Chương 22 .
CÁI GÌ GÂY ẤN TƯỢNG đặc biệt nhất khi người ta thoạt gặp một thị trấn mới hình thành? Được hỏi một câu như thế thì thầy Quang Tình sẵn sàng đáp ngay tắp lự: là hệ thống đèn báo ở các ngã ba ngã tư giao cắt các tuyến đường. Nhận xét của thầy Quang Tình như của trẻ nhỏ, vậy mà xem ra là có lý. Hôm đạp xe đi thăm thầy Bùi Lễ nhân thể đem thư của thầy Trần Đình cho thầy Lễ xem, rồi hẹn một cái gặp gỡ của ba người, lần đầu tiên thầy Quang Tình đã phải dừng xe trước hệ thống đèn báo vậy. Xanh là đi. Vàng là chuẩn bị. Đỏ là dừng. Các hoạt động đều có sự phân chia nhau rành mạch trên cơ sở mọi quyền lợi đều được đảm bảo, không ai lấn át ai. Thêm nữa, xanh và đỏ đều có con số giây hiện lên đếm giật lui để người đi đường có thể chủ động về thời gian. Thời gian, thánh vật quý giá của con người. Và chính vì có thời gian nên thầy có thể chủ động quan sát tất cả những gì xảy ra chung quanh và nhất là trước mặt. Trước mặt là điểm giao cắt của các tuyến đường. Ở đó luôn có bóng những chiếc áo vàng công an. Và thế là thầy nhận ra một đặc điểm của một khu đô thị mới hình thành nữa là sự xuất hiện thêm một loại hình nhân vật mới. Làng quê, nơi ai cũng biết ai. Còn đô thị, nơi mọi người bị vô danh hóa. Thế nên con người thiếu hẳn đi sự tự kiềm chế. Và do vậy nó phải đẻ ra một lớp người trông coi việc an ninh trật tự công cộng. Đô thị tất nhiên cũng là nơi dễ kiếm tiền hơn. Giàu có hơn nông thôn nên cũng là nơi đẻ ra trộm cắp và nạn du đãng. Và thế là những người mặc áo vàng, đeo súng ngắn, cầm dùi cui và có chiếc còi quàng qua cổ phải xuất hiện. Đô thị, nơi quyền lực ra mặt công khai!
Trong những người mặc áo vàng như thế, thầy Quang Tình chú ý đến một người. Thầy không biết tên. Nhưng nhân dạng anh ta thì đố có lẫn. Phục phịch như ông Di Lặc. Bụng bia. Mặt húp híp. Đi lại đã khạng nạng lại lăng xăng. Và rất hay huýt còi.
Hôm nay, thầy Quang Tình vừa nói nhận xét của mình như vậy thì thầy Trần Đình đã kéo tay thầy và thầy Lễ:
- Còn một hiện tượng nữa đáng gọi là mới của đời sống đô thị đây?
- Hiện tượng gì vậy?
Cả thầy Lễ và thầy Quang Tình cùng nhìn thầy Trần Đình. Thầy Đình làm ra vẻ bí mật:
- Một sinh hoạt quần chúng bình dân, một kênh thông tin xã hội. - Nói rồi thầy chỉ vào bên hè phố - Cái gì đây các bạn?
Chà, đúng là con mắt của nhà xã hội học: một quán nước bên hè! Chiều qua theo lời hẹn, thầy Đình và thầy Lễ cùng đến nhà thầy Quang Tình. Ba người đã có cuộc họp mặt. Cơm chiều xong, đôi hồi trò chuyện quanh vấn đề bức thư của thầy Đình đặt ra đến tận khuya, nên sáng sau ba người dậy muộn. Lót dạ bằng món cơm rang xong, ba thầy dềnh dang như trẻ nhỏ dung dăng dung dẻ ra phố đi dạo thì nắng lên. Và thầy Đình bước vào một quán nước bên hè.
