Chương 19 .
KÌA THẦY BÙI LỄ!
Dụi mắt, tưởng mình nằm mơ. Ai ngờ là thầy Bùi Lễ thật. Một vóc hình tầm thước. Một gương mặt đầy đặn. Hai vành tai tròn như tai trẻ. Hồn hậu chân phương mà hóm hỉnh tài hoa hiện lên từ hai con mắt đằm thắm mượt mà như mắt con gái. Hơn chục năm rồi vẫn y sì vậy. Nhưng tại sao thầy lại có mặt ở chợ huyện này. Lại ngồi giữa các thúng đỗ xanh đỗ đen đỗ đỏ, các mẹt lớn mẹt nhỏ lổng chổng măng miến mộc nhĩ nấm hương, các khay trứng gà, trứng vịt, trứng chim cút, các thùng mì tôm, phở khô, miến khô, bún khô, thịt hộp,
sữa bò, bánh quy... Tóm lại là như một ông chủ cửa hàng đồ khô là thế nào?
- Bỏ nghề thầy, chuyển nghề sang thương mại rồi à?
- Đâu có. Thay thế bà vợ hôm nay đi Phú Thọ, Việt Trì cất hàng Tết. Giờ ở đâu. Thì vẫn là hỏi ra quan ấy ăn lương vợ thôi. Về nhà chơi đi! Bao năm nay tìm kiếm rồi mà mất tăm.
- Đang cữ chợ đông thế này.
- Vô tư đi! Để mình gọi bảo vệ họ đến họ thu dọn cất hàng vào kho, mai lại dọn ra. Thế nào, vẫn xe đạp à. Vứt nó ở đây. Lên chiếc Future mình đèo về.
Ngẫu nhiên lại gặp người chủ trương ngẫu hứng làm thầy dẫn dường. Thú vị quá vì may mắn. Thắm đi Lào Cai. Phải lo chợ búa cơm nước. Đạp xe loanh quanh, nghe nói mùa này chợ huyện có trám xanh, món Thắm rất thích. Thế là đạp xe lên.
Chiếc Future nổ máy tành tành. Gió ù ù sượt qua hai bên xe, nhiều lúc cả hai lắng tai mà vẫn phải hỏi đi nói lại mới hiểu là bạn đang nói gì.
- Lâu rồi có nhận được tin gì về Trần Đình không?
- Có! Đại để là phát triển tốt. Lên làm hiệu trưởng thay ông Hủ. Rồi về làm bí thư riêng cho bí thư tỉnh ủy.
- Khá nhỉ!
- Sau về Viện phó rồi Viện trưởng Viện Khoa học Nhân văn Trung ương.
- Tốt quá!
- Nhưng sau cũng lại vấp. Đình bảo: “Hình như những gã tiểu trí thức nửa mùa như chúng mình anh quái nào cũng bị đời nó dần cho một trận siêu vẹo cả người rồi mới tỉnh. Hay là cái căn bệnh tự do tự thị nó không phù hợp với cái cơ chế tập thể hiện thời!”
- Cụ thể là thế nào?
- Đình viết thư chỉ nói sơ sơ thế thôi. Hẹn thư sau sẽ nói rõ. Đình còn bảo, cùng lúc thư cho mình là thư gửi cho ông, trong thư sẽ cho ông biết nhiều điều thú vị. Chắc chỉ nay mai, ông sẽ nhận được thôi. Thắm thế nào?
- Xa quê. Cuộc sống khó khăn. Buồn. Mấy hôm nay đang ở quê. Lo ông anh gặp điều chẳng lành. Còn ông Hủ, có tin gì không?
Xe rẽ vào một cái ngõ lát bê tông, Lễ ngoái lại:
- Ông Hủ hả? Chuyện hay lắm. Nhà đây rồi, từ từ sẽ kể.
Lừng lững một ngôi nhà bốn tầng cao nghễu nghện. Mặt tiền năm mét. Hai bên hai tượng chó đá. Một bên sườn, đổ nghiêng thế siêu trực một cây thông bách tán. Tiền sảnh rộng thênh. Đi văng bọc da cỡ đại đen bóng. Góc nhà cây đàn piano Yamaha phủ tấm voan trắng. Đèn chùm buông, pha lê lung linh như hoa tuyết.
