng, anh Siểu dặn thầy đường đi rồi đi tắt về trước nói là để chuẩn bị đón thầy. Thành ra lúc này chỉ còn thầy và con ngựa bạch. Đến cầu xuống ngựa, thầy dắt con ngựa bạch theo sau. Nhưng vừa dợm chân bước vào cầu, thấy nó đung đưa như võng, con ngựa bạch đã chùn vó, giật lùi sợ hãi hí ran. Thầy liền tìm đường dắt nó xuống suối, rồi định cùng nó lội suối qua bờ bên.
Nhưng rốt cuộc thì thầy chưa thể đi thêm được một bước nào. Đã bất ngờ trước vẻ đẹp lãng mạn tình tứ của chiếc cầu mây, giờ thầy lại ngơ ngẩn trước quang cảnh yên bình của làng Nhuần. Làng Nhuần, một làng Giáy cổ! Nổi lên bồng bềnh như một giấc mơ trên cái nền xanh của lúa đang thì con gái là cả trăm ngôi nhà, mái nghiêng lợp một thứ lá chít mỏng tang trắng lóa như nhiễm ánh trăng đêm. Rải ra trên các bình độ cao thấp khác nhau, trật tự mà không cứng nhắc, các ngôi nhà như xếp hàng chụp ảnh, không người nào che khuất người nào. Mặt tiền tất thảy đều cùng ngoảnh về con suối lớn nước chảy thanh thản an nhàn rồi dừng lại trước một cái phai đá, và từ đó ngoan ngoãn uốn mình đổ nước ào ạt vào một con mương, làm quay những chiếc chong chóng của dãy cối nước bên tả ngạn. Chẳng có gì yên ả và thanh bình hơn cảnh những chiếc chong chóng bằng phên đan quay đều đều và tiếng những chiếc chày gỗ buông rơi thậm thịch trong lòng những chiếc cối đá. Ở đó, lại như một cảnh trí đã được ông Tạo sắp đặt, một hàng cây doi thong thả buông những chùm hoa vàng xốp, dài như đuôi con chồn. Làng Nhuần - một làng Giáy hiện ra trong cổ tích. Dấu vết cố kết làng bản để chống giặc cướp đã có từ cả trăm năm hiện hình bằng hàng tường vi dựng đứng sin sít kiên cố bằng gỗ tứ thiết ken chặt. Làng Nhuần lưng dựa dãy núi cao xanh thắm cây rừng. Trước mặt là một không gian thênh thoáng. Bên trái là khu rừng đông cắm thờ thành hoàng làng quanh năm xanh ngắt.
- Chào các chị các em.
Dắt con ngựa, dò dè từng bước trên lòng suối, thầy Quang Tình cất tiếng chào khi gặp một đoàn thiếu nữ Giáy đang từ phía trên lội suối đi xuống. Thiếu nữ Giáy, toàn các cô mười sáu mười bảy tuổi, áo hồng đào, áo xanh màu hồ thủy, áo tím bồ quân, cài khuy bên sườn, cổ áo, nẹp tay, viền nẹp trắng, cô nào cô nấy đều ướt rượt. Thấy thầy Quang Tình, các cô cùng đồng thanh:
- Chúng em chào thầy giáo ạ. Thầy Quang Tình ngất ngơ:
- Sao biết tôi là thầy giáo?
Díu vào nhau các cô cười khúc khích. Một cô bảo:
- Anh Siểu nói thầy về mở trường cấp hai cấp ba. Hỏi tiếp:
- Đi đâu về mà áo quần ướt rượt cả thế?
Bấy giờ các cô mới cười tóa lên, vẻ ngượng nghịu, cho biết là đi hái rau piệc cút, tức rau dớn theo tiếng Kinh, rồi ào ào chạy tới phía trên dòng mương nước để chạy cối gạo, cùng òa ập dầm mình xuống, để lại thầy Quang Tình với con ngựa bạch đang cùng nhau ngơ ngẩn ngẩn ngơ. Một dòng suối mát. Một bờ cây xanh. Tiếng chày gỗ buông rơi. Và cả triệu triệu hạt gạo trong các cối nước đang trật vỏ phô lộ thân mình ngà ngọc thơm lừng cả một triền suối buổi trưa ngả chiều.