Không phải là một cửa hàng giải khát có các biển hiệu sang trọng lịch sự. Không phải là phòng trà có trang trí tranh ảnh và có nhạc Trịnh dìu dặt. Không có một không gian riêng. Tất cả đều bày biện phô lộ giữa thanh thiên. Một cái quán nước bên đường! Nó đấy! Trên vỉa hè, ở các bến xe, nhà ga. Cạnh các nhà hàng, các quán bar, hiệu phở. Và đơn giản, chỉ là một mặt bàn nho nhỏ, trên đó có mấy lọ kẹo lạc kẹo vừng, vài chai La Vie, dăm lon Coca, chục bao thuốc lá, mấy cái bánh đậu, bánh gai, nải chuối tây, bộ ấm chén cốc. Cũng đơn sơ như vậy, những chiếc ghế gỗ, ghế nhựa thấp tè đủ kiểu, khách có thể tùy ý kéo nó ra góc nào đó, ngồi nhâm nhi hoặc thì thầm trò chuyện riêng cùng một ông bạn cố tri với một cốc nước chè nóng trên tay.
Quán chè chén năm xu! Ấy là cái tên dân dã một thời của dịch vụ này. Nó đấy, cái dịch vụ đã xuất hiện và gắn bó với đời sống phố phường. Buổi sáng, sau khi điểm tâm một bát phở, một đĩa xôi. Có một ông bạn muốn trò chuyện mà không khỏi cách rách về việc trà nước. Cửa hàng giải khát, quan bar, phòng trà... long trọng, không cần thiết, lại tốn kém. Còn quán bên đường, giá cả bình dân mà chắc gì đã thua kém chất lượng. Gì chứ chè Tân Cương pha ủ ở đây thì đã đâu bằng. Chưa kể, thứ cuốc lủi nút lá chuối trong vắt và những hạt lạc rang húng lìu, lúc nào cũng sẵn.
Quán nước bên đường!
Lúc này thật tình là cả thầy Quang Tình và thầy Lễ đều có ý ngại ngần. Vai ông thầy tuy đã đóng xong mà nếp nghĩ nếp cảm vẫn chưa phôi pha. Nhưng trong cái choàng tay của thầy Đình, cả hai đều thấy cần chiều bạn vì đó chính là yêu cầu của nhà xã hội học.
- Cho mấy chén trà đi, bà chủ quán.
Thầy Đình sà xuống một chiếc ghế gỗ và kéo hai chiếc ghế nhựa cho hai bạn. Bà chủ đang lúi húi ghi số đề cho một gã thợ xây áo quần dính đầy vôi vữa, không ngẩng lên, miệng kêu liên tiếp hai tiếng có ngay, rồi nghển sang bên trái, đuôi con mắt lá răm vút một nét nhọn hoắt: “Này các bố trẻ, khe khẽ cái mồm thôi!” Bấy giờ, ba thầy mới để ý, trên mảnh ni lông trải khuất sau cái cây cột điện xi măng trên ngọn có gắn chiếc loa công cộng có một đám bạc.
- Sợ cái đéo gì. Khu này thằng Kình phụ trách, bọn chúng nó đã mua xong rồi.
- Ba píc a? Có thằng nào liếm không!
- Đ.mẹ, rét cóng cả rồi hả!
- À, hôm qua, đề về con mấy đấy, bà chị? Rét là rét thế nào! Mười nhép!
Một gã trong đám bạc, có bộ râu quai nón, vừa quất quân bài xuống vừa hất đầu sang quán nước. Bà chủ quán đặt ba chén nước xuống trước chiếc bàn nhỏ, ngoảnh lại, nói con số, nhưng chẳng ma nào nghe. Bốn con bạc cùng hai gã chầu rìa đang vào say máu đen đỏ. Tất cả đều cùng một chân dung. Áo bò quần bò. Xích vàng trề trễ trên cổ. Vòng bạc thõng cổ tay. Ria mép đen như đánh xi. Miệng cắm điếu ba số. Nhìn họ, thầy Quang Tình lại nhớ đến tập phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng, ông vua phóng sự đất Bắc Kỳ, và câu chuyện của ông Văn Chỉ, cháu đích tôn người gá bạc thời đã xa. Rồi tự hỏi: Bây giờ những trò cờ bạc bịp như lối đánh kiệu, lối đánh hụt nọc, lối đánh giác và đòn Vân Nam hẳn đã biến tướng và kỹ thuật điện tử chắc chắn là đã được ứng dụng vào cuộc đỏ đen này rồi. Con người từ khi hình thành càng lúc càng văn minh hơn, nhưng ở một hướng khác là càng lúc càng xa hình tướng ban đầu của mình, càng tha hóa hư hỏng là thế này đây!
