← Quay lại trang sách

Chương 14 .

BỊ SA THẢI vì học chui tiếng Anh, vì lấy cô con gái ông thổ ty người Giáy làm vợ và mâu thuẫn với ông hiệu trưởng ghét cay ghét đắng tầng lớp tiểu tư sản, vận nghèo lại mắc cái eo, thầy Quang Tình rơi vào cảnh sống cực kì khốn khó. Đã đến mức bán từng cuốn sách cũ để có tiền phụ thêm vào miếng ăn hàng ngày thì coi như đã ngồi bệt xuống đất rồi còn gì! Tuy vậy, lúc này, bị dồn đến chân tường rồi mà tự trong sâu xa thầy Quang Tình vẫn khăng khăng một thái độ cao ngạo, nhất quyết không chịu thua hoàn cảnh. Thầy nghĩ phải cho thiên

hạ thấy rằng: một gã tiểu tư sản trí thức, một kẻ bạch diện thư sinh là thầy, nhưng hoàn toàn có thể không cần dựa dẫm, cúi luồn kẻ có quyền chức, vẫn có thể sống bằng đôi tay, khối óc của chính mình, hơn nữa, vẫn có thể sống một cuộc đời đẹp đẽ, với một nhân cách ngày càng hoàn thiện. Sục sôi ý chí tự khẳng định giá trị xã hội của một bản lĩnh trí thức, một con người có trách nhiệm và có danh diện trước cuộc đời, thầy gạt bỏ tất cả mặc cảm, buồn phiền, xắn tay áo lên, xông vào cuộc mưu sinh là công việc đầu tiên, quan hệ đến sự sống còn của thầy và vợ con thầy.

Bắt tay vào việc mưu sinh, thoạt tiên có người thấy thầy biết chữ Hán muốn mời thầy cùng đi làm nghề thầy bói. Rồi thấy thầy giỏi tiếng Anh, có chị muốn giới thiệu thầy làm cộng tác viên của các hãng Thông tấn Anh Mỹ Pháp Úc. Ít lâu sau thì có ông đến mời thầy làm người cộng sự. Cộng sự gì vậy? Thì ra ông này là thầy phù thủy. Ông muốn thầy nhận việc viết sớ phụ giúp ông trong các buổi cúng lễ. Một công việc hợp với sở trường của thầy, thật nhẹ nhàng mà trước mắt là ngày ngày hai bữa no nê cơm rượu đùi gà má lợn. Mới nghe người này dụ dỗ vậy, thầy Quang Tình đã từ chối phắt.

- Chết đến đít rồi mà còn sĩ!

Bực tức, thầy phù thủy nọ buông sõng một câu. Phản ứng tức thời, thầy Quang Tình sẵng lại:

- Ông không được phép nói thế! Không biết sĩ diện

sao còn là con người. Tôi có thể làm bất cứ việc gì, dù nặng nhọc và bẩn thỉu nhất. Nhưng đó phải là nghề lương thiện.

Thầy phù thủy trề mỏ:

- Vậy thì hãy đến Hợp tác xã trồng rau mà xin việc bẩn thỉu là kiếm tìm phân gio cứt đái để mà giữ phần lương thiện.

Thầy Quang Tình nhếch mép:

- Ông không phải kích động. Tôi sẽ đến đó! Thầy Quang Tình nói tiếp:

- Thưa sư phụ, nó là cái công việc, cái nghề mà dân làng Cổ Phú xứ Thanh Hóa xưa đã từng làm và chủ súy Tao đàn Lê Thánh Tông đã có thơ vịnh, nguyên văn chữ Hán là: Y nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự. Đệ tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm; dịch nôm là: Khoác một áo bào, đảm đương việc khó khăn thiên hạ. Xách ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian. Ngày nay nghề này được người ta gọi bóng bẩy là thu nhặt nhân tâm thiên hạ, tức nghề hót phân; với công cụ là một chiếc xe đạp cởi truồng, hai cái sọt sắt lót nilông gá vào hai bên đuôi xe, một cái vợt tôn cán dài và mục tiêu khai thác là các mỏ vàng nát, tức các nhà xí công cộng ở các khu tập thể. Hợp tác xã Trồng rau ở làng mới hình thành này hàng ngày phải cung cấp bốn chục tấn rau các loại cho người thành phố tiêu dùng. Bón cho rau củ tốt nhất vẫn là phân bắc, sư phụ ạ!