- Ngồi đây. Có đàn guitare đấy. Chơi bài Chiều ngoại ô Mátxcơva nhé. Để mình lên gác lấy đàn nhé.
- Thôi! Hai bàn tay mấy năm nay chai sần vì cưa đục rồi. Ngồi đây. Nước lọc thôi. Không vẽ vời gì đâu. Tập piano à?
- Không. Vợ mua thưởng cho con gái đỗ đại học Ngoại thương đấy. Vẽ vời gì đâu! Nhanh thôi! Tất cả đã có sẵn trong tủ lạnh. Vào đây cho xem cái tủ lạnh Hitachi siêu đại Tuất vợ mình mới sắm mấy chỉ vàng.
Thoáng cái bàn ăn đã la liệt đĩa gà luộc, đĩa bê thui, đĩa giò chả, thấu củ kiệu, khay dưa chuột, cà chua thái lát và hai cốc uýtxki.
Cảm hứng bốc lên ngay sau một hớp rượu. Tranh nói trước, Lễ vào đề thật tự nhiên:
- Quang Tình này, ông có biết bài thơ này của thi sỹ Trần Nhuận Minh không? Đọc nhé!
Vị tướng từng làm bạt vía quân thù
Không sao cầm nổi một đôi đũa
Bây giờ nếu chúng đến đây
Ông sẽ lặng im
Khi một nhát lê hay một viên đạn...
Mỗi người đều có cái thời của mình. Không ai nắm tay đến sáng. Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời. Con người tồn tại trong tự nhiên, nó phục tùng các quy luật của tự nhiên. Nó không thể được giải phóng khỏi tự nhiên. Nó không thể, kể cả trong suy nghĩ, thoát ra khỏi tự nhiên. Mà tự nhiên thì có quy luật vĩnh hằng là có sinh, có phát triển và có lụi tàn. Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. Cảnh trí thiên nhiên thì cũng vậy. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai. Vẳng nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Từ tiểu sử các nhà văn trong nước và nước ngoài tôi thấy rõ một điều, nhà văn nào cũng chỉ có khoảng mười năm sáng tạo sung sức nhất, nếu có đạt được đỉnh cao nhất của mình thì cũng chỉ trong vòng chục năm đó thôi. Mỗi người đều có cái thời của mình.
Môi mím đầu gật gật tán thưởng, thầy Quang Tình cứ để bạn nói. Vì biết rằng, bạn mình đang lập logic cho câu chuyện. Và cái đích đi tới chắc chắn sẽ là điều mà cả hai đều đang quan tâm.
Quả nhiên lát sau, đặt cốc rượu nặng xuống bàn, ông bạn đã sang sảng:
- Ông có thấy bất ngờ không, Quang Tình? Mình gặp ông Hoàng Hủ rồi đấy!
Ngắt đoạn một quãng dài đến hai phút rồi Lễ đột ngột ngẩng lên, vuốt một vạt tóc xõa xuống trán, sì một hơi qua đôi môi mỏng xinh xinh:
- Trong một tình huống rất bất ngờ!
- Bất ngờ?
Quả là bất ngờ thật! Câu chuyện diễn ra như sau. Thầy Lễ sau khi lấy cô Tuất, bị kỉ luật lưu đày lên một xã rẻo cao. Ít lâu sau, ông Hủ tư giấy về quê thầy tố cáo tội trạng của thầy. Kết quả là địa phương làm um lên,
đòi phải kỷ luật thầy nặng hơn. Rốt cuộc là tỉnh đành phải ký quyết định sa thải thầy. Khoảng một năm thì vợ chồng thầy chuyển về huyện lỵ này, quê của cô Tuất. Tuất là mẫu người phụ nữ đảm đang, tần tảo. Thì vẫn là tay có làm thì hàm mới có nhai, nên chẳng có gì là mặc cảm cả. Chỉ có điều, thoạt tiên là đòn gánh rau đầu chợ bán cuối chợ, kiếm ăn lần hồi. Sau vốn liếng dành dụm khá dần, thuê được kiôt mở cửa hàng bán thực phẩm ở chợ huyện. Đầu năm ngoái mua được mảnh đất, liền xuất tài lực xây nhà, chính là căn nhà này đây. Nhà lên được hai tầng. Hôm ấy đang đổ sàn tầng ba thì hết đá. Nhà thầu nói như rồng leo làm như mèo mửa thế a! Vợ Lễ vừa lo vừa giận, vò đầu bứt tai, kèn kẹt như mọt nghiến gỗ rồi quát tháo om xòm. Chủ thầu thanh minh đêm qua bị trộm lấy mất hơn khối đá, rồi lên xe chạy đi. Lát sau, một chiếc công nông pành pạch chở đá, phun khói đen sì tới. Rồi một người, từ đuôi xe nhẩy xuống, lấy xẻng xúc từng xô đá, đặt lên vai, lò dò từng bậc thang cuốn đi lên.