- Các chú đánh giầy ạ.
Nghe thấy một giọng non tơ, thầy Quang Tình quay lại. Một chú bé, cách một cái hộp bìa, lẹp xẹp đôi dép tông đi đến, thấy cả ba thầy đều đi bata, thất vọng quay đi. Thì vừa lúc cùng với tiếng loa rao báo, một chiếc xe đạp trên giỏ xe xếp đầy báo, rẽ vào dệ đường. Thầy Đình chạy ra mua một tờ An ninh thế giới. Chính cái lúc thầy Đình đứng dậy, lộ ra một khoảng trống, thầy Quang Tình đưa mắt về phía đám bạc và nhận ra một gương mặt thật quen thân.
Dậu, một anh chàng thợ mộc tếu táo, đại diện cho nếp sống phóng dật của chúng sinh. Dậu không phải là một con bạc. Dậu chỉ ngồi chầu rìa. Mặt Dậu buồn buồn. Bà nội Dậu mới mất, thọ chín mươi lăm. Một người bà chăm chỉ và hết lòng yêu thương Dậu. Năm bà lão lên bát tuần, nhà nước tặng bà một cái áo vàng, một chiếc khăn vàng và mỗi tháng trợ cấp cho bà 180 nghìn đồng. Nhận tiền, bà bỏ ống. Các nhà khoa học về dinh dưỡng đến thăm, hỏi: “Bí quyết gì mà bà khỏe thế?” Bà bảo: “Tôi không biết.” Trẻ con hàng xóm thường ăn cơm với bà nói tranh: “Bà ăn tinh dưa cà thôi. Mà mặn khiếp.” Các nhà khoa học nói: “Bà ăn nhạt đi nhé!” Bà bảo: “Ăn thế này từ bé đã quen miệng rồi.” Sau Tết, bà gọi Dậu về, bổ ống, trao cho cháu, kể cả tiền Dậu gửi về nuôi bà, cả tiền bà lúc bán buồng chuối, bán đám rau khoai, khi đi cấy thuê, cuốc mướn được tất cả là mười triệu đồng. Bà giữ lại hai triệu và nói: “Nếu bà hai năm mươi thì đây là tiền mua cỗ hậu sự và thuê thợ kèn cho bà.” Dậu ứa nước mắt. Bà bảo: “Dậu à, cháu bồ côi bồ cút sớm, bà chẳng ở mãi với cháu được. Tìm người tử tế, đứng đắn mà dựa cậy mà noi theo chứ đừng lêu lổng cháu à.” Sáng mai bà đi, chiều hôm trước, bà còn cầm cuốc vun mấy gốc đao giềng ở ngoài vườn, vãi ngô cho đàn gà ăn, rồi đun một nồi nước lá sả, tắm gội thật lâu. Tối đến cơm nước xong, bà pha một ấm trà đặc uống hết rồi lên giường đắp chăn, coi như đi ngủ. Hàng xóm bảo bà ăn ở sạch sẽ đấy. Đưa bà ra đồng, Dậu khóc: “Bà ơi, bà đi rồi, cháu có tiền biết mua gì cho bà ăn bây giờ!”
- Có chuyện gì hay không, bác?
Mải nghĩ về Dậu, nghe bà chủ quán hỏi, thầy Quang Tình quay lại. Thầy Đình gập tờ báo, ngẩng lên:
- Lại cướp giết hiếp cả thôi. Thế bà hằng ngày không mua báo đọc à?
- Em chả đọc. Nhưng các vị đến đây ngồi trà lá xì xầm trò chuyện, chả việc gì mà em không biết. Biết hết! Hôm nay chủ nhật chứ ngày thường thì đầy chật cái vỉa hè này rồi. Các bác có biết chuyện ông Phó giám đốc công
an tỉnh này ăn hối lộ ba trăm nghìn đôla để làm lệch hồ sơ cho một đại gia thoát án tử hình không?