o O o
Nhà người Giáy cao rộng, thoáng đãng ba gian liên thông. Gian giữa đặt ban thờ. Ngang nách cây cột cái bên ban thờ gài cum thóc đã mốc xám. Tương truyền thóc này để được một trăm năm sẽ thành tiên dược. Mâm cơm đặt trên cái bàn gỗ vuông với những chiếc ghế mây cốt song mặt tròn vây quanh. Đĩa thịt lạp có hương vị khói bếp. Bát rau piệc cút xanh ngọt lự. Cơm tẻ ăn hàng ngày luộc qua trong chảo nước rồi vớt ra cho vào chõ gỗ đồ như người dưới xuôi đồ xôi. Nước gạo luộc chắt ra dựng trong liễn sứ dùng làm canh chan cơm, để người uống và cho lợn ăn. Hạt cơm đồ trắng bông, nhàn nhạt nhưng dẻo mềm. Pò Rúm, bố anh Siểu, ngồi ở cạnh ban thờ, đúng vị trí chủ nhà, mỗi lần nhấc chén rượu lại liệng sang phía thầy Quang Tình, nhỏ nhẻ thân tình: “Lấy rau đi, thầy giáo!” Thoạt đầu, thầy Quang Tình lấy làm lạ. Mâm cơm có rau đâu. Toàn thịt gà thịt lợn. Hóa ra với người già, rau có nghĩa là thức ăn nói chung. Cô con dâu, tức vợ anh Siểu, đứng khép nép ở phía bếp, dõi theo bữa ăn, thấy món nào vơi là vội tiếp thêm. Hết bữa thì cung kính dâng trà với cái tăm đặt ngang miệng chén mời thầy. Xong đâu đấy thì cô ra sân ôm một bó củi, đốt đống lửa sưởi ở trong bếp gian bên, thực hiện đúng tập quán của ông cha - con dâu không chung lửa với bố chồng và khách khứa.
Pò Rúm, bố anh Siểu, năm mươi tư tuổi, cao lớn, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, tiếng nói vang trầm, diện mạo ngời ngời anh hoa. Ông theo một ông đồ người Kinh học chữ quốc ngữ. Võ nghệ, y lý và chiêm tinh học ở một thầy người Tàu. Nói thành văn chương, hành động thành nghi biểu, biết làm mo, giỏi tính toán, ứng đáp, tinh thông võ thuật và nhiều phép lạ, nhưng ông vẫn là bậc lão nông, không cao ngạo, cách bức. Dân làng truyền tụng: đã có lần làm thầy cúng ông gọi được cả hổ về chầu ở miếu thổ ty. Có một cái bát đựng quả trứng gà sống. Ông có con dao sắc. Ông chém một nhát, bằng pháp thuật gì không biết, mà trứng cùng bát lìa thành hai phần, bằng bặn như cắt gọt. Ông có thể cắn mép cái bàn lớn, nhấc cả nó lên ngang người.
Sần Cồ Lỉn dạo mới thăng tri châu ở xứ Giáy Phong Thổ mời ông lên ăn ở trên châu, quý trọng như một vị thực khách, cốt để ông giúp rập việc tiên báo và tiêu trừ vận hạn. Ông giả vờ ngơ ngẩn. Họ Sần trói ông lại, sau nghĩ thế nào lại cởi ra, kiệu ông về làng Nhuần.
- Sần Cồ Lỉn là ai đấy?
Nghe anh Siểu nói đến đấy, thầy Quang Tình hỏi.
Anh Siểu nói:
- Quên, chưa nói để thầy biết. Người Giáy tôi ở Lao Cai có hai dòng. Dòng trong này là những làng ở ven sông Hồng, gọi là Giáy trong. Giáy ngoài là những dòng ở phía Tây hay còn gọi là xứ Phong Thổ. Phía ấy có ông thổ ty họ Sần rất giàu có. Ông có hàng ngàn hécta thảo quả. Cụ tổ ông có đến chín bà vợ. Xưa ông lập công ty thương mại. Có cả ôtô chạy đường Hà Nội-Lào Cai. Cũng đã từng lập cả đội gái xòe đi dự đấu xảo ở Hà Nội, cạnh tranh với thổ ty họ Đèo bên Lai Châu.
Pò Rúm hai tay nâng cái ống điếu to bằng bắp tay dài thượt, đã nạp sẵn mồi và que đóm cháy lem lém, đưa thầy Quang Tình.
- Thầy giáo hút đi. Thuốc bào nhẹ thôi mà.
- Cho bải pò!
- A, thầy biết nói cám ơn bằng tiếng Giáy tôi rồi à?
Thầy yêu người Giáy tôi rồi đấy.
- Đó là nhờ anh Siểu lúc đi đường dạy mà, pò.
