Chương 5 .
Mỗi chúng ta, phải không em
Như hạt thóc trong nắm tay cách mạng
Tung lên giữa mùa gió lớn.
Đó là mấy câu thơ của Nguyễn Đình Thi thầy Quang Tình thường hay đọc cho Thắm vợ thầy nghe. Một cơn gió lớn đã đưa thầy Quang Tình về Làng Nhuần của người Giáy, rồi sau đó lại đưa thầy về trường Bổ túc Văn hóa Công Nông này.
Thầy hiệu trưởng ở đây tên là Hoàng Hủ. Quê thầy ở miền Trung. Nơi thầy vẫn tự hào là quê hương cách mạng. Nơi cái bát gọi là cái đọi. Uống nước nói là uống nác. Gội đầu nói là vo chôốc. Lộ hầu. Lộ nhãn. Mặt dài như mặt tuấn mã. Mày rậm. Thầy mang tướng con nhà võ. Tứ thời, lạnh thấu xương cũng như nóng đổ lửa, thầy chỉ nhất bộ bà ba nâu dấn bùn dày cộp, bên sườn kè kè cái điếu cày ngắn bằng gang tay. Đôi chân vòng kiềng, lộc khộc đôi guốc mộc đẽo lấy, vừa bước khuệnh khoạng thầy vừa ê a đọc chính tả cho các học viên chép: Con hộ chậm chậm xuộng hang. Học viên người viết: Con hổ (đi) chậm chậm xuống hang. Người khác lại viết: Con hổ: (hai chấm xuống dòng). Nghe nói thầy là một anh bần nông, được bắt rễ trong Cải cách ruộng đất năm 1956. Tiếp đó, học hết lớp ba bổ túc thì được cử làm đội phó đội Cải cách huyện, chuyên trách việc tòa án, trong đó có việc lập danh sách địa chủ gian ác để tử hình. Hết đợt, thầy về Đoàn ủy rồi được cử đi học khóa Bồi dưỡng kiểm soát viên bình dân học vụ cao cấp sáu tháng. Hết khóa thầy được đề bạt trưởng phòng giáo dục huyện. Rồi về làm hiệu trưởng trường này. Trường có bảy lớp, từ lớp một trở lên đến hết cấp hai. Có hai chục nhân viên văn phòng tạp vụ cấp dưỡng. Có ba chục thầy cô giáo. Và khoảng hơn trăm học viên, gồm các bí thư chủ tịch các xã người dân tộc thiểu số. Cốt cán cách mạng mà giữ chức vụ ở một đơn vị như thế là thấp! Nghe nói vì là thầy hồi làm đội phó Cải cách mắc tội hủ hóa với con gái địa chủ bị bắt quả tang.
Thầy hiệu trưởng Hủ chủ trương các giáo viên trong trường hàng ngày phải tập trung tại hội trường soạn bài, chấm bài để dễ kiểm tra tư tưởng lẫn nhau. Hàng sáng từ năm giờ, bốn mùa như nhau, tất cả đều theo kẻng dậy tập thể dục. Ăn sáng xong là ba mươi phút nghe đọc báo. Buổi tối chín giờ là giờ tự tu, ba người một tổ họp kiểm điểm công việc ưu khuyết hàng ngày, có biên bản gửi lên lãnh đạo. Mười giờ tập hợp điểm danh.
Một lần tỉnh mở cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh. Thầy Hủ họp các giáo viên nhà trường phổ biến ý nghĩa mục đích cách thức rồi dặn:
- Phiếu bầu của các thầy phải ghi rõ tên các đồng chí có tên sau đây: Trường Sinh, bí thư tỉnh ủy, Phạm Mạnh, phó bí thư tỉnh ủy...
Thầy vừa nói dứt thì một thầy nhanh nhẩu giơ tay.
