← Quay lại trang sách

Chương 21 .

NGÀY DÀI THÊM RA. Thời gian trương căng lên để chứa nhiều sự kiện và tư tưởng hơn. Thắm từ Lao Cai nhắn tin về: cô đang đi vào vùng Giáy trong, tức huyện Phong Thổ, miền Tây của tỉnh, để tìm anh Siểu. Người làng nói, anh Siểu buồn nản, từ mấy năm nay chỉ rong chơi đàn hát và rượu chè. Cách đây một tháng có thể là anh vào trong đó chơi với bạn hát.

Trong tâm trạng bồn ngộn cảm xúc, thầy Quang Tình có cảm giác mình đang ở trong một cuộc sống phức hợp và đa chiều. Một cuộc sống vừa sôi động vừa giàu có về tâm hồn và tư tưởng. Sống là vậy, là vừa phải hành động vừa phải biết chiêm nghiệm. Thư của thầy Trần Đình như một hồi chuông vọng tạo nên một cộng hưởng ngân nga trong lòng thầy.

Đã hoàn tất việc học nghề mộc, giờ đây, ngày ba buổi thầy chính thức làm việc ở xưởng mộc của ông Văn Chỉ. Thu nhập theo sản phẩm. Có đồng ra đồng vào, thầy đã sắm được tivi màu, máy ghi âm cho các con để chúng có thêm điều kiện học tập, mở mang hiểu biết.

Thấm thoát giờ Quang Bình đã 14, học lớp 7. Quanh Sinh kém anh ba tuổi học lớp 5. Cả hai trông đều khôi ngô, tuấn tú, khỏe mạnh. Cũng là nhờ công mẹ Thắm khéo nuôi. Từ lâu Thắm đã biết nấu cơm bằng nồi gang nhưng như là một nỗi nhớ tập quán ăn cơm đồ của người Giáy, thi thoảng vẫn chắt nước cơm để các con uống giải khát ngày hè. Rau piệc cút bên bờ suối đã được thay thế bằng rau ngót trồng lấy. Trẻ muối cà, già muối dưa. Thắm đã biết cả muối dưa lẫn muối cà. Miếng bóng lợn biết tẩy sạch bằng rượu với gừng trước khi nấu bát canh cỗ Tết. Biết cả cách luộc trám xanh và nấu chè kho có gia vị là quả đò o. Bài khấn lễ Tất niên, tết Nguyên tiêu, tết Đoan Ngọ, tết Trung nguyên, Thắm đều thuộc. Lấy chồng thì gánh giang sơn nhà chồng. Họ hàng bên chồng Thắm gần cận nay chỉ còn lại vài người, Thắm đều có lời thăm hỏi chu đáo. Riêng với ông thân sinh ra chồng, ông cụ đã ngoại tám mươi vẫn sống ở quê ngoại, tháng nào Thắm cũng viết một lá thư dài tường trình cho cụ biết. Đặc biệt là việc anh Quang Tình chuyển sang học nghề mộc.

Còn hai đứa con, để ý kỹ thì thấy Quang Bình khí chất sâu trầm giống bố, rất yêu văn thơ và triết lý. Trong khi đó, Quang Sinh dịu dàng thùy mị giống mẹ. Cả hai đều rất thích thú vì bố sắm ti vi, máy ghi âm. Nhưng Quang Bình tỏ ra rất ái ngại. Đọc được điều đó trong ánh mắt của nó, thầy Quang Tình hỏi thì nó đáp: “Đúng là bây giờ ở trong tập thể học sinh, khi hơn một nửa các bạn đã có một phương tiện kỹ thuật gì đó, thì số không có sẽ trở thành lạc lõng, không còn ai chơi với nữa bố ạ. Nhưng như thế thì bố mẹ vất vả quá!”

Ứa nước mắt vì thấy con biết suy nghĩ và thương bố mẹ, thầy Quang Tình xoa đầu con, an ủi:

- Bố hiểu! Cuộc sống chung nó có tầm mức nào, mình đừng để thấp hơn. Bố mẹ sẽ cố. Rồi mình sẽ mua xe máy, sẽ xây lại nhà nữa. Nhất định sẽ không thua kém bạn bè các con ạ.