Thầy Quang Tình đáp, mặt ưng ửng đỏ. Vẻ mặt tươi tỉnh, pò Rúm ôm cái ống điếu vào lòng, xởi lởi:
- Bố Sần Cồ Lỉn là Sần Sào Lủng đã từng là nghĩa quân của tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc đấy, thầy giáo à. Nhưng bố con nhà ấy chó đen giữ mực, giống tổ phụ họ, thấy cái lợi dù có là thầy cũng dám làm phản. Năm Pháp đem quân đánh chiếm Lao Cai, họ theo hàng, không dám tham gia trận đánh Tây ở thác Rải Cúi như cụ Lục
Đình Hoàng châu úy họ Lục chúng tôi. Dà, ông ta chết, mắt mở tráo trưng. Theo ông bố sang viếng, tôi còn thổi kèn pỏ le trong đám tang, tôi thấy mà. Chà, mười hai ngày đêm cúng ma tươi, hết thổi điệu đen lại lẫn sang cả điệu đỏ, tôi mệt muốn chết. Họ không như họ Lục bên này theo Cụ Hồ từ đầu chí cuối đâu.
Trước sau một bữa cơm chiều, nghe anh Siểu và pò Rúm nói, thầy Quang Tình đã hiểu thêm chút ít về dân tộc Giáy ở đây. Ở nhà ông gần tháng trời trước khi chuyển sang túp nhà ở đầu hồi lớp học mới dựng, sau này thầy Quang Tình còn hiểu rõ hơn cốt cách và tài năng ông. Là cái túi khôn chứa đầy tri thức dân gian, thông thạo việc đời, hiểu biết việc ma quỷ, pò Rúm còn là người thổi kèn pỏ le kỳ tài. Người làng gọi ông là pẩu sray tức thầy kèn. Cây kèn đồng có lưỡi gà chỉ là cái cuống rạ giản đơn, qua miệng ông thổi biến hóa thành cả trăm điệu. Từ điệu dành cho việc đỏ: đám cưới xin, ăn hỏi, hội hè, tới các điệu dành cho việc đen như việc tang lễ ma chay. Cây kèn có một linh hồn thần thánh. Nó có một bàn thờ riêng, bàn thờ thần kèn.
Người Giáy có phong tục cúng lễ Then (theo tiếng Giáy là Trời, là Thượng đế). Bà Rúm lúc còn trẻ là cô gái xinh nhất làng, lại cũng là bà Then, còn gọi là Già chỉm, làm nghề cúng bái ngồi đồng hát hay múa tài. Bà có thể hát bảy ngày bảy đêm liền mà không lặp lại bài cũ. Cả vùng này, ít có đám then nào vắng mặt hai ông bà. Hai ông bà sinh hạ được anh Siểu và một cô con gái.
Trời đã ngả hoàng hôn. Phía đồng lúa có một đám mây ở đâu bay tới màu cá vàng. Căn nhà về chiều ửng sắc nắng ấm áp. Người con dâu lúi húi cọ rửa cái chảo gang cỡ đại trên bếp lò. Xong, đi ra sân. Ín ơi ín à... chị vừa cất tiếng lanh lảnh, đã thấy tiếng chân rình rịch và tiếng thở hồng gộc của đàn lợn con thả rông chạy về ăn bữa chiều. Bên trái nhà, trên mảnh sân nhỏ, tao tác inh ỏi tiếng gà vịt cùng tiếng ngan kêu khàn khạt, tiếng ngỗng kêu cà kíu.
Anh Siểu đón cái ống điếu từ tay pò Rúm, hào hứng:
- Ở đây lâu rồi thầy giáo thích thì tha hồ nghe ông cụ tôi kể chuyện tổ tiên người Giáy tôi đánh Tây ở thác Rải Cúi trên sông Hồng. Cả chuyện con chim Sroong ló tin con chim Ca ca rồi bị lừa. Chuyện cổ tích Mu tai lơ. Chuyện Ỷ thổi. Úi! Chuyện Núi bay mới hay kia. Còn chuyện Then và Già chỉm nữa thì thì tiếc là mè tôi mất lâu rồi nên giờ chỉ cái Thắm là nó còn nhớ. Nhưng nối tiếp mè tôi thì cũng có mấy bà làm then giỏi đấy.
- Kìa! Cô Thắm đã về! Nhà đang có khách đấy!
Ngoài sân vừa vẳng lại tiếng người chị dâu, đã nghe thấy tiếng ọt ẹt của hai đầu đòn gánh cọ vào hai cái sói giang đang đi vào. Anh Siểu đã đứng dậy, vồn vã:
- Ây dà, hai sói gạo có nặng không, để anh đỡ nào!
- Em gánh được. Chào thầy giáo ạ.
Một cô gái mặc áo hồng đào gánh đôi sói đầy gạo, nghiêng mặt về phía thầy Quang Tình, khe khẽ chào, rồi đi vào nhà. Nhận ra đó chính là một cô trong nhóm các cô gái đi hái rau piệc cút bờ suối lúc trưa này, thầy Quang Tình cũng nhận ra một làn hương vừa tỏa thơm vấn vít trong căn nhà. Hương gạo mới! Hương gạo quen quen mà là lạ như lần đầu được thấy. Một làn hương chân thật hiền lành, làn hương của quả chín, của sữa mẹ. Mặt sàn lát vầu già lên nước vàng óng ánh rung nhè nhẹ. Không nghe thấy tiếng cô gái nói gì tiếp, nhưng thầy nhận ra pò Rúm đã chống tay đứng dậy, kêu to:
- Ô, thế đêm nay làng mở hội vươn Giáy à?
