← Quay lại trang sách

Chương 8 .

TOÓC TOÓC TOÓC... Chỉ cần nghe tiếng dùi đục đánh vào chuôi chiếc đục khoan thai hay lấp tấp ông cũng có thể biết trình độ tay nghề của anh thợ mộc rồi. Thầy Quang Tình hiểu là ông Văn Chỉ không nói ngoa. Trong ý nghĩ của thầy lúc này, ông Văn Chỉ quả là người thợ mộc kỳ tài. Thợ làm gỗ chia hai loại. Thợ làm nhà và thợ đóng đồ dân dụng - gọi là thợ ngang. Ông Văn Chỉ tự nhận mình chỉ là anh thợ ngang. Nhưng gần ông mới biết là về kỹ thuật làm nhà, ông cũng thông tỏ ngọn ngành. Làm nhà cũng có mẹo mực, có công thức thực dụng của nó. Thì từ cách đặt góc, cắt lựa xà dọc xà ngang, ông đều tưởng tận và đã kinh qua. Còn về các đồ hàng ngang, việc chuyên của ông hàng mấy chục năm nay rồi, thì khỏi phải nói.

Trước hết, về uy tín với khách hàng thì có lẽ chẳng người thợ nào mà không ước mơ có được như ông. Khách đến đặt hàng ông quanh năm suốt tháng không lúc nào vãn. Nhiều khi không sao có thể nhận xuể. Ứng ngay năm mươi, bảy mươi, thậm chí trăm phần trăm tiền công là chuyện bình thường. Vậy mà hàng phải ba tháng, sáu tháng, có khi cả năm sau mới có thể nhận được. Mà khách vẫn vui vẻ chấp nhận.Vui vẻ chấp nhận vì hàng đã nhận là không bao giờ sai ngoa, nếu không nói là đẹp hơn, tốt hơn với mẫu mã. Năm kia ông hoàn thành một cái tủ buýp phê mà khách đến phải tranh nhau, cuối cùng phải tổ chức gắp thăm và kết cục là một ông giám đốc dệt may ở thành phố giành được quyền, với giá bằng nửa chiếc ô tô Audi hạng sang. Cái tủ bằng gỗ sến, cao mét hai, rộng một mét, trạm trổ khảm khắc cầu kỳ đẹp quá, sang quá, nhìn nó mà mê mụ đi, mà run lẩy bẩy như tín đồ trước linh vật. Trân trọng quá đến mức ông giám đốc không dám thuê xe ô tô tải chở về. Cuối cùng phải hợp đồng trả giá cao với chủ một chiếc xe bò kéo rồi chính ông giám đốc phải đi theo để áp tải với tinh thần nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, đảm bảo chiếc tủ vượt qua quãng đường hơn hai chục ki lô mét mà không sứt sát mảy may. Không may, chiếc xe bò rời khỏi đường làng được một quãng thì gặp một chiếc ô tô tải siêu trường siêu trọng từ Quốc lộ 1 rẽ vào, vừa gầm rú vừa bóp còi inh ỏi. Con bò kéo xe hoảng hồn lồng lên, kéo cái xe đâm bổ xuống một thửa ruộng lầy thụt bên đường, rồi chết cứng ở đó. Dân chúng xung quanh òa òa chạy đến xem. Ông giám đốc tái mét mặt mày. Người đánh xe bò vừa quất roi vừa hò la thúc ép con bò. Vẫn chẳng thể nhúc nhích nổi một vành bánh xe. Có cách nào để giải nguy bây giờ? Khó bằng đưa trâu qua rào rồi! Ông Văn Chỉ đã đến đúng lúc nỗi thất vọng của mọi người dâng lên tới đỉnh điểm.

Xoa xoa hai bàn tay có những ngón tay dài và xương xẩu như để lấy thêm thần lực, ông lội xuống khu ruộng lầy, đi đến đuôi chiếc xe bò, và khom khom lưng để một bên vai vào đuôi chiếc tủ. Ông định làm gì đây? Mọi người chưa kịp đoán định thì ông đã hầy to một tiếng rồi chống tay vào đầu gối, dựa vào sức rướn của toàn thân, nâng bật đuôi chiếc tủ lên. Hiểu ý, người đánh xe bò liền nhảy lên đầu xe, bênh nốt đầu bên kia.