Nghe vợ nói có sự cố vậy, Lễ ở trong túp lều tạm mới bước ra xem. Thì thấy người vác xô đá nọ. Nghe hơi thở nằng nặng. Trông đằng sau thấy đôi chân vòng kiềng khuệnh khoạng rất tội nghiệp. Liền bảo: “Để tôi đỡ một chuyến nào!” thì người nọ quay lại. Chiếc xô đá suýt buột ra khỏi bàn tay đỡ. Thầy Lễ! Người nọ kêu thất thanh. Còn Lễ thì mặt thộn ra. Ai nhỉ? Lộ hầu, lộ nhãn. Nét quen chen nét lạ.
- Ông Hủ à?
Quang Tình hỏi. Lễ gật:
- Ông Hủ! Đúng là ông ấy nhận ra mình trước. Chứ mình phải một lúc mới nhận ra ông ấy. Nói thật là quên rồi. Quên cả mặt ông. Cả cái án kỷ luật. Quên chứ nhớ làm qué gì! Với lại ngài hiệu trưởng kiêm bí thư chi bộ bần nông giờ khác quá. Già nua. Tiều tụy. Thảm hại. Mèo lại hoàn mèo. Bần nông khốn khó lại hoàn bần nông khốn khó. Nhưng cơn cớ gì mà ra nông nỗi nọ? Hóa ra là ngài ngã ngựa. Mà khởi sự chỉ là do đàn bà. Cái cô Thoan thọt ấy mang thai với ông đòi quyền thừa kế. Tất nhiên cô vợ quê nồng nẫu của ông phải nhập cuộc. Hai cái xung lực ngụt lửa quyết sống mái với nhau. Chuyện tung tóe ra. Thanh tra tỉnh đành phải vào cuộc. Thế là bao tội lỗi của ngài được dịp bị phanh phui bằng hết. Gốc là tham nhũng. Kèm theo hối lộ tình dục, tuy không cấu thành tội phạm, nhưng cũng là nhơ nhuốc. Lại thêm thói chuyên quyền độc đoán, vênh vác tự kiêu tự đại, không biết trọng dụng nhân tài. May có cô vợ khôn ngoan, biết dùng vốn tự có chạy tội hộ nên tòa án của chính quyền và đoàn thể chỉ kỉ luật sa thải, khai trừ đảng viên, thoát vòng tù tội. Hú vía! Hết thời bần cố nông làm mưa làm gió trên vũ đài chính trị.
- Hóa ra con người ta lắm lúc cũng u mê càng cạc, thầy Lễ ạ. Khổ! Làm bao nhiêu điều sai trái mà cứ tưởng
mình đang làm thầy thiên hạ. Gây ra bao nhiêu tội lỗi mà lại tưởng rằng mình có quyền làm như thế. Đẩy bao nhiêu người vào vòng oan khổ lại tưởng thế là giúp ích cho đời. Áp chế người mà lại tưởng là bảo vệ lẽ phải với tự do hạnh phúc! Dốt nát mà huênh hoang thì thật là quá ngu xuẩn rồi còn gì!
Ngồi đôi hồi chuyện cũ với mình, ngài nói vậy. Rồi thêm:
- Tất cả còn là do cơ chế nữa, thầy ạ. Tôi không thế thì cũng có người làm thế! Không hiểu thầy Quang Tình và thầy nữa, có thông cảm cho tôi không, có còn oán hận tôi không?
Thầy Quang Tình ngẩn mặt. Có một câu hát rất êm ả từ đâu đang văng vẳng trong không gian bỗng lọt vào tai thầy. Chiều thanh vắng là đây, âm thầm gió rì rào... Nhớ rồi. Câu mở đầu bài Chiều ngoại ô Mátxcơva.
