Chương 23 .
GIẤC MỘNG gặp Già chỉm cùng với nỗi khắc khoải lo âu của Thắm đúng là có tính tiên báo thật. Thấy Thắm đột ngột trở về làng Nhuần, chị dâu mừng quá, bật khóc tu tu. “Đã mấy lần tôi định gọi điện nhắn tin mà lại ái ngại cho hoàn cảnh neo đơn của cô chú” - chị dâu nói, rồi tiếp, nếu kể từ xa thì phải nói là từ ngày pò Rúm mất vì oan ức, tính nết anh Siểu đã có ý khang khác rồi. Mấy năm gần đây thì càng khác nữa. Đến đầu năm nay thì nhiều khi không còn là anh nữa rồi. Từ một người trai trẻ vui vẻ, như con chim sơn ca, nhiều lúc anh như ông già lụ khụ, lầm lì cả ngày có khi chẳng nói một câu. Hội diễn dân ca tỉnh năm tổ chức hai lần, trước nay không năm nào anh vắng mặt, lại còn hai lần lĩnh huy chương vàng về, nay thì anh chẳng đoái hoài. Đầu năm có người ở Sở Văn hóa tỉnh vượt núi trèo non đến làng tìm anh, nói anh làm hồ sơ, ghi chép lại tất cả các khúc hát anh đã sáng tác, các hoạt động xây dựng phong trào, để tỉnh xét phong Nghệ nhân ưu tú và Ca sĩ tài tử dân gian, anh chỉ ừ hữ cho qua chuyện. Người nọ đi, thấy anh không động tĩnh gì, chị dâu nhắc nhở thì anh nói: “Tôi không là con chim Sroong ló bị con chim Ca ca ở dưới đất lừa rồi mất tổ trên cây đâu.” Có khúc mắc gì và ai là con chin Ca ca đây?
Trời chuyển vào thu, ve sầu thôi dóng dả khúc ca mùa hạ, lá cây sau sau sau nhà đổi sang màu vàng thì một hôm thấy anh dẫn con ngựa bạch, con ngựa đã từng đi đón thầy Quang Tình về làng, lên huyện thay móng sắt, rồi hôm sau, leo lên mình nó, huých gót chân vào bụng nó, thúc nó đi. Chị dâu chạy tới mép suối, gần dãy cối gạo thì đuổi kịp. Hỏi thì anh bảo: “Ở nhà lo làm ăn, đừng mải nghe chim quanh quý hót lỡ buổi cầy, tôi đi thăm bạn hát.”
Chị dâu ôm mặt khóc, lủi thủi quay về. Chờ một tháng không thấy anh về. Lo quá mà không biết nhờ cậy ai. Xóm giềng đến thăm, nói mỗi người mỗi ý. Người bảo anh đi sang miền Đông, phía Bản Lẩu huyện Mường Cang. Người bảo anh đi Phong Thổ, miền Tây, vùng Giáy trong, bên kia dãy núi Hoàng Liên.
Pò Hỉ sang nhà nói:
- Tôi biết kỹ về Siểu mà. Bảy tuổi, cậu ấy đã cùng hơn chục trẻ con trong làng được pò Rúm cho đi tìm thầy học hát rồi. Thầy dạy hát đầu tiên là ông Phù ở làng Pẳn. Học vào các buổi tối, nên các trò từ nhà đi còn mang theo gà, thịt lạp, tới nhà thầy học xong còn làm xíu dề ăn kia. Buổi đầu chỉ là học truyền miệng. Sau có chữ mới ghi chép được. Về vươn Giáy, ông này là bậc sư phụ, hát liền bảy ngày bảy đêm mà không lặp lại bao giờ. Siểu nó cũng còn học thổi kèn pỏ le nữa. Thầy dậy kèn là pò Thín, trước học kèn từ một ông ở trong đội kèn lính khố đỏ đóng ở đồng làng Chiềng thời Pháp thuộc.
Nhẩn nha qua lời pò Hỉ kể càng thấy anh Siểu là người tài. Ông bảo, thông thường hát Giáy là những bài hát đối đáp, giao duyên, kể chuyện lữ hành nơi địa giới. Nhưng anh Siểu còn hát được cả những bài đối ứng, miêu thuật các cuộc du hành lên thượng giới; chẳng hạn lên tới trời, nơi các vì sao có các thành phố buôn bán rất sầm uất, rồi tới mặt trăng, gặp chú Cuội và ra vũ trụ bao la. Có cảm tưởng, người hát đến đây là đi vào cõi mê. Lúc ấy, người đối đáp phải hát lời dụ dỗ ngon ngọt để mời hồn trở về cùng cha mẹ, bản quán. Hát đến mức này là tột cùng rồi. Nên nhiều cặp trai gái dự hát xong mê mẩn nhau thành tình nhân, vợ chồng.
Nghe đến đây cả Thắm và chị dâu đều chột dạ. Cả đêm hôm đó hai chị em bàn bạc, hôm sau cả hai chỉ nhìn mắt nhau đã biết là cùng một ý là đi làng Pẳn. Làng Pẳn ở gần, chỉ nửa ngày đường là tới. Nhưng sớm đi, chiều tối đã thấy hai chị em dẫn nhau về. Làng Pẳn có ông Phù thật, nhưng ông mất đã ba năm và không có anh Siểu ở đó.