Không sao có thể hiểu nổi những gì đã diễn ra trong chớp mắt đó. Thoáng cái, toàn bộ chiếc tủ đánh véc ni màu cánh gián đậm, nặng có đến bảy tám chục ki lô đã nằm trên tấm lưng cong cong của ông. Không phải chỉ có ông, mà hơn chục người vây quanh chứng kiến đều nín thở. Mặt đỏ căng, ông xoay người, nhờ thêm sự hỗ trợ của người đánh xe, gần như là rạp mình xuống và bò lên được đường làng. Rồi không hiểu sức mạnh phi thường tiềm ẩn nào đã được huy động mà ông dựng được thân trên lên, đôi chân cao khuệnh khoạng, chầm chậm dò đi từng bước một. Chiếc xe bò không tải đã được đẩy kéo lên khỏi đám ruộng lầy thụt vội vã lịch khịch đuổi theo ông, một hình tướng siêu thường.

Uy tín của ông với khách hàng và mọi người tăng cao còn vì ông là người làm ăn có trước có sau, tôn trọng lời hứa, không bao giờ ỷ thế, nài ép bắt bí ai. Năm nọ, đóng một cái giường môđéc kiểu Đức cho một ông khách ở Hải Phòng hẹn sáu tháng. Đúng hẹn, khách lên trả tiền. Ôi trời! Đang thời bão giá, con cá ươn ngay trên lòng bàn tay, đồng tiền cháy veo giữa phiên chợ, tính ra, giá chiếc giường giờ chỉ bằng hai chục con gà. Ái ngại, ông khách nằn nì xin được tính lại giá để bù thêm cho ông khỏi thiệt thòi, nhưng ông nhất quyết không nghe.

Ông Văn Chỉ là người có duyên với nghề mộc. Chữ duyên nói được hết cái bẩm sinh gắn bó với nghề của ông, thể hiện ở cái tố chất khéo léo, độ chính xác, con mắt thẩm mỹ, tính cẩn thận chu đáo của ông. Mộc là nghề thủ công. Nói đến thủ công là nói đến tay nghề, sự tinh xảo mang cá tính và cái khéo tay hay con mắt trời cho. Ưu điểm này thuộc tiên thiên, không học được, không thêm vào được. Người đã vụng thì cả đời cũng vẫn vụng. Đưa cho một đồ vật bảo người thợ vụng làm, cho tha hồ thời gian, thì dù có cố gắng đến đâu cũng chỉ có thể bắt chước đôi ba nét vẻ bề ngoài chứ làm sao có được một chế phẩm y hệt từ vật thể đến tinh thần. Vật phẩm

không chỉ là vật thể. Nó còn có tinh, nó mang linh hồn cảm xúc của người thợ làm ra.

Tất nhiên, nghề mộc hay nghề thủ công nào cũng vậy thôi. Dẫu đã được học hành một cách bài bản, dẫu đã thuộc lòng những bài học lý thuyết và thực tập theo sự hướng dẫn của thầy dạy, bắt tay vào làm nghề vẫn là cả một bước nhảy vọt.