- Ông nghĩ gì thế, Quang Tình?
- Mình nói thế này không hiểu có đúng ý ông không?
- Thầy Lễ đà đận - Mình bảo, “Thầy Hủ à, chúng tôi buồn đau thì có buồn đau, nhưng về lâu dài thì chẳng oán thán gì thầy đâu. Lịch sử nó vốn ngoằn ngoèo dích dắc, lẫn lộn bi hài như thế mới là lịch sử. Chúng tôi không phải là hạng người bụng dạ hẹp hòi. Sống phải độ lượng. Văn hóa nó dạy người ta phải sống thế!” Không ngờ ông ấy bưng miệng bật khóc, ông ạ. Khóc tu tu như trẻ con ấy.
Lặng đi có đến mấy phút, rồi thốt nhiên thầy Quang Tình đứng dậy, từ từ bước sang phía thầy Bùi Lễ và đột ngột hai người đàn ông ôm choàng lấy nhau.
Lát sau rời khỏi nhau, thầy Quang Tình trở về cỗ cũ, thầy Lễ liền nhìn bạn, trầm ngâm:
- Thú thật hôm nay được gặp và trao đổi tâm tình với Quang Tình mình rất mừng. Từ lâu mình đã âm thầm nghĩ thế rồi. Không bực tức, không oán hận. Chỉ thấy thương cho dân tộc mình. Thương cho cả thầy Hủ. Thương cả một thời ấu trĩ. Thương những lầm lạc của con người. Thương lắm! Sao lại có một thời con người cứ làm khổ nhau, cứ ép buộc nhau, cứ chuyên quyền độc đoán một mình một chân lý thế nhỉ? Tội nghiệp! Còn nhớ cái buổi chiều chúng mình, những người bạn của một thuở trong trẻo và gian nan, đưa tiễn vợ chồng cậu ở ga Làng Giàng không? Một mình làm cả cuộc phân ly, đã là nặng nề lắm rồi. Mà cuộc chia ly của chúng mình hôm ấy kể cả Thắm nữa là bốn thì còn kinh khủng đến đâu. Lúc ấy cậu nói một câu mà mình nhớ mãi. Cậu nói cậu có buồn. Nhưng cậu còn thương nữa. Thương cả cái ông gì học viên đứng lên đọc bài khóc hu hu ấy.
Dứt lời, nhìn xuống bàn ăn, nâng cốc rượu trên tay, giọng thầy Lễ tươi tỉnh trở lại:
- Thôi, Quang Tình, uống nốt cốc rượu này coi như cho qua đi tất cả chuyện cũ. Coi như đọc sách, hết chương sách cũ giở sang một chương sách mới đi.
Hai người cạn cốc rượu nặng, mặt cùng đỏ gay đỏ gắt. Và câu chuyện tiếp theo đã là một khúc giao hưởng hoàn toàn khác hẳn. Nó tưng bừng, rộn rã và tươi vui khác thường.
Lại mở đầu là Bùi Lễ, giọng có thêm khí lực của men cồn:
- Quang Tình ơi, là dân văn chương, hẳn là ông vanh vách thơ của quan Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ? Vậy ông thích nhất câu nào?
- Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
- Đúng rồi. Nhưng mình xin bổ sung thêm. Còn mấy câu này nữa: Trời đất cho ta một cái tài. Giắt lưng dành để tháng ngày chơi. Thiên sinh ngã tài, tất hữu dụng. Trời sinh ta có tài, ắt phải có lúc dùng.
Biết ngay mà, thầy Quang Tình chợt nghĩ và đoán định của thầy ngay sau đó đã được chứng minh là hoàn toàn chính xác. Thầy Lễ đã đưa cơn hứng khởi vào câu chuyện chữ viết, cái tài độc đáo của thầy. Thầy bảo: Bây giờ trong nhiều trường học người ta đang bỏ dần môn dạy chữ viết tay rồi. Máy vi tính phát triển với tốc độ phi mã, phổ biến ngang cùng ngõ hẻm. Nhưng như thế chả lẽ chữ viết tay sẽ mai một và mất hẳn? Không! Ngay ở nước Mỹ, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới thế mà chữ viết tay vẫn còn được người ta coi trọng lắm.