Nhìn ông phó mộc há hốc khoang miệng đỏ lòm quết trầu vì kinh ngạc, thầy Quang Tình thủng thẳng tiếp:

- Một đêm đông rét tê cóng, tôi đến khu tập thể nọ. Lót tay người bảo vệ bao thuốc lá Điện Biên xong, tôi qua cửa thường trực, đẩy chiếc xe không chắn bùn, chắn xích, không phanh vào sau dãy nhà tập thể, tiến tới khu nhà tiêu công cộng đang nhập nhòe trong ánh điện yếu ớt. Xộc ngay vào khu nhà xí thứ nhất, tôi mở cánh cửa dưới gầm. Trước mắt tôi là cả một bãi lầy vàng nhờ nhoe nhoét, lởm nhởm, lúc nhúc hàng ngàn hàng vạn con dòi con bọ. Và tôi có cảm tưởng, như đã rình chờ tôi lâu lắm rồi, cả một khối không khí xú uế nồng nặc mùi phân người lưu cữu được thể tranh nhau ùa ngay ra, ập vào mặt mũi tôi, vây bủa kín lấy người tôi. Trời! Nước bọt nhễu ra ướt đẫm cả cái khẩu trang, tôi ọe một tiếng khan, rồi quay đầu, vùng chạy ra ngoài, ôm một gốc cây xà cừ, rồi cứ thế gục xuống đất, nôn thốc nôn tháo ra. Mặt tôi nổi mụn sần sùi như người hủi. Khắp người tôi mọc gai, tôi thấy mình đang sống ở thời ăn lông ở lỗ. Kinh hãi quá! Sao cuộc đời lại có những giây phút khiếp đảm đến thế! Sao mình lại phải dấn thân vào cái công việc ghê tởm và khổ nhục thế này! Không! Ta không thể hạ mình đến mức này. Đầu óc căng lên những ý nghĩ đau buồn và tủi hổ, tôi dắt chiếc xe đạp và đồ nghề đi ra cổng khu tập thể nọ. Ứa nước mắt, tôi nghĩ, sức người chịu đựng có hạn, thôi đành chịu thất bại keo này vậy.

Nhưng sư phụ ạ, không hiểu sao, sắp ra đến cổng thì tôi chợt dừng lại. A! Thế ra là trong con người mình vẫn tồn tại một năng lực bất khuất. Nó nằm ở đâu đó, trong lồng xương ống máu, trong vi ti huyết quản của mình, nó chống lại sự thối chí. Vào lúc mình tưởng là đã thui chột hết ý chí thì nó xuất hiện và cản đường thoái lui của mình. Không! Mới có thế mà đã chịu thua, đã quy hàng, đã ngã lòng, đã phản lại ý chí của mình là thế nào! Và như thế thì anh đúng là một thằng tiểu tư sản bốc đồng, đúng là “cái sinh thực khí của thằng đàn ông lúc hăng lên thì cương cứng như thỏi sắt nguội, lúc xỉu xuống thì như cái dẻ khoai héo” như lời rủa của ông Hủ cốt cán bần nông bí thư chi bộ, hiệu trưởng trường Bổ túc Văn hóa Công Nông rồi! Không! Không thể đầu hàng dễ thế được! Vì cuộc sống vốn dĩ có đâu là dễ dãi. Phải biết sống cả những khi tưởng như không chịu đựng được nữa!

Nghe những người đã chứng kiến miêu tả lại sự kiện sư phụ gồng mình đỡ rồi vác cái tủ buýp phê trên cái xe bò bị đâm xuống mảnh ruộng lầy thụt, tôi rất xúc động.

Tôi yêu thích những hình tượng cao cả. Nhất là hình tượng những con người vì nghĩa cả dám chịu cả những đau đớn nhục hình tưởng như sức người không thể chịu đựng nổi. Còn tôi lúc này, tôi hiểu, mình chỉ có thể làm được những việc nho nhỏ, nhưng với tình yêu thì không thể là nho nhỏ được. Chúng ta phải sống với tình yêu lớn, tình yêu cuộc đời và con người! Thế là một cuộc phản tỉnh dữ dội đã xảy ra trong tôi. Và chẳng khác nào một gã hồng vệ binh Tầu hăng máu vịt những năm xứ Tầu làm Cách mạng Văn hóa đại loạn, xoa dầu bạc hà khắp người, lấy lại tư thế rồi tôi lại xông vào nơi tôi vừa bỏ chạy, mắt nhắm tịt, mồm miệng ngậm chặt, nín thở, cúi xuống, cầm cái vợt tôn cán dài, múc lấy múc để. Được một lúc thấy nghẹn thở, người trương căng như sắp nổ tung, tôi lại bỏ việc đấy, chạy ra ngoài, thở lấy thở để cho lại sức. Để rồi lát sau, tôi lại quay vào, ngậm chặt miệng, nóp bụng lại, cả cơ thể căng phồng, gồng mình lên, dùng ý chí đánh bạt đi cả khối khí hôi thối tồn đọng đang vít lấy mũi mình, trở thành một cỗ máy vô tri, không cảm giá, mất hết cảm giác, sùng sục với công việc khổ nhục bẩn thỉu này. Nghĩa là cứ như võ sĩ quyền anh thượng đài, đấu từng hiệp hai phút một rồi lại hạ đài. Hai phút một mà có cảm giác dài bằng cả thế kỉ vậy! Đến hiệp thứ ba thì bỗng ngẩn người, ngộ ra rằng: ồ, thế là đã vượt qua cái khó ban đầu rồi và bây giờ thì muôn sự sẽ chẳng còn gì đáng kể nữa. Chẳng có gì là đáng kể nữa. Hà!