Đúng là ông Văn Chỉ là người rất chịu khó mày mò học hỏi. Và thêm nữa, rất tinh ý. Học thầy không tày học bạn. Chẳng có nghề nào kiến thức chỉ đóng khung trong sách giáo khoa, trong giờ lên lớp của thầy. Sản phẩm có tính kỹ thuật cao ông đóng một mình đầu tiên là một chiếc tủ lệch hai buồng. Dạo đó ông cùng một số anh em khai thác gỗ trong khu rừng nguyên sinh Đản Khoa, gần trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi thầy Quang Tình dạy học. Ăn ở cần căn cơ. Nhu cầu có cái tủ đẹp nảy sinh. Buồn ngủ gặp chiếu manh. Dân trong vùng có thói quen khai thác gỗ, xẻ lấy gỗ thành phẩm, bỏ vương vãi gỗ bắp đầy rừng. Tiếng là gỗ bắp mà có tấm rộng đến năm mươi sáu mươi phân. Xin về cưa xẻ tận dụng. Tính ra gạn lọc cũng đủ một cái khung và số ván bưng. Chính là trong quá trình đóng chiếc tủ nọ mà ông học thêm được kỹ thuật đánh véc ni từ bác thợ cả. Véc ni nguyên là cánh kiến đỏ nấu thành gôm rồi pha với cồn chín mươi độ theo công thức một lạng gôm, một lít cồn. Véc ni tốt lắc lên nổi vân đẹp như mây trời, sực nức

mùi thơm sang trọng sạch sẽ. Đánh véc ni tiếng thế tay nghề cũng phải khá. Phải dùng bông thấm nước thì véc ni mới bám dính vào mặt gỗ, tạo độ phản quang sáng bóng. Quá tay là mặt gỗ bị cháy. Quan trọng là mặt đồ gỗ phải nhẵn sẵn. Mộc mà làm dối, mặt gỗ như gai mít thì véc ni hảo hạng cũng bó tay. Mâu thuẫn giữa anh làm mộc và anh thợ đánh véc ni thường có là ở chỗ đó.

Chiếc tủ lệch hai buồng sau khi đánh véc ni đẹp như nàng công chúa trong rừng. Sau phải dùng làm quà biếu mấy ông quan chức trong ngành kiểm lâm. Đóng tủ, đóng giường, đóng bàn ghế rồi mới thấy đóng tủ là khó nhất. Tủ tường, tủ lệch, tủ ly là đồ vật cần nuột nà vì nó là đồ để người ta ngắm nhìn, nó như vật trưng bầy trong một căn nhà. Điều đó có sách vở nào, ông thầy nào dạy mà biết!

Ông Văn Chỉ chịu khó mầy mò học hỏi lắm. Thấy chi tiết nào trong nghề nghiệp cũng hỏi han đến kỳ cùng chi lý. Học bằng cách quan sát thao tác, rồi dùng kiến thức khoa học nghiền ngẫm phân tích cho sáng tỏ. Cưa cùn rũa cho đến khi thấy đầu răng từ trắng chuyển sang xanh là được. Ông thầy dạy rũa cưa nói đơn giản vậy, nhưng mình thì phải nghiền ngẫm để hiểu rằng, màu xanh đó là xanh của ánh thép, có nghĩa là răng cưa đã sắc.

Không! Tất cả những điều đó vẫn chưa nói hết được về phẩm cách người thợ trong Văn Chỉ. Ông có một niềm say mê nghề vô cùng kỳ lạ. Là chủ cửa hàng đồ gỗ,

nhỏ thì ông cũng là nhà doanh nghiệp. Nhưng chưa bao giờ ông thôi là người thợ, một vai ông đã thâm nhập từ tuổi trẻ và sẽ kéo dài cho đến suốt đời. Không phải chỉ là một lần. Nhiều lần dõi theo công việc của ông, thầy Quang Tình nhận ra, ông và thầy có những nét tương đồng. Ông cũng như thầy, một tinh thần tận hiến thể hiện trong công việc. Không để ngoại cảnh chi phối đã đành. Không một sự sao nhãng phân tâm đã đành. Mà là một sự tập trung cao độ tuyệt đối mọi tinh lực cho một mục tiêu tối thượng. Lúc này, ông là một kẻ xa rời hoàn toàn cái thế giới ồn tạp xung quanh, không nỗi thống khổ, không niềm vui sống. Hiện thân thành những thao tác đơn thuần, vẻ ra là như vậy, nhưng thực chất ông giống như một nghệ sĩ trong quá trình sáng tác chỉ nhăm nhăm tiến tới tòa lâu đài tráng lệ đang tưởng tượng ở trong đầu. Cái đẹp, chính nó là cái mà ông hao tâm tổn chí. Cái đẹp, từ trong ông hiện ra qua đôi tay ông. Cái đẹp, chính là vì nó mà ông hiến dâng tất cả suy tưởng và sức lực. Đắm chìm trong mê man sáng tạo, cho đến khi, từ đống vật liệu thô nhám biến thành những đồ dùng vật dụng tinh xảo mang hồn cốt ông, ông mới thở phào, đứng dậy vươn vai, cười nói hỉ hả rồi đi lại lăng xăng, và nói năng huyên thuyên, đặc biệt là hát những câu vè tục tĩu.