Thầy Lễ tròn mắt ngước lên:
- Chuyện tầy đình thế cơ à?
- Động trời là chuyện tiếp theo kia. Bị lộ, ông Trưởng mới gọi ông Phó lên. Anh Phó này, giờ thì thế nào báo chí nó cũng không tha tội anh đâu. Mà lên báo có nghĩa là ra tòa. Ra tòa thì anh nhục đã đành mà với số tiền ăn hối lộ to như thế thì cũng khó thoát án tử hình. Đã thế cơ quan ta cũng mất mặt. Chi bằng anh nhập viện ngay hôm nay với bệnh ung thư tụy mới phát hiện. Và tôi lệnh cho bệnh viện ngành tiêm một phát thuốc độc để anh ra đi, sau đó cơ quan sẽ làm lễ an táng anh theo nghi thức long trọng nhất. Như thế là đằng nào anh cũng chết mà chết thế kia là chết nhục chết nhã, chết mà tiếng còn để đời. Còn chết như tôi góp ý thì bảo toàn được cả danh dự của anh và của cơ quan. Mà anh cũng không phải hoàn trả số tiền lớn ấy.
- Khiếp quá!
Thầy Lễ chặc chặc lưỡi. Thầy Đình thản nhiên:
- Chuyện ly kỳ đấy nhỉ! Nhưng chắc chỉ là đồn thổi thôi. Cán bộ trung cao của Nhà nước ai lại thế!
- Vâng thì chỉ là đồn thổi. Nhưng tai vách mạch rừng, tin tức lắm khi cũng chắc như cua gạch đấy, các bác ạ.
- Cho chúng tôi mấy cái kẹo lạc đi! Này, bà chủ, nói xấu lãnh đạo thế bà không sợ công an họ bắt à?
- Miệng dân gian làn sóng bể. Bắt thì bắt cả làng cả nước, hả bác!
Quán nước bên đường! Mạng Internet không máy móc, không đường truyền dây dẫn. Nơi thỏa mãn thói ngồi lê đôi mách. Tụ điểm thông tin quốc gia và quốc tế. Nơi thỏa mãn nhu cầu giao lưu xã hội của những người bình dân!
Nghe câu đáp của bà chủ quán, thầy Đình cười cười tán thưởng rồi quay sang hai bạn:
- Các thầy có biết câu nói này của Nelson Mandela, lãnh tụ đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid, Tổng thống Cộng hòa Nam Phi không? “Bất cứ ai muốn phát biểu đều có thể nói. Đó là dân chủ trong hình thức thuần túy nhất.”
Chiếc loa công cộng trên cây cột điện ọ ẹ rồi nổi nhạc. Đám bạc nghển cả dậy, la rầm rầm: “Điếc đít, tắt nó đi bà chị ơi!” Bà chủ quán cười khinh khích, “Mấy chú này ăn nói hay nhỉ. Để nó nói còn biết thời tiết chứ!”
Quả nhiên, chiếc loa bắt đầu phát bản tin thời tiết. Thoạt tiên là tin: Lỗ thủng tầng ôzôn đang dịch chuyển đến nước Chi-lê. Tính ra tia cực tím tức tia UV gần đây đã tăng lên ngót ba chục phần trăm. Toàn nước Chi-lê gần đây sẽ rất oi bức nên chính phủ khuyến cáo người dân ra đường phải đội mũ, mặc áo dài tay, để tránh ung thư da. Còn thời tiết trong nước hôm nay ngày chủ nhật thì cả ba miền đất nước đều rất đẹp trời.