Anh Siểu đã ra đầu hồi. Ngoài sân túm tụm mấy bóng áo vàng áo xanh áo tím. Tiếng các cô ríu rít như tiếng chim. Giọng anh Siểu như vỡ ra cùng niềm vui bất ngờ:
- Ô, thế ra đúng phong tục làng ta khi có con trai nơi xa đến thì mở hát Giáy à, các cô!
Rồi quay lại sau, anh Siểu nói thật to như thông báo một tin vui bất ngờ đến với thầy Quang Tình:
- Thầy giáo! Chuẩn bị nhá! Đêm nay con gái làng Nhuần mở hội hát mừng thầy về làng đấy. Nhưng mà thầy không lo. Có tôi bên thầy rồi. Này! Các cô đừng hòng bắt nạt thầy giáo tôi đấy nhé!
o O o
Tuần trà thứ hai vừa xong, anh Siểu vào buồng thay cái áo chàm bằng chiếc áo đen cài khuy vải bó chẽn người, kéo tay thầy Quang Tình đi. Chiều buông màn sâm sẩm. Ngoài đồng sương dâng mờ mờ. Trong sân, ngan vịt đã yên vị trong các vòng quây, gà lớn đã lên chuồng, gà con còn chiêm chiếp bên chân mẹ quẩn quanh cạnh mấy cái nơm úp. Nghe anh Siểu nói, thầy Quang Tình giờ mới biết những làng Giáy cổ bên sông Hồng còn gìn giữ được phong tục tập quán hiếu khách có từ trăm năm trước. Làng nào cũng vậy, hễ có khách nữ tới là thế nào ngay đêm đó con trai làng cũng mở hội hát đón khách. Có khách nam đến thì con gái làng cũng vậy. Buổi hát đêm đó gọi là vươn Giáy, tức hát Giáy. Huống hồ làng Nhuần nơi đất đai giàu có, cảnh vật tươi đẹp tình tứ, lại vốn là gốc hát của người Giáy xứ này, nơi các anh tài như pò Rúm, anh Siểu, nhiều như hoa sở trắng xóa trên rừng.
Bấy giờ, ở xóm dưới, tại nhà pò Hỉ nơi đêm nay sẽ diễn ra Vươn Giáy, việc chuẩn bị đã gần như hoàn tất. Bàn nước, ống điếu đã được lau rửa sạch sẽ. Chiếu hoa một đôi đã trải, bừng sáng cả hai mặt giường ở hai gian bên. Trong căn buồng ở đầu hồi bên trái nhà, Thắm cùng cô Rin, cô Nòn, cô Dín, cô Sơ, cô Sín đang tíu tít thay áo mới, nắn vành tóc, sửa nếp khăn và lẩm nhẩm ôn lại mấy bài hát cũ.
Pò Hỉ, đầu bạc mình gầy, gài cửa chuồng gà xong, bước lên thềm, ghé vào trong nhà, khe khẽ: Này, nghe nói khách anh tài đấy. Đêm nay mà thua cuộc thì phụ công pò sửa soạn quét nhà, trải chiếu, chăng đèn, nấu cháo vịt ăn xíu dề[2] đấy. Thắm ngoái ra nhí nhảnh:
- Pò yên tâm. Bao giờ chạch chấu biết gảy đàn môi, cá bống biết thổi kèn lá chúng cháu mới chịu thua cơ ạ.
- Mà này, con trai thì dễ tìm, nhưng khó giữ đấy, các cháu à.
Pò Hỉ vừa dứt lời, các cô cùng kêu úi một tiếng to thì ở ngoài sân đã cất lên một giọng nam trầm:
Mở cổng cửa kẽo kẹt
Nghe tin khách đến nhà
Tắt lửa chớ tắt đèn
Cho khách đến rạng mặt
Bất ngờ quá, còn chưa kịp ra đón đã nghe thấy bài hát Xin mở cửa mở cổng rồi. Trời, mà nghe giọng hát thì thấy đúng là ca sĩ lão luyện chứ đâu phải loại tầm thường. Một cô vội mở toang hai cánh cửa. Miệng vừa bật tiếng reo mừng, cô đã thót mình húi một tiếng thẹn thùng và tọt ngay vào nhà. Trước cửa nhà, hiện ra từ lúc nào một vành trăng hạ huyền vàng thắm treo chơi vơi như một nét cười lệch miệng cùng anh Siểu và người khách trai là thầy Quang Tình. Húi! Tưởng ai?