Còn lúc này, ông Văn Chỉ đang làm gì vậy? Thấy ông lấp bóng sau chiếc tủ ba buồng, thầy Quang Tình bước lại. Cũng là có ý định hỏi ông mấy điều lặt vặt về

công việc, nhưng vừa thấy đầu ông nhô lên trên chiếc tủ, thầy liền quên khuấy ngay. Ông Văn Chỉ xoa xoa hai bàn tay gầy guộc, ra chiều đắc ý. Ông vừa lắp xong hai cái cánh cửa vào chiếc tủ ly ba buồng dài đến hơn một thước. Hai cái cánh cửa tủ cong như mu con rùa. Cong như mu con rùa!

- Chà! Sư phụ Văn Chỉ. Xin hỏi sư phụ: Tấm gỗ vốn phẳng. Bằng phép thuật gì mà sư phụ lại làm cho nó có một độ cong như cánh cửa tủ này?

Không có ý định sẵn mà câu hỏi tự buột bật ra. Có lẽ vì ấn tượng quá mạnh của cái độ cong ở chiếc cánh cửa. Nhưng không thể ngờ thầy Quang Tình vừa dứt lời, ông phó mộc đã cất tiếng cười hề hề, rồi tít mít hai con mắt kẻ chỉ, đầy vẻ thích thú:

- Pháp thuật gì nhỉ? Nhưng mà thầy Quang Tình này, trước hết là khen cho thầy có con mắt tinh đời đấy.

- Có gì đáng gọi là tinh đời đâu ạ.

- Đúng! Cánh cửa là cái quan trọng đặc biệt. Hai cái cánh cửa này đây. Cùng một tấm gỗ. Nhưng mặt này thì cong. Còn mặt kia lại phẳng. Mà không bị nứt nẻ. Đó là vì sao?

- Vì sao?

- Chẳng qua khéo tay hay con mắt. Chẳng qua là trăm hay không bằng tay quen.

- Không phải!

Lại một lần nữa thầy Quang Tình buột miệng. Và lần này thì ông Văn Chỉ hiêng hiếng hai con mắt nhìn thầy rồi cười tủm một hơi:

- Vậy xin hỏi, thầy còn nhớ tí chút kiến thức vật lý cấp ba?

- Xin sư phụ cứ nói.

- Vậy thì thế này. Hề! Đó là vì, kim loại một khi gặp nóng thì giãn ra, trong lúc đó, gỗ gặp nhiệt thì co lại.

- Gặp nóng thì co lại?

- Chính xác! Trên nguyên lý ấy, cùng một tấm gỗ, ta có thể làm cho mặt này cong vênh, mặt kia phẳng lì, bằng cách điều khiển nhiệt.

- Điều khiển nhiệt?

- Cụ thể là sử dụng lửa ở bên muốn cho nó cong và dùng nước lạnh khống chế ở bên muốn cho nó phẳng.

Không định mà hai bàn tay đập liên tiếp vào nhau, thầy Quang Tình không nén nổi bồi hồi và sung sướng:

- Như vậy có nghĩa là ông phó mộc Văn Chỉ, sư phụ dạy tôi, chính là một thầy giáo Vật lý?

- Hề hề...