Nghe đến xe máy, Quang Sinh liền nhảy tâng tâng:

- Nhất định mua xe máy, bố nhé. Bây giờ tìm chỗ bơm, vá, sửa chữa xe đạp cũng khó rồi đấy, bố ạ.

Chẳng bao lâu tay nghề của thầy Quang Tình đã trở nên thuần thục và tinh xảo. Giờ đây, ngoài những công việc vặt vãnh thông thường như thay một cái chân mễ, vá một bậc cầu thang mọt, uốn lại một cánh cửa cong, đóng lại một cái khung ảnh... thầy đã có thể làm được những việc khó hơn, như thay mới bản lề tủ, ray ô kéo, ray cửa lùa, lắp khóa cửa, khóa tay nắm, khóa clémon hoặc tháo lắp tủ tường, sập gụ, tủ chè, nói chung là sửa sang nội thất theo yêu cầu gia chủ. Đồ nghề thầy sử dụng, ngoài cưa, bào, đục, thước thợ, búa, kìm, giờ còn là cưa dây, cưa đĩa, cưa vòng, mũi khoan, dao phay rãnh, phay lỗ và các dụng cụ để làm sạch, đánh bóng, quét màu. Thành ra, ngoài công việc làm ăn lương theo sản phẩm ở xưởng mộc của ông Văn Chỉ, thầy Quang Tình đã có thể nhận tu sửa đồ gỗ nội thất cho các gia đình trong thị trấn.

Gần đây, thầy đi họp phụ huynh học sinh nhân ngày 20 tháng 11 ở trường của Quang Bình, Quang Sinh. Thấy bàn ghế ở đây hư hỏng nhiều quá, thầy liền xung phong tự nguyện sửa chữa giúp không nhận tiền công. Tiếng lành đồn xa, có ông thợ rất tài hoa, tay nghề khá, lại cẩn thận và công xá lấy chẳng đáng là bao. Thế là bỗng dưng thầy có thêm một loạt khách hàng là các trường học.

Đi ra ngoài làm mới thấy sự phát triển với tốc độ phi mã của thị trấn. Cắm cúi với công việc trong xưởng mộc, đuổi theo cái đích tự đặt ra, đến lúc ngẩng lên, nhìn quanh mới thấy giật mình. Mặt đất bỗng nhiên như giãn rộng ra. Cả bầu trời cũng thế. Mới hôm nào nghe máy ủi rì rầm, nay trước mắt là một trục đường ba chục mét, hai làn xe, giữa có dải phân cách, bên trái là hàng cây cơm nguội đã bắt đầu trổ hoa. Lại nhớ lần đầu tiên nhìn thấy cây hoa này, Thắm lạ lắm. Hoa gì mà nở lồng phồng, đã khô xác lại tím ngăn ngắt. Đó là lần thầy Quang Tình đưa người yêu về quê, ra mắt và xin ý kiến ông thân sinh. Rồi sau đó chuẩn bị làm lễ thành hôn. Lúc ấy cuộc chiến tranh chống Mỹ đã ở giai đoạn quyết liệt. Lệnh Tổng động viên đã được ban bố. Thầy Quang Tình đã làm đơn tình nguyện nhập ngũ. Nhưng cuối cùng thì cùng với việc đơn xin vào Đảng bị bác bỏ thì đơn xin ra tiền tuyến cũng bị từ chối. Lý do chỉ là thành phần lí lịch bên vợ và việc lén lút học tiếng Anh của đương sự. Trên đường về quê ngoại thầy, hai người đã đạp xe qua thị xã Yên Bái, lúc này còn nguyên dấu vết bom đạn hủy diệt. Một thị xã cửa ngõ miền Tây sầm uất trong phút chốc chỉ còn là một đống gạch ngói đổ nát tan tành. Nhà cửa tan hoang. Cây cối ngổn ngang. Chắn ngang đường là những thân cây to tày ôm. Phải vất vả lắm mới vác được chiếc xe qua. Chỉ nhìn cảnh bị tàn phá mà đã thấy bời bời lo âu, không biết đến bao giờ mới xây dựng lại được như cũ, vì chỉ nguyên việc thu dọn cũng đã thấy ngại rồi.