Thầy hất hàm:
- Nói chi thì nói, nhưng nỏ có được bàn lùi. Thầy nọ hạ tay, nhếch mép:
- Nếu thế thì tôi thôi không nói nữa. Thầy Hủ nghe vậy liền cau mặt:
- Hừ! Tư tưởng xấu xa ra răng mà không dám nói hỉ?
Thấy mình bị chụp mũ, thầy nọ liền lên giọng khảng khái:
- Nếu tôi không đồng ý bầu cho mấy đồng chí đó, đơn giản chỉ là tôi không thích thì sao!
Lập tức thầy Hủ phắt dậy, giật giọng:
- Ai cho anh lương thưởng hàng tháng mà anh dám
nói là không thích! Anh có biết rằng anh nói rứa là vô tổ chức là chống đối lãnh đạo không?
Bên co bên kéo, thầy nọ cũng đỏ văng mặt, dằn:
- Tôi không chống đối lãnh đạo, nhưng tôi không thích bị áp đặt.
Đến nước này thì không thể kìm cơn giận dữ được nữa nên thầy Hủ đứng phắt dậy, chỉ mặt thầy nọ, đùng đùng:
- Thì sẽ nhận kỷ luật chứ sao! Rồi đập bàn đánh chát, quát:
- Mi mà nói vô tổ chức như rứa nữa thì tôi đuổi cổ mi ra ngay khỏi nhà trường ni. Mồ cha không khóc khóc đống mối chắc! Định ngang tay mà dám với trời hỉ!
Thầy vừa nói tên Bùi Lễ. Đồng hương miền Trung với thầy hiệu trưởng, thầy Lễ dạy toán. Cùng dạy với thầy Bùi Lễ và thầy Quang Tình hồi ấy còn có thầy Trần Đình, người Bắc Ninh, dạy lịch sử và triết học. Thầy Đình là con một luật sư nổi tiếng. Ba thầy mỗi người một tính, một tài nhưng rất thân nhau. Thầy Trần Đình vóc người cao ráo, khôi ngô, tuấn tú, khúc chiết, rành rẽ, coi trọng duy lý. Thầy Quang Tình giống một phép chia hết cân bằng tình lý, tuy về căn bản là con người duy cảm, xem xét cuộc sống và xử sự theo nhịp đập của con tim. Trong khi đó, thầy Bùi Lễ thân vóc tầm thước, thần thái chỉnh tề, nhưng tẩm ngẩm tầm ngầm, hóm nghịch, khoảng khoát, chủ trương lấy ngẫu hứng làm ông thầy dẫn lộ.
“Tất cả chỉ là ngẫu nhiên”, thầy Lễ nói. “Mà ngẫu nhiên là một khía cạnh của cái tất yếu, cho nên cứ sống cho tự nhiên, không việc gì phải lo âu, tính toán, phòng bị.” Và để chứng minh cho ý tưởng đó, thầy kể chuyện ông thân sinh ra thầy. Là một danh họa, thoạt đầu ông chỉ vẽ tranh sơn dầu phong cảnh. Một lần ông gửi ở một gallery bức Thúy Kiều gặp Từ Hải. Có một ông khách Bắc Âu đến xin mua. Hỏi: “Đây là bức tranh vẽ hai nhân vật điển hình tài sắc trong một tác phẩm thơ kinh điển của người Việt, chắc ông đã đọc?” thì ông khách đáp: “Không, tôi chỉ thích con ngựa ở tít xa trong bức tranh của họa sĩ kia kìa.” Từ đó ông thân sinh ra thầy Lễ chỉ vẽ ngựa! Vẽ cả nghìn con, đủ các kiểu dáng tình huống trên chất liệu giấy dó. Mỗi con trong ba phút. Mỗi con một thần thái, chẳng con nào giống con nào.