Cất tiếng cười, ông phó mộc lắc lắc đầu:

- Khen thay con mắt tinh đời. Đâu có phải là tôi vốn sinh ra trên chiếc bào, nói theo ngôn ngữ của dân thợ mộc chính tông. Thật tình cũng là loại dài lưng tốn vải

con nhà. Nhưng tôi không phải là anh trí thức trí ngủ gì. Và hình như tôi cũng không mắc hàm oan gì. Như cậu em tôi. Như thầy. Đơn giản và đại để có thể là lấy vợ từ lúc là anh học trò thò lò mũi xanh. Đến khi sắp tốt nghiệp đại học ra trường oai danh ông giáo chuyên ngành vật lý cấp ba thì nhận ra lương ông giáo không đủ đút miệng. Nên đành phải xoay ngang kiếm kế sinh nhai. Rồi cũng là một ngẫu sự, nên hóa ra có duyên với cái cưa cái đục, từ đó tìm thầy và vừa tự mầy mò học hỏi thêm. Ruộng bề bề, không bằng một nghề trong tay.

- Mầy mò học hỏi thêm?

- Đúng thế! Nó tương tự như chuyện Bao Dinh bên Tầu?

- Tôi biết điển tích Bao Dinh làm nghề mổ trâu. Ông này nói: “Ban đầu lúc mổ trâu, không con nào không phải là trâu.” Sau ba năm hành nghề, ông lại nói: “Chưa thấy con nào là trâu toàn vẹn.”

- Theo thầy, ý nghĩa câu chuyện nó nằm ở chỗ nào?

- Có nghĩa rằng: Ba năm sau, thạo nghề rồi, mới thông thuộc đến chân tơ kẽ tóc đối tượng. Có nghĩa rằng là: Muốn làm được điều gì huyền diệu, phải gắng sức lâu dài.

- Tuyệt! Còn trong nghề mộc của ta có tích chuyện phó mộc Khanh đẽo gỗ làm giá nữa. Thầy có biết?

- Lúc nhỏ, ông thân sinh ra tôi có kể cho tôi nghe. Phó mộc Khanh đẽo gỗ làm giá tài tình lắm. Người ta

hỏi: “Ông làm nghề bằng gì?” Ông đáp: “Phải tập trung ý chí.” Tức vừa phải tập trung nghị lực vừa phải khéo khôn.

- Thầy Quang Tình! Hôm nay thì đúng là tri âm gặp tri kỉ rồi.

- Tôi trộm nghĩ: Nghề, một khi không có thì tâm lấy cái gì mà dụng, đức lấy cái gì để biểu hiện, nhân nghĩa dùng cái gì để chưng tỏ. Nên làm nghề gì tôi cũng gắng sức để đạt tới chuẩn mực của nó. Hồi tôi đi dạy học, tôi đinh ninh tâm niệm đó.

Tung hai tay lên trời, ông Văn Chỉ hào hứng:

- Thầy nói hay quá. Từ lâu tôi đâu dám coi thầy là anh phó nhỏ. Còn hôm nay thì rõ ràng thầy là thầy tôi. Tôi biết chí thầy cao lắm. Chí thầy không chỉ để ở cái cưa cái bào cái đục đâu. Thầy làm thợ không như tôi chỉ là để kiếm gạo nuôi vợ nuôi con, chỉ là để thỏa cái chí tự do dọc ngang trời đất của tôi. Giờ, xin thầy nhắc lại câu vừa nói: Nghề một khi không có thì tâm lấy gì mà dụng...

- Nhưng còn một ý này. Sư phụ nói, vào nghề là do một ngẫu sự. Thế thì giống như một họa sĩ nước ta. Bậc danh họa này là ông thân sinh ra người bạn một thời dạy học cùng tôi. Ông chuyên vẽ ngựa. Hỏi: “Vì sao lại chuyên vẽ ngựa như Từ Bi Hồng nước Tầu?” thì ông bảo: “Có định chuyên đâu. Chỉ là một hôm đem bức sơn dầu Thúy Kiều gặp Từ Hải bày ở gallery thì có một ông khách ngoại quốc nằng nặc đòi mua. Hỏi vì sao lại thích mua

thì ông ta bảo: ‘Tôi thích con ngựa ở phía xa xa trong bức tranh.’” Thế là từ đấy ông thành họa sĩ chuyên vẽ ngựa!