Cả ba thầy nghe vậy đều ngẩng lên cao như để kiểm tra tính xác thực của thông tin vừa phát trên loa. Quả nhiên, bầu trời thị trấn hôm nay đẹp thật. Nắng nhẹ hong khô mặt đất. Vòm trời xanh dịu. Phía tây lất phất một vệt mây trắng mơ hồ như hình chiếc đuôi ngựa. Gió hiu hiu, nhẹ bỗng, đưa tiếng người tiếng xe cộ vang vổng lên cao xanh. Đưa tiếng chuông từ một ngôi nhà thờ cuối phố vọng về rang rảng hơi bạc hơi đồng. Nghe tiếng chuông ấy, cả ba thầy cùng lúc ngơ ngẩn như lạc vào cõi lạ. Chưa bao giờ tiếng chuông nhà thờ lại vang vọng và thống ngự không gian lồng lộng, kiêu hãnh đến thế. Và giống như một phối ngẫu nhịp nhàng, nhằm biểu dương niềm kính tín thượng tôn của mình, từ cuối phố trong đội hình diễu hành, một đoàn con chiên là các bà các chị quần là áo lượt đang thong thả đi lên. Cây thánh giá nạm bạc nổi hình Đức chúa Giê-xu chịu nạn quằn quại đau đớn buông trên ngực, mặt ai cũng ngời ngời niềm vui sướng vì vừa qua phiên lễ lạy, với cảm giác đã trút bỏ hết tội lỗi buồn phiền, để trở nên thanh tân công chính.
Rời quán nước bên đường, ba thầy đi đến cửa hiệu sách thì dừng lại, vừa lúc họ nhìn thấy đám các bà các chị con chiên nọ.
- Thầy Quang Tình, thầy Lễ ạ. Thật tình là trước đây thì mình không sao có thể hiểu nổi, và luôn luôn có cảm giác rằng, con người sao lại có thể u mê đến thế. Giờ thì mình hiểu. Tín đồ Đạo Thiên chúa có đến hai
tỷ con người. Họ cùng nhất loạt tin rằng mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, kẻ bất chính cũng như người chính đính. Vậy thì hãy yêu thương tất cả và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình. Hỏi như thế có lạ không? Còn một điều bất ngờ nữa với mình, là gì, Quang Tình có biết không?
- Ông Giu-xe, cha nuôi Đức Chúa, và Đức Chúa Giê- xu đều xuất thân thợ mộc!
- Đúng thế! Họ có cái gì đó rất gần gụi mọi người và thánh thiện.
Thầy Lễ gật gù, thẩm lẩm:
- Con người chẳng ai giống ai thật. Anh thích thuốc lá Vinataba. Tôi ưa loại Ngựa trắng. Thuốc lá 555 là của nước Anh, nhưng không phải ở Anh ai cũng hút 555. Thế nên mới sinh ra gu Pháp, gu Anh. Và vì con tỳ con vị khác nhau nên mới có ẩm thực của người Việt, của người Triều Tiên, của người Thái. Cho nên mới có chuyện người Việt xa quê thì nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Mà hai thầy có biết không? Ông cụ nhà tôi đi triển lãm tranh ở Nhật về bảo người Nhật rất không thích cơm gạo dự, gạo tám thơm của ta. Đặc biệt là hương thơm của các loại gạo mà ta quý trọng. Phải khử mùi hương ấy đi họ mới chịu ăn. Tất nhiên tôi biết, đầu năm rồi các nhà khoa học đã công bố công trình khoa học vĩ đại về bản đồ gen người, trong đó cho thấy mọi người đều có một số gien giống nhau lên tới 99,9%, cũng có nghĩa là giữa con người với con người còn có số gien khác nhau, dẫu là nhỏ thôi, chỉ một phần ngàn.
Thầy Đình trầm ngâm:
- Vấn đề là tôi phải tôn trọng giá trị khác biệt của người khác để người khác tôn trọng giá trị khác biệt của tôi. Và phải công nhận Albert Einstein vĩ đại thật khi ông nói, “Một đầu óc khoa học nào cũng có đạo riêng. Đối với những người ấy, Thượng đế là một hữu thể.” Nhưng mà thôi, lĩnh vực chuyên sâu này của mình cũng còn lắm chuyện đấy. Ta vào hiệu sách xem có cuốn Thế giới phẳng mua đi!
o O o
Nửa tiếng sau, từ hiệu sách đi ra, mỗi thầy ôm một cuốn Thế giới phẳng dầy cộm. Trời đã sang trưa. Nắng ong óng vàng. Hè phố trục đường chính mang tên Nguyễn Chí Thanh rộng thênh thang. Đang dàn hàng ngang bước, bỗng thấy thầy Bùi Lễ giơ tay, kéo giật mình cùng thầy Đình lui lại một bước.