Đang lúc thầy hiệu trưởng Hủ sắp nổi trận lôi đình vì lời phát biểu vô tổ chức của thầy Lễ thì thầy Trần Đình liền giơ tay, rành rẽ:
- Xin thầy Hủ bình tĩnh. Nóng giận lí trí dễ mất sáng suốt. Xưa các cụ ta đã nói: “Có trí hơn chim, bắt được chim. Có trí hơn người, trị được người.” Vả lại, ở đây có sự hiểu lầm nho nhỏ. Theo tôi hiểu, điều thầy Lễ nói chỉ là nếu, có nghĩa là giả định, giả thử, chứ chưa xảy ra. Do đó cũng đề nghị từ nay thầy Lễ cần thận trọng hơn khi phát ngôn, đừng tự nhiên nhi nhiên như thế, bất lợi.
Thấy thầy Đình tháo ngòi nổ khéo quá lại có ý răn
dạy thầy hiệu trưởng, thầy Quang Tình thích thú liền xì vào một câu đúng hai từ Đúng rồi! rất vô thưởng vô phạt. Vậy mà đâu có ngờ, thầy hiệu trưởng bần nông dẫu văn hóa có thấp cũng tinh ý nhận ra dụng ý dạy khôn của thầy Đình và kiểu thừa gió bẻ măng chọc tức của thầy Quang Tình, liền lừ mắt lườm xéo qua mặt cả ba thầy.
- Ở ni, người lãnh đạo cao nhất là tôi. Bí thư chi bộ Hoàng Hủ! Ba người đừng có hòng về hùa với nhau chống lại tôi!
Nói rồi, ngồi phịch xuống ghế, tặng cho mặt bàn ba cú đấm liên tiếp, ra ý sẽ dùng bạo lực của quyền hành.
Chuyện qua đi mà chẳng qua đi. Trong sổ đen theo dõi của thầy hiệu trưởng hiển nhiên là đã có tên của thầy Lễ lẫn thầy Quang Tình và cả thầy Trần Đình nữa.
Biết vậy mà thầy Bùi Lễ hai mươi sáu tuổi, đang thời sung mãn, vẫn cứ nhơn nhơn như không, như trêu ngươi thầy hiệu trưởng. Thực ra ai đã có thời làm thầy đều hiểu một điều giản dị sau đây. Trong trường học, mỗi thầy là một anh hùng nhất khoảnh. Xin ngài chớ đi quá cái mũi giầy của ngài. Câu thành ngữ ấy của người Pháp thật chính xác.Tôi dạy toán. Anh dạy văn. Bác làm hiệu trưởng chỉ đạo chung. Nghề là cái phương tiện của con người để biểu hiện cái tài cái tâm cái ích dụng của họ. Chẳng ai tranh tài lấn sân được của ai hết. Chưa kể, thầy Lễ là ông thầy dạy đã giỏi, từ việc soạn bài chấm bài đến lên lớp thao giảng, việc nào cũng chỉn chu mực thước. Đã thế lại nhiều tài lẻ, đặc biệt là cái tài kẻ vẽ. Chữ thầy viết tay đẹp lắm. Chân phương, không nắn nót mà chữ nào cũng có thể làm mẫu. Ỏe bàn tay thầy ra xem thì thấy đầu mười ngón đều có hoa tay xoay tròn. Thì chẳng phải thầy là con trai một họa sĩ tài danh, đã từng có triển lãm tranh ngựa tại Mông Cổ xứ ngựa, sánh ngang với họa sĩ chuyên vẽ ngựa Từ Bi Hồng nước Tàu đó sao. Băng rôn, phông màn trang trí lễ hội trong trường, tất cả đều từ tay thầy kẻ vẽ mà đẹp huy hoàng tráng lệ. Tên người trong bằng khen, giấy chứng chỉ của nhà trường có chữ ký của thầy hiệu trưởng được chính tay thầy viết bằng ngòi bút rông chấm mực xanh đen, đẹp trang trọng hương vị cổ điển, thật đáng nâng niu lưu giữ!