Anh Siểu cười, phô hàm răng đều khin khít:
- Anh đây! Khách từ phương xa đến đây. Đêm nay, anh đại diện cho thầy Quang Tình đến hát đối đáp với các cô đây. Nào, hãy chuẩn bị đấu hát với anh để thầy Quang Tình thưởng thức nhé!
Pò Hỉ lom khom lật khật:
- Mời thầy giáo. Mời anh Siểu! Dà! Thầy giáo đến dạy học, mở mang dân trí, bản làng mở vươn Giáy là đúng rồi. Là đúng rồi!
Cánh cửa buồng bên trái nhà vội vàng đóng sập.
Trong buồng vẳng ra tiếng các cô cười rúc rích.
Đảo mắt quanh căn nhà, anh Siểu ghé tai thầy Quang Tình, giọng trầm trầm:
- Thầy Quang Tình nhìn nhé. Kia là bàn thờ của người Giáy tôi. Người Giáy tôi không chỉ thờ chung các đời tổ tiên mà còn thờ cả thổ thần, thờ cả bà mụ liên quan đến sinh đẻ và trẻ sơ sinh, có khi còn thờ cả tổ tiên bên ngoại nữa. Những tổ tiên xa xưa được thờ để các vị làm ma giữ cửa. Người Giáy chúng tôi cho rằng: ngoài thế giới người sinh sống còn có thế giới trên trời và thế giới trong lòng đất. Mỗi người chết đi nếu được cúng quải chu đáo thì được lên trời sung sướng. Bằng không, sẽ phải xuống thế giới trong lòng đất rất đáng sợ, thầy ạ.
Anh nói tiếp:
- Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Cũng trên cái bàn thờ kia. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đỏ, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giờ trong việc tang của chính người đó.
Nghe tiếng lao xao ở ngoài sân, cửa căn buồng vội hé mở, một cô gái ngoái ra, quát: “Vào đây!” - Tức thì một tốp con gái choai choai áo xanh áo vàng len lén đi qua trước mặt anh Siểu và thầy Quang Tình, vừa bưng miệng cười vừa chạy ập vào.
Anh Siểu hất hàm, tủm tỉm:
- Quân tiếp viện cho cánh nữ đêm nay đó, thầy Quang Tình. Người Giáy tôi có vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao khá phong phú. Có cả những truyện thơ dài, kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca thì có nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, nhiều điệu khác nhau. Đặc biệt như đêm nay là hình thức hát giao duyên nam nữ.
Anh Siểu chưa nói hết câu thì cánh cửa buồng đã mở toang. Thầy Quang Tình bất giác nhổm người dậy. Một vườn hoa muôn hồng ngàn tía. Xanh đỏ tím vàng. Những gương mặt con gái rạng rỡ hân hoan.
Người nào ở cổng gọi ta
Ở xa, người nào gọi ta đó
Mời vào ngõ, vào nhà
Ta làm hoa với bạn.
A! Bài hát khai đề đón khách đấy, thầy giáo à. Anh Siểu lại ghé tai thầy Quang Tình. Theo anh Siểu, thầy Quang Tình tụt giầy vải, leo lên chiếc giường đã trải sẵn chiếc chiếu hoa ở gian bên phải. Giữa nhà, chiếc đèn ba dây vừa treo sáng vằng vặc. Người đến dự đám hát như ẩn nấp sẵn ở đâu, lặng lẽ tuồn vào nhà, thoáng cái đã đầy ních gian giữa. Hết chỗ ngồi, hết cả chỗ đứng rồi. Người vẫn thúc lưng nhau, chen qua cửa. Gái đồng trinh, trai tơ, ông năm con, bà bảy con, cụ già cháu chắt đầy nhà, nét mặt ai này cũng phơi phới dưới đèn hoa và nôn nao đón chờ. Cánh đàn ông trung niên leo hết lên chiếc giường, sán lại cạnh anh Siểu, dáng chừng vốn là bạn hát trước nay vẫn kết bè đối đáp với đám khách nữ.