Không có gì đặc biệt cả. Thầy Lễ muốn hai thầy cùng dừng lại một nhịp đi, để nhường đường cho một em gái trên vai đang trĩu nặng một gánh rau đậu cà chua su hào.
Nắng in trên vỉa hè vóc hình tầm thước của thầy Quang Tình và thầy Lễ. Nắng soi rõ gương mặt linh hoạt và vóc dáng cao ráo của thầy Đình. Nắng in trên mặt vỉa hè lát những viên gạch đỏ hình lục lăng bóng hình cháu gái nhỏ gầy gò xiêu vẹo vì hai thúng hàng rau bán rong to nặng quá khổ trên vai.
Cùng với gánh hàng rau quá sức, ba thầy nhận ra ngay đó là một cháu gái mới lớn chỉ độ mười sáu, mười bảy tuổi, nhưng vẻ nghèo nàn khổ ải in dấu rất rõ trên thân hình gầy guộc của cháu; và lúc này, sau khi đã đi một thôi đường quá dài khiến lực đã cạn kiệt, thấy một bóng cây bằng lăng trên vỉa hè, cháu liền đặt gánh xuống để nghỉ lấy sức.
Tiếc thay, vừa đặt gánh xuống và cởi chiếc nón ra, múc gió hất vào khuôn mặt trái xoan tái nhợt xanh xao đầm đìa mồ hôi của mình, cháu đã tái mét mặt và run rẩy, vội vàng xỏ đòn gánh vào hai cái óc quang, rồi chùn người xuống, gắng sức nhấc hai cái thúng rau to nặng lên. Chắc chắn cháu đã định là sẽ cất bước ngay. Cất bước ngay lập tức, dẫu đang còn rất mệt. Nhưng rõ ràng là cháu gái đã không hành động kịp rồi. Một chiếc xe cảnh sát đã đỗ xịch bên lề đường; và từ đó nhẩy xuống ba bóng áo vàng công an cùng tiếng còi huýt lên nhặng xị từ một gã công an bụng xệ như đeo thúng.
- Cháu lạy các chú! Các chú tha tội cho cháu! Cháu không cố ý đỗ gánh để bán hàng. Cháu van các chú. Cháu chỉ trót lỡ thôi. Dạ, đây là rau nhà cháu trồng. Cháu biết là phố này cấm hàng rong. Nhưng mà cháu gánh nặng và mệt quá! Mẹ cháu bảo cháu đem ra chợ ở trong kia ạ…
Nghe những tiếng kêu than, van vỉ đẫm nước mắt của cháu gái bé bỏng nọ, ba cái bóng áo vàng chẳng mảy may xúc động. Quân pháp bất vị thân! Lạnh lùng đẩy cô bé ra khỏi cái gánh hàng, rồi tay giật thúng rau bên này, tay bê thúng rau bên kia, với những động tác nhà nghề, ba người chấp pháp mẫn cán loáng cái đã hót nhẹ cả hai chiếc thúng đầy rau của cô bé lên xe. Còn cô bé thì ngồi sụp xuống đất, tóc tai rũ rượi, nức nưởi từng hồi dài, bất lực nhìn theo chiếc xe đang rì rì nổ máy, sắp sửa lăn bánh rời đi.
Bất ngờ và kinh hãi nữa! Thầy Quang Tình và thầy Bùi Lễ cùng đứng sững và ngắc ngứ, không biết phải làm gì trước cảnh tượng thảm thương nọ. Cháu gái rất tội nghiệp, rất đáng thương, còn những người công an thì thực thi pháp luật theo trách vụ của họ.
Chính trong lúc còn đang bối rối, phân tâm trong hoảng sợ lẫn xót thương và căm phẫn, thầy Quang Tình bàng hoàng nhận ra, chiếc xe vừa vào số, sắp bon đi, thì bỗng đứng khựng lại.
- Các ông làm cái trò gì thế!