Thầy Lễ kết thân với thầy Quang Tình và thầy Trần Đình vì cả ba cùng một lứa tuổi, cùng một cơ tầng hiểu biết và chung một bầu tâm sự. Sau chuyện va chạm với thầy hiệu trưởng, trong một cuộc trò chuyện với nhau, thầy Đình đã có ý khuyên can thầy Lễ, rằng thì là thái quá bất cập, không phải lúc nào cái tính hồn nhiên cũng biểu lộ được sức mạnh tất thắng của tự nhiên đâu. Cãi lại, thầy Lễ hóm hỉnh nói: “Theo mình, trên thế gian này, con người đâu có sống thân ái với nhau. Con người vốn là giống hay cạnh tranh hơn kém nên họ chỉ nhăm nhăm tìm cách hại trừ nhau một cách thân ái thôi! Biết thế nên cứ vô lo mà sống.” Rồi cười hì hì vô tư.
Quả nhiên, đòn trừng phạt đầu tiên của thầy hiệu trưởng giáng đúng vào cái tài kẻ vẽ của thầy Lễ. Tết các nhà giáo 20 tháng 11 năm đó, từ hội trường đến nhà ăn trang trí tưng bừng cờ hoa phông màn khẩu hiệu. Tiếc cái tất cả đều xấu xí, xiên xẹo, vẹo vọ, phản mỹ thuật vì thiếu tay người có tài chuyên trách. Không sao! “Có tài mà không có đức cũng vứt,” thầy hiệu trưởng tuyên bố. Bằng khen, giấy khen các loại của từ học viên đến cán bộ nhân viên nhà trường cuối năm đó cũng giao hết cho văn thư viết kẻ, xấu tí cũng chẳng sao. Đến học kỳ sau thì chức trách chủ nhiệm lớp của thầy Lễ dạy môn chủ lực là Toán học cũng bị bàn giao cho một cô giáo dạy môn thể dục. Sĩ khả sát, bất khả nhục. Bị xúc phạm, được khuyên viết kiện lên Sở, thầy Lễ trước sau một mực vẫn cứ lắc đầu. “Vi nhân nan! Vi nhân nan! Làm người khó thay!” - thầy Đình than. “Vì sao? Mọi chân lý đều thể hiện hệ hình tri thức thời đại mà hệ hình tri thức thời đại là do quyền lực đẻ ra. Vậy nên ông cha ta đã có phương châm xử thế Tùy thời chi nghĩa đại hỷ tai! Cái nghĩa tùy thời lớn vậy thay! Tôi khuyên hai thầy nên áp dụng.” - thầy Đình nói.
Cũng xuất thân tiểu tư sản nhưng có ưu thế lớn là đã vào Đảng trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự hồi mới mười tám tuổi, lại có bằng chính trị trung cấp, lẽ ra thầy Lê Đình phải là đối thủ nặng ký của thầy Hủ mới phải. Nhưng do thực hành phương châm tùy thời theo cách hiểu riêng của mình, thầy tránh được mũi dùi của thầy hiệu trưởng. Đã thế thầy còn được đề bạt hiệu phó và là chi ủy viên chi bộ Đảng.
Tuy nhiên phải nói thêm rằng, ngoài thầy Bùi Lễ ra, thầy hiệu trưởng kiêm bí thư chi bộ Hoàng Hủ còn có ác cảm đặc biệt với thầy Quang Tình. Ác cảm tất nhiên từ thành phần xuất thân tiểu tư sản đến cái gương mặt trắng trẻo thư sinh, thói ham mê thơ ca và cái tủ sách đóng lấy bằng gỗ bắp mọt chất ngất ba tầng toàn sách là sách.
- Này, thầy Quang Tình! Đã suốt ngày thơ với thẩn, giờ lại đàn với địch. Mà Quốc tế ca hùng tráng sao không gảy lại gảy cái bài chi mà ẽo uột ủy mị như rên rỉ rứa. Nhạc vàng là cấm đó, thầy.
- Dạ, thưa đó là bài Chiều ngoại ô Mátxcơva của một nhạc sĩ Liên xô thành trì cách mạng thế giới đấy ạ.