Nay mới thấy, công cuộc xây dựng một khi tràn đầy hào hứng hóa ra cũng là một phép lạ nhiệm màu. Từ trục con đường lớn vẽ một nét xuyên thẳng về thành phố, thoáng cái đã mọc ra chi chít những đường phố ngang dọc, đan đi đan lại như những ô bàn cờ. Ô tô xe máy đã sẵn hơn xe đạp, xích lô. Đã có nhà cao hai chục tầng. Nhiều nhất vẫn là cửa hàng, khách sạn, nhà nghỉ, ngân hàng. Và không thể không kể, các ngôi trường.

Người mình đáng gọi là dân hiếu học. Chỉ nguyên cái thị trấn mới hình thành này mà đã có tới hơn hai chục ngôi trường học, kể từ tiểu học tới trung học phổ thông. Chưa kể cả vùng gần chục xã lân cận trong phạm vi toàn huyện.

Được đến làm việc ở các ngôi trường là thầy Quang Tình vui lắm. Vì nếu trước đây trong tay thầy đã có nghề thầy, tức tâm thầy có cái mà dụng, đức thầy có cái để biểu hiện, nhân nghĩa của thầy có cái để chứng tỏ, thì nay trong tay thầy có thêm nghề mộc, tức có gấp đôi điều kiện để bộc lộ ý nguyện giúp ích cho đời của mình. Suy cho cùng thì cuộc sống của cá nhân chỉ có ý nghĩa và trở nên thiêng liêng chừng nào nó giúp cho cuộc sống của con người trở nên cao thượng tốt đẹp hơn. Chẳng những thế, cái chân lý ấy còn được củng cố thêm, vì một nghề nghiệp chân chính còn có thể đem lại một niềm vui riêng cho con người, khi anh ta tự hào, vì thấy mình là một kẻ sáng tạo. Ôi! Có gì kiêu hãnh hơn là năng lực tạo lập từ không đến có của con người. Giản dị thôi, đó là niềm kiêu hãnh của người nông dân làm ra hạt lúa, nhà kỹ thuật phát minh ra cái đầu máy hơi nước, thiên tài bác học tìm ra năng lượng nguyên tử.

Tháng ngày qua, lặng lẽ một thân một mình theo đuổi nghề nghiệp mới này, thoạt đầu thì chỉ là một hành động bất đắc dĩ, sau thì thầy dấn thân và nhận ra, trong hoàn cảnh nào con người ta cũng có thể có được cơ hội để khai triển tài năng, nhân cách và tư tưởng của mình.

Cám ơn bệnh tật ấm thêm nhân tình! Nghĩ lại mới thấy ông cha mình lớn lao. Mới thấy là từ đau đớn cực lạc mới sinh ra. Ta sẽ khám phá chính mình sau khi đã vượt qua nghịch cảnh. Ta sẽ hiểu ta trong cô đơn. Cô đơn và đơn độc không hoàn toàn giống nhau. Đơn độc là trạng thái tiêu cực, trống rỗng, sợ hãi trong vũ trụ bao la. Còn trong cô đơn, thầy tìm thấy bản thân mình, thấy được niềm vui, sự huy hoàng của cuộc sống. Tìm thấy được bản thân là phát hiện vĩ đại nhất trong lịch sử con người.