- Vừa rồi, - thầy Lễ nói - Bà Margaret Shepherd người Mỹ là một người nổi tiếng về lĩnh vực này sang ta. Bộ Giáo dục và Đào tạo có giới thiệu bà ta gặp mình. Bà cho biết hàng năm, bà vẫn phải viết cả ngàn bằng tốt nghiệp cho sinh viên. “Chữ viết tay không mất được.” Bà nói. “Chữ viết tay còn mãi. Đó là một sở thích, một thú vui, một nét văn hóa. Một cái thú thẩm mỹ của con người.” Chồng bà là kỹ sư. Nhưng khi cần gửi cho ai đó lời nhắn quan trọng, ông đều viết chữ bằng tay. Bà bảo: “Chữ viết đẹp hay xấu, không thành vấn đề. Vấn đề là, chữ viết là gương mặt của người viết. Là tâm hồn, tính cách, lao động của người viết.” Tuần trước mình theo bà xem bà dạy Thư pháp cho sinh viên Việt Nam. Dõi theo từng nét bút trong tay bà lên trang giấy, thấy hồi hộp như đón nhận một điều kỳ diệu gì đó sắp xảy ra. Tài tình làm sao, sự biến hóa khôn cùng và vi diệu thay nét bút trong bàn tay bà. Ông giỏi tiếng Anh, ông viết cho mình ba chữ: con ngựa, con mèo và con chuột ra tờ giấy này cho mình xem nào.
Nhấc tờ giấy có ba chữ Horse, Cat và Mouse thầy Quang Tình vừa viết, thầy Lễ vỗ bộp hai bàn tay, thích thú:
- Cũng là ba chữ này mà ông biết không, dưới ngòi bút của bà ấy, chữ Horse hiện trong hình con ngựa. Hai chữ Cat và Mouse trong giây lát thành một hoạt cảnh với hình chú mèo đứng cạnh chú chuột. Mới hay, nghệ thuật chính là từ sự thường tình một khi biến huyền trở thành sự phi thường.
Chặc chặc lưỡi, thầy Lễ tiếp:
- Ông là thầy dạy văn, chắc ông biết: Trong bảo tàng của Pushkin ở Mátxcơva có cây bút lông ngỗng của Goethe tặng thi hào. Nhà thơ Ba lan Adam Mickiewicz nói: “Tôi sẵn sàng đổi nửa đời người để cũng được như thế!” Còn mình, nói không phải khoe, vừa rồi có dự thi viết chữ đẹp toàn quốc. Bài thi thứ nhất là viết lại bài thơ Nam quốc sơn hà, mình ẵm cái giải nhất. Còn bài thứ hai: điền chữ khuyết thiếu vào hai câu ca dao Tháp Mười đẹp nhất hoa sen... thì mình được khuyến khích.
- Mình đoán nhé, chắc chắn là ông đã mở lớp dạy trẻ viết chữ đẹp?
- Đúng. Nhưng dạy trẻ trong ngõ xóm này thôi. Mà dạy miễn phí, ông ạ. Tuất bảo: “Mình em buôn bán cũng đủ ăn. Đâu là cái tài của anh, anh cứ tha hồ thi thố cho thỏa những lúc bị ức chế.” Thế là mình theo ông Tú Xương, ăn lương vợ làm cả cái việc này nữa. Đây cho ông xem.
Thầy Bùi Lễ kéo cái cặp bìa ở dưới gầm chiếc bàn ăn lên, cởi dây chằng, mở ra. Chà! Cả một chồng đơn thư người xa gần gửi đến nhờ viết hộ. Giờ mới biết, hoá ra chỉ trong một địa hạt nhỏ như cái hạt vừng là cái huyện này mà còn khối người mù chữ. Và cũng còn lắm người có học hẳn hoi mà câu cú viết không thành. Chữ như gà bới. Giờ mới biết, hoá ra oan ức của người dân còn nhiều. Đây, thư khiếu tố vì bị cướp mất đất. Đây, đơn tố cáo kẻ có quyền chức ở xã ức hiếp trù dập không cho con em họ đi học, đi làm. Này đây nữa. Thật không ngờ, kẻ có hoa tay viết chữ đẹp xưa chuyên viết bằng khen giấy khen là mình nay lại phải làm cái việc là viết giấy kêu oan hộ người!