Hứ! Tất nhiên, đáng phê nhất là thái độ chống đối bướng bỉnh. Quy định của Ban Giám hiệu rõ ràng là một tuần ba buổi các giáo viên bỏ công việc soạn bài chấm bài đấy, xuống làm cấp dưỡng, chăn nuôi lợn gà, để vô sản hóa, cải tạo tư tưởng, học tập công nông. Mọi người đều tuân theo răm rắp. Vậy mà trong một cuộc họp thầy Quang Tình lại đứng dậy, nói rằng:
- Vậy thì, chúng tôi đề nghị, trong ba buổi chúng tôi xuống bếp nấu ăn, chăn nuôi lợn gà thì các chị cấp dưỡng lên soạn bài chấm bài thay cho chúng tôi.
Mọi người cười ồ ồ. Không thể chịu đựng được thái độ chống đối ra mặt ấy của thầy Quang Tình, thầy Hủ đỏ mặt tía tai, quát:
- Phản ứng giai cấp hỉ! Quang Tình, chớ có láo. Liệu cả đời anh có mần được một ngọn rau, một quả bí không?
Tưởng thế là yên. Đâu có ngờ, anh chàng giáo viên văn mảnh khảnh nọ nén cái uất trong người, mò mẫm ra tận phố huyện nhờ mấy anh kỹ sư nông nghiệp ở huyện làm tư vấn, rồi trở về đào một cái hố rộng mỗi bề một mét, đổ xuống cả mấy chục ki lô phân hoai và gieo lên một lúc hai chục hạt bí đao giống. Sáu tháng sau lại chính là anh ta gánh hai cái thúng đầy bí, nặng phải đến bốn chục ki lô, đến biếu không cho bếp ăn. Bằng tát vào mặt thầy hiệu trưởng Hủ còn gì! Nhưng mà không. Đã trải qua môi trường đấu tranh giai cấp, thầy hiệu trưởng đâu có còn non nớt. Điềm nhiên như không, đứng ở ngay giữa gian bếp, thầy hiệu trưởng bật cười ha ha, rồi vỗ đùi đánh bộp:
- Thấy chưa, tôi nói đâu có sai. Phản ứng giai cấp! Phản ứng giai cấp đích thị rồi! Cái anh tiểu tư sản là thế đó. Nghĩa là hắn y sì cái b. của thằng đàn ông. Lúc hắn cửng lên thì như thỏi sắt nguội, còn khi hắn xẹp xuống thì có khác chi cái dải khoai héo. Cách mạng mà dựa vào bọn ni thì bỏ mẹ có ngày! Hà hà!
Đám các cô cấp dưỡng chúi vào nhau cười mà đỏ rửng mặt mày. Chưa hết. Sắp tới kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, công đoàn nhà trường đề chỉ tiêu thi đua: mỗi đoàn viên đào 30 hố trồng cây và hẹn ngày mồng 3 tháng 3 phải hoàn thành. Các cán bộ
giáo viên trong trường hăng hái bắt tay vào công việc và thật sự lo lắng, khi sắp đáo hạn mà vẫn chưa thấy bóng thầy Quang Tình đâu. Thì ra lúc đó thầy đang được phân công đi cơ sở chiêu sinh. Tận ngày mồng 2 tháng 3 thầy mới trở về. Và khi biết chỉ tiêu đã đặt ra cho mỗi đoàn viên, vốn sốt sắng với việc chung và không bao giờ muốn thấy mình là người hèn kém, thầy liền xắn tay áo vào việc ngay. Suốt ngày, suốt đêm đó thức trắng, thầy hì hụi với công việc. Và sáng ngày 3 tháng 3 đúng hẹn, thầy mời lãnh đạo đến nghiệm thu.
- Một, hai, ba...
Thầy hiệu trưởng Hủ lẩm nhẩm đếm đi đếm lại, cuối cùng tung hai tay lên trời:
- Húi, đúng là tiểu tư sản hăng bọ sít. Ai người ta yêu cầu anh đào những 33 hố. Hay là có ý đồ chính trị gì đây? Định bỡn cợt ai đây, hả anh chàng dài lưng tốn vải này? Này nên nhớ, tôi đã đi guốc vào bụng các anh rồi nhé!