Thầy Quang Tình không thể ngờ buổi hát lại diễn ra tự nhiên và kỳ lạ đến thế. Vì thầy không hiểu tiếng Giáy, anh Siểu vừa đóng vai khách từ phương xa đến, vừa là người phiên dịch cho thầy. Chà, buổi hát đúng là có lớp lang, bài bản tuần tự hẳn hoi chứ đâu có là chăng chớ. Thoạt đầu là hát chào, rồi hát mời nước, mời thuốc có kèm theo động tác đưa ống điếu, rồi lan sang các điệu hát khác, dưới hình thức thách đố và trả lời. Bên khách, bên chủ, hát bài nào thì có bài đối đáp tương ứng. Mỗi bên đều có người cầm đầu. Bí thì có thể mời thầy, mời sư phụ chỉ bảo, nếu bên kia đồng ý. Tất nhiên càng lúc bài hát càng khó dần, đòi hỏi người hát phải biết biến hóa và giàu tài năng sáng tạo. Xem ra thì đúng là một tống kháo vùn trang, như anh Siểu nói, tức thi đấu văn chương. Và tất cả đều là các tài tử ca sĩ dân gian. Nhất là anh Siểu, con chim sơn ca biết cả trăm điệu, cả ngàn bài.
Đêm nay cớ làm sao
Người cao xem người thấp
Chim rừng ca ríu rít
Giữa cành mít bụi lau
Gà rừng nơi đâu gáy
Giờ này ai reo hát
Giọng hát thật véo von
Như nước sông uốn khúc.
Bấy giờ buổi hát đã vào sâu. Giai điệu Giáy càng lúc càng mềm mại, mượt mà. Hớp rượu đầu đã ngấm. Chuyện vân vi quanh điếu thuốc, miếng trầu chuyển sang chuyện kể ơn người phát nương trồng cây thuốc, chăm bón dàn trầu. Lan dần sang chuyện dựng nhà dựng cửa, lập bản, lập làng.
Ông Looc cạp dựng núi
Ông Looc tô dựng cây
Cha vác rìu lên chặt
Nhà cha dựng mười gian
Nhà cha dựng mười phòng.
Chẳng bao lâu các khúc hát có tính giao đãi ban đầu đã qua. Đã đến lúc kẻ tung, người hứng. Đã đến lúc miệng gái chủ nở hoa. Đã đến lúc trai phương xa ngọt ngào tiếng hát. Chiếc điếu ống chuyền tay các anh bên trai ùng ục như sôi. Hồi hộp bồn chồn dâng lên khuôn mặt từng tài tử dân gian.
Đố anh xin đố anh
Bứt lá đào lá kháo
Nếu lá kháo mà chìm
Lá đào lắng đáy suối
Đá sỏi nổi mặt nước
Thì em sẽ yêu anh.
Chà, bên nữ đã xuất chiêu. Đã chuyển sang tiết đoạn gay go nhất rồi đây. Đám bên trai xôn xao. Anh Siểu dựng thẳng người dậy, e hèm dọn giọng:
Nghe nàng bứt lá kháo ném ao
Hái lá đào thả suối
Ba tuần lá chìm ngay
Lâu ngày lá lắng đầy
Đá sỏi nổi theo sóng
Nước xói mạnh nổi lên
Hỏi em đã yêu chưa?
Ha ha... Thích chí, đám các ông ngồi bên anh Siểu đập tay xuống mặt chiếu, reo ầm ĩ. Có ông còn thượng cả hai chân lên giường, nện gót chân phình phịch. Nhưng các anh mừng hơi sớm. Cánh nữ đã lập tức lên tiếng rồi.
Cây kia mọc bờ ao
Cây cao mọc bờ suối
Lòng anh ước với hoa
Chỉ e là phận nhỏ.
A ha! Anh Siểu reo khe khẽ và ghé tai thầy Quang Tình: Thầy chú ý. Bọn các cô Rin, cô Nòn, cô So... nó giở bài tủ ra đấy. Thầy nghe tôi dịch nhé:
Hỡi chàng
Cái yêu nó thế nào
Cái nhớ ra làm sao
Là lá em xin tuốt.
Căn nhà nở rộ những tiếng xuýt xoa. Vườn yêu đã hé cổng. Anh Siểu quay phắt lại, chẳng cần lấy hơi đã cất giọng nồng nàn.
Yêu em ta để trong lồng ngực
Nhớ em ta giấu ở trong trái tim
Thương kín nhớ thầm đâu dám nói
Nói ra cửa miệng e gió cuốn
Nói ra đầu lưỡi e gió tạt.
Cánh nam được dịp lại hò reo ầm ầm. Thì vừa lúc ngoài cửa có tiếng reo: Pò Rúm! Pò Rúm đến!
Pò Rúm đến thật. Ông rẽ lối đi vào. Và thật bất ngờ, ông thoăn thoắt bước tới phía chiếc giường đang túm tụm các cô gái.
- Pò ơi. Pò say rồi. Pò lạc lối về rồi!
Có tiếng người gọi. Anh Siểu vỗ vỗ hai bàn tay: Để nghe pò nói nào. Quả nhiên, pò Rúm đã quay mặt ra gian giữa, mặt ửng hồng, cất giọng thật tự nhiên:
- Tôi không say! Tôi không lạc lối. Siểu nó đại diện hát cho khách phương xa. Tôi là người của làng Nhuần ta chào đón thầy giáo Quang Tình sao không đúng à! Nào, cho tôi hát với cái Dín cái Nòn cái Sín bên nữ để chào mừng thầy Quang Tình nhé.