Thầy đã tự thắp lên ngọn đèn trong con người mình. Bằng ánh sáng của ngọn đèn ấy, thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Một địa tầng thấp nhất trong cái tháp đo giá trị cứ thót dần lên cao. Lam lũ. Cực nhọc. Thô tháp. Nham nhở. Nhem nhuốc. Bụi bậm. Thô lỗ. Cục cằn. Với đủ các thói tật xấu xa. Bị coi là xoàng xĩnh, là tầm thường, là thấp kém. Nhưng chính đó là cuộc sống thường ngày, xa cách thói tệ quan phương, không quan cách, không bị xuyên tạc, chất phác và lương thiện. Bao nhiêu năm nay ta ăn cơm ta không đi cầy. Trần Đình đã khiến thầy nhớ rằng có một thời mọi người thường hay hát bài hát ấy. Một bài hát giản đơn mộc mạc, nhưng cái nghĩa của nó thì không kém phần sâu xa và bao quát. Từ một cây gỗ rừng thô mộc đến cái bàn cái ghế cái tủ, tạo ra các giá trị mới bằng chính sức lao động, bằng bàn tay khối óc của mình, không dựa dẫm ỷ lại vào ai, tự nuôi sống mình và góp phần tốt đẹp cho cuộc sống của mọi người, hỏi có niềm tự hào nào chân chính hơn! Và hơn nữa, như có lần thầy đã tâm sự với anh thợ Dậu, bữa Dậu nói về việc máy móc sẽ thay thủ công, cái còn lại sau những gì qua đi mới là quan trọng. Cái còn lại là cái trầm tích của lao động và thời gian, đó là cái cốt cách của con người.

Hơn nửa tháng nay, hàng ngày trên chiếc xe đạp cà tàng, tay lái xe ngoắc chiếc cưa, sau xe là hộp đồ nghề, thầy Quang Tình đi đến các trường trong vùng. Các trường học không ngờ thuê được một bác thợ mộc vừa thạo việc vừa tận tình lại lấy công rất rẻ. Thay một cái cánh cửa tủ. Ghép lại một mặt bàn. Chắp một cái chân ghế. Lắp một ổ khóa mới. Ken một cái cửa chớp. Việc gì ông thợ cũng hoàn thành gọn ghẽ, đã chắc chắn lại mỹ thuật. Chưa kể có hôm đi qua phòng thí nghiệm thấy mô hình chuyển động Brown bị hư, lại còn gợi ý sửa chữa giùm. Và được sự đồng ý là bắt tay vào làm mới lại luôn cả mô hình bộ máy tiêu hóa của con người, cùng một loạt các giá đỡ dùng trong thí nghiệm vật lý, hóa học. Thầy đã mon men đến địa hạt kỹ mỹ thuật của nghề điêu khắc trạm trổ cấp cao.

Một hôm thầy đang đục vá mô hình bộ máy tiêu hóa của con thỏ ở trường trung học nọ thì nhận ra có một tia mắt ranh mãnh đang soi rọi vào công việc của mình. Ngẩng lên thấy một người cao dong dỏng mặc áo blu trắng đeo kính cận gọng sừng đen, mồm rộng, mũi huếch, điệu bộ hết sức cao ngạo:

- Bác làm nghề mộc đã được bao nhiêu niên rồi?

- Cũng tạm gọi là có thể đáp ứng được các yêu cầu đơn giản.

Nghe giọng nói biết là kẻ có ý trêu chọc, thầy cúi xuống tiếp tục công việc, coi như mục hạ vô nhân. Đúng như thầy suy đoán, người nọ đút hai tay vào áo, đánh lưỡi chèm chẹp như cóc cụ gọi mưa, công khai tỏ thái độ khiêu khích:

- Cẩn thận, không lại phải cho vào thùng rác đấy.

- Thầy nói thế là có ý gì?

Dộng cái dùi đục thật mạnh, thầy vẫn không ngẩng lên. Người nọ cười khẩy:

- Có một nhà bác học được mời sang giảng dạy tại một trường đại học danh tiếng của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ. Sau màn đón tiếp long trọng, ông được mời đi tham quan phòng thí nghiệm của nhà trường. Tham quan xong, người phụ trách phòng thí nghiệm lễ phép hỏi: “Thưa ngài, phòng thí nghiệm của trường chúng tôi thật sự là điểm đến mơ ước của nhiều nhà khoa học. Ngài có nhận xét gì ạ?” Nhà bác học gật đầu: “Đúng là rất hiện đại.” “Thưa, còn điều gì cần bổ khuyết không ạ?” “Tuyệt vời!” Được lời, người nọ xoa xoa hai tay sung sướng. Nhưng y chưa kịp biểu lộ hân hoan thì nhà bác học đã giơ tay: “Tuy vậy, vẫn còn thiếu?” “Thiếu gì cơ ạ, thưa ngài?” “Thiếu...” “Xin ngài cứ nói, chúng tôi xin thỏa mãn ngay ạ.”