Sao lại có thể nói năng một cách thô bỉ và khả ố như vậy. Mắt mở trừng trừng, thầy Quang Tình nhìn lại ông Hủ, rồi nhổ phịt một bãi nước bọt xuống đất và gằn từng tiếng:
- Ông-Hủ! Tôi-thất-vọng-về-ông-quá-rồi-đấy. Đồ-rác- rưởi-quái-thai-của-cách-mạng!
Nói rồi thầy quay phắt đi. Trong khi đó, ông Hủ mặt tím bầm trề môi:
- Được! Muốn già lừa ưa nặng thì có ngay!
Thầy Quang Tình, sức quyến rũ của một tấm lòng và một tài năng. Ôi, những tiết học thầy đứng trên bục giảng! Thầy thoắt trở nên một trang dũng hiệp vừa tài tử duyên dáng vừa oai phong lẫm liệt từ lúc nào vậy. Môn nào thầy cũng bộc lộ cái tài hoa đặc sắc của mình. Một cái hình tròn như vẽ bằng compa ư? Chỉ là một cái vòng tay của thầy trên tấm bảng đen thôi. Tấm bản đồ mỗi nước thầy vẽ chỉ bằng trí nhớ mà hệt bản đồ in. Thầy làm được cả những tiêu bản trong các môn sinh vật, vật lý, hoá học. Chất giọng ténor trong sáng của thầy dấy lên cả một phong trào ca hát trong nhà trường. Còn môn văn tất nhiên vẫn là môn thầy dạy hay nhất. Nghe thầy giảng, học viên như nuốt từng lời.
Tiếc thay thầy Quang Tình, thần tượng của học trò, cuối cùng hóa ra cũng đã không tránh khỏi vận hạn. Các giọt nước liên tiếp rơi xuống cốc nước đầy. Đặc biệt là khi các tỉnh miền núi bắt đầu thi triển công cuộc Cải cách dân chủ, đánh đổ địa chủ ác bá, cụ Lục Đình Hoàng dẫu đã mất cả chục năm vẫn bị bỏ rọ cùng thổ ty Sần Cồ Lỉn vốn giàu có bằng bóc lột dân nghèo, bị quy là thổ ty địa chủ, pò Rúm mất vì uất ức và Thắm bỗng nhiên bị liệt vào thành phần đối tượng của cách mạng. Rồi tiếp đó việc thầy lén lút học tiếng Anh từ ông John Frakel vỡ lở thì cốc nước đã hết chỗ chứa. Cùng năm đó thầy Bùi Lễ cũng bị điều đi dạy ở một trường vùng cao mà ai cũng
hiểu là một sự lưu đầy. Lý do là do thầy phạm luật bỏ vợ tảo hôn ở quê, bí mật kết hôn với một cô Tuất bán hàng khô ở chợ huyện. Công khai là vậy. Còn thầy Trần Đình lúc đó là hiệu phó thì bật mí cho biết: “Lão Hủ nó cay thầy Lễ lắm. Lão dâm dê này biết là thầy Lễ đã trông thấy lão hủ hóa mấy lần với cô Thoan cấp dưỡng ở trong bếp. Với lại, từ lâu rồi, ai bảo ông cùng quê với ông ấy. Có ai ưa kẻ biết rõ thuở hàn vi xoàng xĩnh của mình đâu.”
Ga tàu hỏa Làng Giàng bên bờ sông Hồng chiều mùa đông ấy ngập trong gió lạnh. Con tầu từ Lao Cai đang về. Nó sẽ đỗ lại ở ga lẻ này chừng ba phút. Ba phút cũng là thừa. Vì khách chờ lên tầu lúc này chỉ có vợ chồng thầy Quang Tình và hai đứa con, một đứa Thắm địu sau lưng, một đứa Thắm dắt tay.