- Chà!

- Như vậy sư phụ vào nghề cũng có thể coi như một ngẫu nhiên.

- Vâng, nhiều khi ngẫu nhiên là ông thầy dạy ta. Cái cánh cửa tủ cong ngoài cũng vậy. Nó là do một lần tôi đem gỗ đi phơi nắng, cốt để cho nó khô. Phơi được một lát đem vào thì thấy mặt bên gỗ phơi ra nắng co lại, điều này thật khác so với kim loại. Xem ra thì Ngẫu nhiên là một quy luật lớn hơn cả Tất yếu. Và thầy cũng vậy. Do một ngẫu nhiên. Một cơn chấn thương của lịch sử.

- Một cơn chấn thương của lịch sử!

- Đúng thế! Nhưng mà thôi, chuyện ấy ta còn lai rai.

Bây giờ xin hỏi: Thân phụ của thầy hiện ở đâu?

- Vâng tôi sẽ xin kể chuyện ông thân sinh ra tôi cho sư phụ nghe. Ông cụ hiện ở bên quê ngoại, chứ không ở đây với tôi. Đó là vì ông cụ rất gắn bó với bà mẹ đẻ ra ông, một phụ nữ rất giỏi nghề tầm tang.

Nghe đến đó, ông Văn Chỉ liền giơ tay:

- Chuyện hẳn là rất thú vị. Nói lúc này e mất đi khí vị của nó. Vậy xin cho tôi nói nốt chỗ dở. Thầy đừng khen tôi. Tôi là vậy mà cũng còn khờ dại, còn lỗ mỗ lắm, chưa hiểu hết khúc nhôi chuyện đời đâu.

- Sao sư phụ lại khiêm nhường vậy?

- Tôi nói thật lòng đấy. Không dám tự phụ đâu. Vì còn nhiều hớ hênh lắm! Chà, làm cái nhà sà ngang ruỗi dọc kích cỡ ra sao, thuộc làu làu. Thuộc mặt gỗ như thầy tướng thuộc mặt người. Đinh lim sến táu là nhóm hai. Nu tếch trắc là nhóm đặc biệt. Vàng tâm trước là nhóm bốn, gần đây đã bị đẩy lên nhóm ba. Biết hết! Vậy mà đã có lúc nhìn gỗ lõ rọ mà lại tưởng là lim. Vì tom gỗ cũng mịn như nhau. Nhìn gỗ vạng lại tưởng là dổi vì cả hai cùng có mầu vàng vàng như nhau.

Ngừng một lát, thầy Quang Tình đoán và quả nhiên câu chuyện lại vào mạch theo giọng nói thật hoạt bát của ông Văn Chỉ. Thì ra ông Văn Chỉ đã bị người ta lừa. Lần ấy, một mụ lái gỗ từ Sơn La về chào hàng. Cả một xe ben cỡ đại. Thùng xe chất ngất hơn chục hộp gỗ sến tiết diện 2,2x2,5cm, dài hai mét, nặng có đến bảy tám tạ một, cùng lúc trút đánh rầm như bom nổ ngay trước cửa nhà. Thấy mấy hộp gỗ lấm lem bùn đất, hỏi thì được biết chủ hàng phải trát bẩn như thế để tránh con mắt nhòm ngó của kiểm lâm. Nào ngờ, mấy hôm sau, nắng ráo, lớp bùn đất bong ra, kiểm tra lại thì có đến bốn chuỗi gỗ ruột rỗng đến năm sáu mươi phân khối, bị chủ hàng nó nêm gỗ tạp vào. Cay quá! Ông Văn Chỉ vò đầu bứt tai, tự trách mình, tự giận mình cả tuần liền. Nhưng sau đó, ông nguôi ngoai dần và ông ngộ ra rằng, cuộc sống là vậy, thua cuộc là điều không ai muốn mà chả thể tránh được. Thế mới biết là học khôn đến chết, học nết đến già!