Ngắt lời, cố ý dềnh dang để theo dõi thái độ của thầy Quang Tình, gần một phút sau, người nọ mới tặc lưỡi nói tiếp:

- Quay nhẹ một vòng, nhà bác học áp lại gần tai người nọ, khe khẽ: “Thiếu thùng rác.” “Dạ thưa... thùng rác... nghĩa là thế nào ạ?” “Thùng rác là thùng rác chứ còn là gì nữa, anh bạn. Cần nhiều thùng rác, những thùng rác càng to càng tốt. Thùng rác để mọi người, trong đó có cả anh, ném bỏ vào đó những sai lầm. Anh có hiểu không?”

Húi! Hết chuyện, người mặc áo blu trắng huýt một hơi sáo nhẹ, rồi hất hàm trịch thượng:

- Vậy bác thợ mộc, bác có biết nhà bác học đó là ai không?

Đúng là cái thói huênh hoang của kẻ hợm mình. Mà chỉ là một câu đố trẻ nít. Thầy Quang Tình từ từ đứng dậy và thật từ tốn:

- Thưa, đó có phải là thiên tài Albert Einstein không? Ông chưa hề học qua một trường đại học nào, mọi phát minh của ông đều bắt đầu từ tư duy phá vỡ lối mòn và phòng thí nghiệm. Ông còn là tác giả câu nói nổi tiếng này: “Anh biết chứ, có hai thứ không có giới hạn là vũ trụ và sự ngu dốt. Nhưng về vũ trụ thì tôi không chắc!” Còn tôi, nghe mẩu chuyện này, sẽ tâm niệm, trong suốt đời mình, từ tư tưởng đến hành động, sẽ cố gắng để có rất ít cái phải vứt vào thùng rác! Thế có được không, thầy?

Người phụ trách phòng thí nghiệm nghe đến đấy thì khom lưng lại và nắm lấy tay thầy Quang Tình lắc lắc hồi lâu rồi lập bập:

- Tôi xin lỗi bác, tôi quá dốt về khoa tướng mạo học.

Tôi không nhìn thấy gương mặt có chữ của bác.

Thầy Quang Tình đưa tay lên mặt rờ rẫm một vòng.

Mặt ta là mặt người có chữ thật à?

o O o

Vừa vấn vương vì ý tứ trong câu nói của người trông coi phòng thí nghiệm, thầy Quang Tình vừa mải mê với công việc, đến khi dừng tay, xem đồng hồ thì đã gần sáu giờ chiều. Người phụ trách phòng thí nghiệm sau khi ân hận đã dặn thầy làm xong khóa cửa lại giùm, giờ thì đã ra về từ lúc nào.

Ở cổng trường, một chiếc ô tô Toyota xanh rêu cuối cùng đến đón trẻ con đi học về vừa quay đít phóng vụt đi, để lại một không gian vắng tanh vắng ngắt. Thật là chẳng bù với ít phút trước đó. Người giàu đã tăng theo cấp số nhân những năm gần đây. Xe máy như của thầy Bùi Lễ thì kể làm gì. Đáng nói là xe ô tô kia. Thôi thì đủ. Xuềnh xoàng thì cũng là Hyundai. Còn không thì phải là Nissan, Toyota, và cả Ford, Audi, BMW... những hãng xe sang trọng.