Cái cánh cửa gỗ ở đường ra ke long bản lề ỏe ngửa vì ải mục chốc chốc lại rên lên ẽo ẹt vì gió. Thầy Bùi Lễ và thầy Trần Đình ì ạch khuân vác hộ đồ đoàn của hai vợ chồng thầy Quang Tình ra sân ke. Bảy tám cái bao tải căng phồng nặng chình chịch toàn sách là sách. Mặt thầy Quang Tình xanh rớt như màu cái khăn bằng vải dù quấn cổ.
Dãy núi Hoàng Liên bên kia sông phủ phục một khối nặng nề u uẩn. Con sông Hồng mùa cạn dòng chảy liu điu buồn tênh. Một luồng gió từ bờ sông hắt lên, qua nhà ga vắng vẻ như chốn không người, thốc ra sân ke, cuốn bụi thành hình một cái phễu xoáy tít, gây một cảm
giác rờn rợn, khiến tất cả cùng quay mặt đi để né tránh. Ôm chầm lấy bạn, thầy Trần Đình khe khẽ:
- Quang Tình à, đừng quá buồn. Sự thể nó là thế. Nhưng mình tin rằng có một cuộc sống hay một cái gì đó, cao hơn tất cả! Cao hơn cuộc sống quan phương. Cao hơn tất cả!
- Nói là không buồn thì vô lý. - Thầy Quang Tình ngùi ngùi - Nhưng cùng với buồn còn là một nỗi xót thương. Mình xót thương cho Thắm và hai con. Xót thương cho cả những học viên mình đang dậy, Lễ và Đình à. Hôm qua là buổi lên lớp cuối cùng. Mình gọi ông Tẩn A Phìn bí thư chi bộ xã Tả Ngảo, lá cờ đầu về thủy lợi toàn tỉnh, lên đọc bài. Ông đứng một lúc rồi dấn dấn nước mắt. Và khi mình hỏi: “Sao thế?” thì ông đột ngột khóc òa. Rồi nói trong nghẹn đắng: “Bao giờ tôi mới lại được học thầy nữa thầy ơi!”
- Mình tin lời Đình. - Ôm chầm lấy thầy Quang Tình, thầy Lễ rưng rưng - Nhớ viết thư cho nhau. Chúng mình, cùng một cảnh long đong vất vả, sinh bất phùng thời.
Chiếc kẻng như quả bom câm treo ở đầu nhà ga phát một chuỗi âm thanh lanh lảnh nghe xốc xáo cả tim gan. Vẳng từ xa lại một tiếng còi tầu hú lẻ loi. Một ông già thọt tay nắm cờ vàng tập tễnh bước ra đứng ở đầu ghi. Đình nắm tay Quang Tình, nén một hơi thở dài:
- Yên tâm đi! Cuộc cách mạng nào bên cạnh mặt tốt đẹp cũng có cái phần ngu xuẩn cực kỳ của nó, Quang Tình à.
- Sao? Cuộc cách mạng và sự ngu xuẩn?
Thầy Lễ sửng sốt. Thầy Đình dang hai cánh tay dài choàng qua vai hai bạn, chép miệng thản nhiên:
- Đấy không chỉ là ý kiến của mình đâu. Đấy chính là ý tưởng của Friedrich Engels đấy, hai bạn ạ.
Tiếng còi tàu đã thét vang ở đầu ghi. Một cuộc chia tay cũng đã buồn. Còn đây là cuộc chia tay của những bốn con người. Thầy Đình và thầy Lễ cùng nghẹn lời:
- Cô Thắm đi bình yên nhé!
Thắm cúi xuống nhắc đứa nhỏ đang dắt trong tay:
- Quang Bình, chào hai bác đi con.
Nói rồi cô gằm mặt, hai mắt mưng mọng, lí nhí nghe mà não lòng quá:
- Em chào hai anh. Vợ chồng em cám ơn hai anh ạ!