- Chậc! chậc... Thật là đáng kính! Thật là đáng khâm phục!

Ông Văn Chỉ đánh lưỡi liền tùng tục. Thở ào ào như một luồng gió, thầy Quang Tình có cảm tưởng như mình vừa đang ở trong cái công việc kinh khiếp có một không hai đó thoát ra.

- Mười đêm liền như thế đi qua như một cơn ác mộng!

- Thầy Quang Tình tiếp - Nghĩ đến bây giờ vẫn còn rởn da gà, vì không hiểu vì sao mình lại có thể có ý chí phi thường đến thế. Kết quả của đợt đi thu nhặt nhân tâm con người đầu tiên ấy, tôi lấy được hai mươi sọt phân người. Bán cho Hợp tác xã trồng rau ở ngoại thành được tất cả ba mươi đồng, vừa đủ mua hai quyển Từ điển Anh-Việt và cuốn Larousse dày nặng như viên gạch ba banh. Đầu đi đuôi lọt! Tiếp theo những lần sau nữa là tôi đã có tiền để trang trải sự tiêu dùng hàng ngày của vợ con và quan trọng, đã bắt đầu đi chuộc lại những cuốn sách, những đứa con mà khi túng bấn đã phải bán đi.

Câu chuyện tới đây thì ngoài cửa có tiếng dép lê loẹt quẹt và tiếng trẻ gọi. Thắm vợ thầy và hai đứa con thầy đã về.

- Dạ, em chào bác.

- Chúng cháu chào bác ạ.

- Chào cô Thắm. Chào hai cháu!

Hai đứa trẻ sau khi chắp tay chào khách đã ý tứ chui tọt ngay vào buồng trong. Thắm khép nép chào ông Văn Chỉ rồi đi đến bàn nước, nhấc cái phích lên, khe khẽ:

- Nguội hết rồi, bác ngồi chơi với nhà em, để em đi đun lại.

Lúc Thắm đi vào bếp, ông Văn Chỉ vuốt lại vạt tóc gọng kính xõa bên má phải, dụn dịn đôi bàn tọa chỉnh lại thế ngồi cho ngay ngắn, nhìn theo vùng lưng eo thắt và nở nang mượt mà ở nơi bờ hông của người thiếu phụ.

Thầy Quang Tinh e hèm, nghé về phía bếp, nói hắt vào: “Cám ơn Thắm nhé” rồi quay lại ông Văn Chỉ, cố tình đánh trống lảng, chuyển làn câu chuyện:

- Sư phụ! Ta tiếp câu chuyện văn chương nhé. Đây là bài thơ tôi làm kỷ niệm đám cưới của tôi và Thắm hồi được mười lăm năm:

Hai con không biết

Bè bạn không hay

Em nào để ý

Chỉ có anh

Âm thầm sực tỉnh

Ta đã sống, bên nhau

Mười lăm năm tròn trĩnh

Lấy gì mà kỷ niệm

Hơn mười năm đắng cay

Quằn quại trong đắm say

Canh bạc đời quắt quay

Anh đã thua trắng tay

Lọc báo cũ anh bán cho đồng nát

Dồn mãi được một trăm

Tờ bạc xanh nhầu nhĩ

Biết mua gì tặng em

Hoa trái thơm ngọt của anh Cho hậu hĩ?

Sau một đêm suy nghĩ

Anh đi chợ “Vồ”, ý nhị

Mua tặng em đôi nịt vú trắng tinh

Lụa mềm không pha nilông

Anh mang về thèn thẹn

Nhắm mắt trao tặng em

Ngực hồng mang su chiêng

Em hiện hình thiếu nữ

Anh thầm nhủ:

Sẽ tặng em nhiều nữa

Để quẳng đi đôi mướp già xập xệ

Lấy lại tuổi thanh xuân

Quên năm tháng cận kề. [4]

Ông Văn Chỉ gật gật gù gù, đong đưa hai con mắt đa tình, miệng đang nhóp nhép bỗng khô rang. Trong óc chập chờn hình ảnh chiếc nịt vú trắng tinh phổng phao bên trong hai cái gò bồng đảo tú ụ của cô Mận.