Thầy Quang Tình nhận ra hai con mắt pò âu yếm nhìn mình và không ngờ giọng ông lại trẻ trung và say sưa đến thế.
Câu hát nối câu hát. Câu hát quyện câu hát. Câu hát đan lóng đôi. Khách và chủ như ong với hoa. Chuyện tình đôi lứa dào dạt như nước xuống bậc, như nước xuống thang. Hỏi và đáp. Đố rồi giảng. Khúc giao tình, khi gần gụi lúc xa xôi, trăm giai điệu, ngàn cung bậc, vạn khúc nhôi. Có thêm pẩu sray, có thêm người mách bảo, đêm hát càng có không khí đua tài nên lúc càng đắm say. Có pẩu sray bên nữ như hổ có thêm cánh. Từng nấc một, càng lúc càng khó, lo nhất là có người hát kém sẽ bị loại bỏ, ra khỏi cuộc chơi, biến thành người chầu rìa, khán giả. Nay có pò Rúm làm sư phụ rồi, còn lo gì!
Ngoài sân, vành trăng lệch đã ngả về một góc trời. Thắm ngồi dịch ra đầu giường gái chủ. Mặt Thắm hồng lịm. Từ đầu buổi hát, Thắm mới chỉ hát những vươn chỉn tiêu, những bài hát học trò, những bài hát phổ thông ai cũng có thể biết. Còn những bài hát bậc sư, bậc thầy?
- Thắm hát đi! Hát đi, Thắm!
Thì thầm tiếng bạn gái giục giã bên tai Thắm. Nhưng làm sao Thắm hát tiếp được. Từ lúc vào buổi hát cho đến giờ, Thắm đã nhận ra ánh mắt thầy Quang Tình lúc nào cũng đăm đắm nhìn mình. Lúc này càng khuya ánh sáng của chiếc đèn ba giây càng tỏa rạng. Đó cũng là lúc thầy Quang Tình nhìn rõ Thắm nhất. Trông nghiêng,
nét mặt Thắm là những đường nét van vát phác thảo hình một trái đào. Thầy hiểu: Thắm là người con gái của một xứ sở có nền văn hóa tươi đẹp, thấm đẫm tình yêu với cuộc đời và con người.
o O o
Xoèn xoẹt xoèn xoẹt...
Hai bả vai moi mỏi một cách thú vị, nhìn lưỡi cưa anh ánh màu thép xanh vặn chéo mười lăm độ, thầy Quang Tình thấy lòng mình từ từ dâng lên một niềm vui say tin tưởng. Tin tưởng rằng chỉ ít lâu nữa thôi, bằng sự nhận biết và phân giải của trí thức, thầy sẽ lần lần nắm bắt được hết các kỹ thuật của nghề này. Nắm được kỹ thuật và nhờ vào sự sáng dạ lẫn khéo tay, chẳng bao lâu, thầy sẽ biến tất cả kỹ thuật tiếp thu được thành kỹ năng và kỹ xảo. Thầy sẽ thành một người thợ mộc chuyên nghiệp với những sản phẩm tinh xảo, để có thể trước mắt là nuôi được người vợ trẻ đang thất nghiệp vì lây cái vạ của thầy và hai đứa con còn đang rất thơ dại. Vợ thầy, cô giáo Thắm dạy trường mẫu giáo, thế là cũng đã bị chính quyền sa thải do cái án kỷ luật của thầy. Hiệu ứng domino quả là một vũ khí lợi hại và vô cùng giản tiện đối với bất cứ một nền chuyên chính nào.
Thầy Quang Tình thương yêu vợ con lắm. Thương nhất Thắm. Lấy Thắm tức là thầy đã kết thân với một nền văn hóa tươi đẹp và giàu bản sắc, có ai ngờ lại là đưa
Thắm lên một con thuyền lên thác xuống ghềnh. Thành ra, trong khi chú mục vào từng động tác tập tành, đầu óc thầy vẫn vấn vương bóng hình Thắm và hai đứa con. Một tháng trời đã qua. Qua bài học cưa ngang, thầy đã bắt sang bài tập cưa dọc, rồi chuyển sang học sử dụng loại cưa răng nhỏ như răng cá chuối chuyên dùng để cưa cắt mộng. Và tiếp đó, một hôm đang tập sử dụng loại cưa hạt mướp, răng cưa cấu tạo hai chiều để đẩy xuống kéo lên đều ăn vào vật cưa, trong tiếng cưa rầm rì, xèn xẹt xèn xẹt... thầy bỗng dừng phắt thao tác, ngẩng lên, mặt bần thần ngơ ngác như vừa phát hiện ra điều gì thật hệ trọng.