Dắt chiếc xe xịt lốp ra cổng trường, thầy Quang Tình ngó quanh. Sực nhớ tới lời Quang Sinh nói, liền nhấc xe lên vỉa hè. Thì cũng là đi hú họa thôi. Biết tìm đâu một nơi bơm chữa xe đạp bây giờ?

May, nhưng cũng phải đi được một quãng xa gần nửa cây số, nhìn sang bên kia đường, thấy một ông lão đang hí húi cạnh cái bơm xe dựng và hai người khách đang chờ, liền vượt sang. Một chiếc xe đạp nam cũ kỹ nằm nghiêng trên vỉa hè. Ông lão đang kéo chiếc săm ra khỏi vành xe. Cạnh ông lão là chiếc chậu nhôm nhỉnh hơn cái bát ô tô một chút đựng nước đục ngầu. Trên chiếc ghế con bên trái ông cụ là một cuốn sách tiếng Pháp Les Fleurs du Mal. Những bông hoa Ác. Tập thơ của Baudelaire trứ danh.

- Con chào cụ. May quá, có cụ đây rồi.

Thầy Quang Tình chào ông lão, mắt lướt qua bìa cuốn sách. Ông lão ngẩng lên, tóc mai bạc trắng, da mồi, đôi má gồ ghề, nhưng hai con mắt thì sáng tươi, đáp nhũn nhặn:

- Không dám. Anh chịu khó chờ nhá. Hay là bơm lấy đi.

- Con chờ cũng được, vì có khi là hở chân van.

Khách đang chờ là hai mẹ con. Chú bé mặc áo trắng có phù hiệu nhà trường bên vai trái, trạc mười bốn, bằng tuổi Quang Bình. Người mẹ có gương mặt trái đào giống Thắm, mặc cái áo bảo hộ in chữ Công ty Vệ sinh Môi trường, đang dở câu chuyện với con trai:

- Con định gặp cô giáo dạy toán làm gì?

- Con khiếu nại. Cả lớp chỉ có con và bạn Tuy giải đúng hoàn toàn bài toán kiểm tra giữa học kỳ. Thế mà con chỉ được có 9 điểm, trong khi Tuy lại được 10 hoa.

- Thôi, chuyện ấy để mẹ hỏi cô. Còn bây giờ, tìm được ông đây bơm vá cho là may rồi.

Ông lão đang đánh giấy ráp đoạn săm thủng, ngẩng lên:

- Mình là số ít mà hai mẹ con. Số ít nên phải chịu thiệt thòi. Nhưng mà cậu bé sao trông buồn thế? Hôm nay bị điểm kém à?

- Dạ, thưa ông không phải ạ.

- Học trường Ngô Sĩ Liên chuyên à. Thế thì giỏi đấy. Văn minh nó đi theo tuyến tính. Qua xe đạp nó lên xe máy rồi ô tô. Nhưng đấy là nói văn minh vật chất thôi. Còn quan trọng là cái đầu, là ý chí con người cháu à.

- Ông à, thấy ông bơm xe đọc sách, con lại nhớ đến nhà toán học thời cổ Archimède. Một hôm ông đang ngồi trước một bài toán vẽ trên cát thì quân xâm lược La Mã đến quấy rầy. Ông liền đứng dậy, gạt tay: Đừng làm hỏng các hình tròn của ta. Mà mẹ ơi, mẹ có biết ông Bernhard Riemann, một trong mười nhà toán học lỗi lạc nhất của thế kỷ 19 không?

- Mẹ không biết!

- Người ta vẫn gọi là Hình học Riemann, Tích phân

Riemann đấy. Ông ấy xuất thân trong một gia đình rất nghèo mẹ ạ.

- Vậy à?

- Nhưng mà nghèo hơn cả là nhà vật lý hóa học tên là Michael Faraday. Bác gì đây có biết không ạ?