Thầy Đình bỗng như biến thái, thoắt trở nên nhanh nhẹn trẻ trung khác thường, đã phắt lên trước kính xe; cùng với gương mặt đỏ gay gắt, thầy dang rộng hai cánh tay, miệng há rộng phát ra những tiếng gào chứa chất đầy phẫn nộ và uất tức:
- Các ông công an! Một cháu gái bé bỏng con nhà lao
động đáng thương đáng quý như thế mà sao các ông nỡ lòng, hả! Các ông là cảnh sát vì nhân dân hay để hiếp đáp nhân dân? Trả lời đi!
Một bóng cảnh sát, chính là cái gã phục phịch bụng xệ, lõng thõng chiếc còi quàng cổ nọ, nhảy từ thùng xe xuống. Mặt hầm hầm, y tiến lại trước thầy Trần Đình và bất ngờ vung tay. Một cái tát. Rất may, thầy Trần Đình đã nghiêng người kịp tránh. Không một giây chần chừ, thầy Lễ và thầy Quang Tình cùng dấn lên. Tuy vậy các thầy nhận ngay ra là gã công an nọ không chút nao núng. Đưa chiếc còi lên miệng, rúc một hồi còi xong, gã quát:
- Chúng bay là những thằng nào! Thằng nào mà dám cản trở người thi hành công vụ.
- Thằng này đây!
Thầy Đình ưỡn ngực bộ ngực lép kẹp. Thầy Lễ chỉ thầy Đình:
- Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Nhân văn và Xã hội học Trung ương đấy.
- Viện trưởng mà láo thì đã có sẵn còng số tám đây, mở mắt ra mà nhìn đi!
Gã nọ lóc xóc chiếc còng số tám trên tay, hùng hùng hổ hổ. Rất may từ trên xe một người cảnh sát tóc hoa râm đeo quân hàm thiếu tá đã nhảy xuống. Người này gạt gã cảnh sát nọ sang bên, bước lên đưa tay lên vành mũ chào ba thầy, nhã nhặn:
- Có điều gì không phải xin được bình tĩnh trao đổi!
- Nói để các anh biết. - Thầy Lễ nói - Thầy Đình đây là giáo sư nổi tiếng đấy.
- Giáo sư bây giờ như chó con lợn con chứ là cái đéo gì!
Gã bụng xệ đeo còi hậm hực. Viên thiếu tá quay lại, gắt: “Đồng chí Kình! Không được nói năng tục tĩu thế!” Cùng lúc, trên xe người công an còn lại đã bê hai thúng rau xuống đất, trả lại cho cháu gái. “Cháu cảm ơn ba chú!” Cháu gái đưa tay quệt nước mắt, sụt sịt, bíu tay thầy Quang Tình.
Thầy Đình từ từ quay lại, nhìn người thiếu tá, rồi hất hàm oai nghiêm và kẻ cả:
- Này các ông công an. Tôi có lời khuyên các ông đây. Hãy sống chậm lại đi! Sống chậm lại đi! Cuộc sống không chỉ cần phải hành động gấp gấp tức thời đâu. Cần cả sự thong thả để suy nghiệm nữa đấy. Hãy sống chầm chậm lại một chút đi! Sống chậm lại để ngẫm suy về mỗi hành động của mình đúng sai thế nào. Để thấy rằng cách mạng bên cạnh mặt tốt đẹp còn có vô số sự ngu xuẩn.
- Cái gì? Ông vừa nói cái gì?
Đúng như dự cảm của hai bạn, thầy Trần Đình vừa nói dứt, viên thiếu tá liền đanh mặt lạnh băng. Giật lui lại một bước như để tránh cái động tác túm cổ áo của viên sĩ quan, thầy Đình chống tay lên sườn, vẫn cứng cỏi:
- Tôi nói rằng, lạm dụng quyền hành như các ông
là một sự ngu xuẩn. Cần phải biết tự giới hạn. Xin các ông nhớ cho.
Viên sĩ quan lừ mắt:
- Giáo sư nên ăn nói cẩn thận. Không chúng tôi không nể đâu!
Gã cảnh sát bụng xệ như được thể, sấn lên, hầm hè:
- Nên nhớ chúng tôi có thể mời các ông về đồn đấy. Đừng có nghi ngoe. Hai ông này tôi biết là khách vãng lai. Còn ông này - nhìn chằm chằm vào mặt thầy Quang Tình, y thở è è - Liều liệu đấy, tôi không lạ ông đâu!