Kéo cưa lừa xẻ. Ông thợ nào khỏe. Thì ăn cơm vua. Ông thợ nào thua. Thì về bú tí mẹ. Kéo cưa kéo kít. Làm ít ăn nhiều. Nằm đâu ngủ đấy. Nó lấy mất cưa. Lấy gì mà kéo. Tiếng ai hát bài đồng dao nọ sao mà quen quá. Ngẩn ra một thoáng thì thầy nhận ra đó là tiếng hát của Thắm vợ thầy. Ôi, những ngày yên bình trong trẻo, cái cảnh Thắm vui đùa cùng hai đứa con thầy! Thắm đã biết cả những bài hát đồng dao của dân tộc Kinh. Đứa trẻ ngồi trên hai đầu gối người mẹ. Bốn cánh tay mẹ con níu vào nhau cùng kéo đi đẩy lại mô phỏng động tác kéo cưa lừa xẻ của hai người thợ. Cứ thế đưa đi đẩy lại. Cứ thế! Cứ thế! Nhịp nhàng và nhịp nhàng! Rồi đến cái kết thúc là đứa trẻ ập vào ngực mẹ nó cùng tiếng cười như nắc nẻ của hai mẹ con rộn vang trong căn nhà nhỏ một thời đã xa. Quang cảnh hạnh phúc ấy sao giờ lại trở thành xa xôi thế!
“Xin phép sư phụ cho tôi tạt qua nhà một lát.” Đến trước ông Văn Chỉ, vừa thở hào hển, vừa lễ phép và run rẩy, thầy Quang Tình nói. Và chẳng cần ông phó mộc gật đầu đồng ý, thầy đã vội khoác chiếc áo sơ mi ra ngoài chiếc may ô, rồi cắm cúi đi.
Vuông sân đất nện trước túp nhà trắng phếch. Hai cánh cửa ra vào túp nhà long đinh ỏe sang hai bên. Hai con chim sẻ lúc rúc trên mái gianh. Gió từ xa thổi lại mang mùi tanh khẳn.
Túp nhà của thầy ở kiệt cùng trong một cái xóm nghèo, tiếp giáp với một vùng đất hoang, vốn xưa là bãi tha ma. Hẳn là hôm qua lại có đám bốc mả. Hai con gà đang bới bếp thấy bóng người nhảy tóe ra. Bụi tro bay mù mịt. “Quang Sinh, Quang Bình ơi!” Thầy vừa cất tiếng gọi hai đứa con vừa lúi húi thu dọn đồ đoàn, sách vở giấy bút rơi vãi tung tóe trên đất. Không thấy hai đứa trẻ đâu. Thầy vòng ra sân trước. Lại cất tiếng gọi. Rồi thầy sùng sục đi vào mấy ngõ xóm lân cận. Hai đứa trẻ đang nhao nhác tìm mẹ.
- Bài tập bố giao con làm xong rồi. Nhưng chúng con đói.
- Mẹ Thắm đi đâu rồi? Sao mẹ không về nấu cơm?
- Một tuần nay, bố đi học nghề mộc thì mẹ Thắm cũng đi. Mẹ xách cái làn nhựa đỏ đi. Không biết mẹ đi đâu, làm gì. Chỉ thấy mẹ bảo, mẹ thương bố và các con.
Định bụng nhóm bếp dầu, nấu xong nồi cơm, rang mấy hột lạc cho hai con ăn xong, thầy sẽ lại tất tưởi đến xưởng của ông phó mộc với công việc đang dở dang thì thầy bỗng nhận ra dưới gầm chiếc bàn kê gần mấy cái kệ sách còn sót một tờ giấy bị gió thổi rơi. Bò vào nhặt, thầy đứng dậy và nhìn mấy dòng chữ trên tờ giấy nọ. Thầy bất ngờ nhận ra, đó là một bài thơ mình viết đã lâu:
Mắt anh dù có mờ
Dáng hình em trẻ mãi
Đọng nét trong giấc mơ
Thơm tho hạt mùa mới
Và âm vang êm dịu
Từ lúc em còn thơ
Giọng em đẹp như thơ
Trí ta dù nghễnh ngãng
Quên nhiều điều vặt vãnh
Câu thề em đưa tiễn
Suốt đời ta không quên.
Bài thơ này thầy viết hồi mười chín tuổi để tặng Thắm, mối tình đầu của thầy, người vợ chung thủy hiện nay của thầy. Khổ thân Thắm! Lấy chồng nàng phải theo chồng, rời khỏi quê hương bản quán, như cái cây bị bứng sang trồng ở vùng đất lạ và gặp phải cảnh biến này!