Nghe chú bé đột ngột hỏi mình, thầy Quang Tình liền cười cười, gật gật:

- Có! May quá, bác vừa đọc được tiểu sử ông. Ông là người phát minh ra định luật Faraday mang tên ông đó. Định luật này khám phá ra ảnh hưởng của điện môi với các hiện tượng tĩnh điện và nhiều thứ khác nữa, có phải không cháu? Nhà nghèo, bố làm thợ rèn. Một hôm thầy giáo thấy Faraday đến lớp không mang theo cặp sách mà mặt thì buồn rười rượi. “Có chuyện gì thế, Faraday?” Thầy giáo hỏi. Faraday đáp: “Thưa thầy, con đến xin phép thầy cho con thôi học để ở nhà trông em. Vì dạo này bố con thất nghiệp, mẹ con phải đi giặt thuê để kiếm tiền nuôi gia đình.” Nghe vậy thầy giáo liền tiến đến vỗ vai Faraday: “Con hãy dũng cảm lên! Hãy mài giũa ý chí cho bền và noi gương hiếu học của người xưa, Michael!”

Chiếc xe đã chữa xong. Dựng xe lên, ông lão giao nó cho người mẹ, và hất hất tay:

- Thôi hai mẹ con đèo nhau về đi. Ở nhà đã có ai nấu cơm chưa? Cố học cho giỏi như các ông Faraday, Riemann cháu nhé. Ông không lấy tiền của hai mẹ con

đâu. Nào bây giờ đến lượt bác đây. Cũng là cánh tri thức nghèo đi xe đạp chắc?

o O o

Tối hôm đó, cơm nước xong, cho hai con biết là mẹ Thắm còn có việc chưa về được, vậy hai con phải chịu khó tự lực việc nhà cửa cơm nước. Rồi thầy Quang Tình kể cho hai đứa nghe chuyện xảy ra ở phòng thí nghiệm và cuộc gặp hai mẹ con cùng ông lão chữa xe. Quang Bình nói:

- Bố ạ, đồng hồ thì cũng chỉ là thứ công cụ xem giờ, ấy thế mà chiếc Rolex những người giàu đeo có giá là 11.000 đô, tức hơn 200 triệu tiền mình. Cái quần họ mặc, giá 5,8 triệu đồng Việt Nam. Cái thắt lưng hiệu D&G họ dùng giá tới 2,95 triệu. Hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng, tức bằng lương một tháng của một người công nhân. Con nghĩ phải kiếm tiền dễ dãi thế nào thì người giàu mới tiêu xài xa phí thế, có phải không bố!

Thầy Quang Tình nói:

- Giàu như ông Bill Gate chủ hãng máy tính Microsoft nước Mỹ đầu bảng tỷ phú gia sản 53 tỷ đôla là điều rất đáng khâm phục. Sản phẩm của ông ấy, toàn nhân loại tiêu dùng. Giàu của ông là do trí tuệ ông tạo ra.

Mỉm cười tự nhạo, thầy Quang Tình hạ giọng như thủ thỉ:

- Còn cái nghèo thì đúng là buồn hiu hắt, nhếch nhác, được tượng trưng là cảnh dắt chiếc xe xịt lốp đi đến mỏi chân mà chưa chắc đã tìm thấy nơi sửa chữa đấy. Nhưng càng lúc nghèo khó, càng phải chăm chỉ học hành và giữ vững phẩm cách làm người, các con ạ. Bố đi làm nghề mộc khó nhọc cũng là để kiếm sống. Nhưng không phải để sống tức là không chết. Mà là sống để phát triển, hoàn thiện con người. Mà suy cho cùng, nghề nghiệp đâu có phải chỉ là phương tiện kiếm sống. Tất nhiên, nghề nghiệp nào thì cũng là để thỏa mãn một nhu cầu của xã hội. Nhưng nghề nghiệp nào cũng là cơ hội quý giá để biểu hiện nhân cách cao cả của con người, các con ạ. Thôi, bây giờ đã đến giờ học. Các con, mở sách ra. Đến giờ học rồi!

Nói rồi như sực nhớ, thầy tìm cuốn từ điển Anh-Anh giở loạt soạt, gằm mặt xuống tìm câu thành ngữ As dead as a dodo mà hôm rồi ông Tom Hayder úp úp mở mở chưa chịu giải nghĩa cho.