Nói lại với pò Hỉ, pò Hỉ vỗ trán rồi nhíu mày, cắn môi: “Siểu có mang ngựa theo, hẳn là tính nước đi xa. Vậy đến Mường Thơm xem sao. Mường Thơm là gốc hát Giáy đấy. Bao nhiêu nghệ nhân hát Giáy đều sinh ra ở đó mà.”
Mường Thơm ở tận đầu con sông Hồng. Ngày thứ nhất ô tô còn chạy trên đường bằng tới huyện lỵ. Ngày thứ hai đường đã là đường cáo đường chồn. Hết dốc lại đèo. Qua rừng gianh đến rừng vầu. Qua làng Tày đến động Dao Tiền, Dao Đỏ. Chiều thứ hai, Mường Thơm hiện ra trong thung lũng xanh tươi tròn như chiếc mâm đồng. Lúa đang rũ rĩ chín. Vàng ong óng. Bắc qua con suối rộng là chiếc cầu mây vẽ một nét mềm mại tình tứ. Y sì Làng Nhuần từ cây cầu đến dãy cối gạo, hàng cây doi, khu rừng đông cắm, hàng rào tường vi, những mái lá chít trắng như dát bạc nghiêng nghiêng. Tìm đến nhà trưởng bản để hỏi thăm và nhờ tá túc thì cũng lại y sì làng Nhuần với bữa cơm đón khách thịnh tình có rau piệc cút và chõ cơm đồ cùng liễn nước cơm sóng sánh. Thiếu nữ Mường Thơm cũng áo hồng, áo xanh, áo vàng cài khuy bên sườn, cô nào cô nấy cũng cao dong dỏng, da trắng nõn, tiếng nói thánh thót như hát như ca.
Bữa cơm vừa xong thì đằng sau nhà bỗng réo rắt nhộn nhàng tiếng người tiếng kèn. Trưởng bản đứng lên tay vỗ bộp bộp, nét mặt không giấu nổi hoan hỉ: “Tối nay có vươn Giáy vui rồi!”
Thế là hai chị em vội đứng lên. Chị dâu đùn đẩy việc giãi bày cho Thắm. Thắm đành nhỏ to mấy lời nói rõ lý do hành trình, thú thật cũng rất thích vươn Giáy, nhưng lúc này quả thật không có bụng dạ nào. Không ngờ, vừa dứt lời, một người trai trẻ đã từ ngoài sân, cầm cây kèn pỏ le đi vào, bập môi vào miệng kèn, rúc lên một hồi ánh ỏi, rồi tươi cười, lí láu:
- Lâu lắm rồi chúng tôi chưa được gặp anh Siểu. Anh Siểu là pẩu sray của chúng tôi đó, hai chị ạ. Chính anh đã lập đội kèn cho Mường Thơm chúng tôi. Đêm nay hai chị đã đến đây, thì cho phép chúng tôi thổi mấy điệu để chào mừng vậy nhé!
Một cuộc hòa tấu kèn pỏ le không hẹn mà thành. Thôi thì đủ các điệu. Tất nhiên là toàn điệu đỏ, điệu vui. Điệu chào con đường. Điệu chào dân làng khi vào làng, xin làng mở cửa. Điệu chào chủ nhà khi vào nhà chủ nhà.
Buồn bã, hai chị em đành quay về làng. Ngại ngùng, chẳng còn dám sang hỏi ý kiến pò Hỉ nữa. Cả đêm nằm bên nhau ngẫm nghĩ, gần sáng chợt chị dâu nhổm dậy.
- Thắm à. Chị nhớ là...
- Chị nhớ cái gì về anh Siểu à?
- Phải rồi! Hai chị em mình phải đi Bình La. Vì có lần
anh Siểu kể cho chị nghe, rằng anh ấy đã đi hát ở nhiều nơi, nhưng anh vẫn nhớ nhất những lần đi hát ở Bình La. Bình La ở bên kia dẫy Hoàng Liên, thuộc miền Giáy Trong, đi ngựa hai ngày mới tới. Ở đó có lần anh hát ba ngày ba đêm không nghỉ. Có chồng có vợ rồi cũng hát. Cuối cùng, còn lại một cặp là anh ý và một cô đấu nhau. Bí quá cô ấy phải mời sư phụ gà cho. Vậy mà vẫn thua. Sao mà gái vùng này mê hát quá thế! Đến ngày thứ tư vẫn không cho khách về; họ giữ khách lại bằng cách giấu nón mũ, yên ngựa của khách vào rừng. Mãi sau mới đồng ý cho về, nhưng lại mở tiệc khoản đãi và vào tiệc lại chia đôi bên hát đấu. Xong tiệc, ra về, lưu luyến lắm. Còn trao nhẫn vàng, tặng vòng bạc cho nhau.
Thắm nói:
- Chị nói thế thì em nhớ rồi. Hồi em còn bé, có lần anh đã kể cho em lần đi hát ấy. Phải rồi, ngày thứ tư, rời Bình La, anh Siểu cưỡi ngựa về đến Tam Đường, vào một làng nghỉ. Con trai, con gái làng đó lại kéo đến, hát thông một lèo tới gà gáy sáng. Hôm sau, trở về tới Nậm Xe lại tiếp tục hát. Hôm sau nữa, từ biệt ra về, leo lên ngựa là gục xuống bờm ngựa ngủ tít. Mưa, không nón mũ, ướt dầm dề cũng không biết. Về đến nhà, ba ngày sau, đám các cô ở Tam Đường đem vải ra Bát Xát bán, như lời hẹn, vào thăm, thế là lại mở hội hát. Lại thổi kèn. Lại kể chuyện Pít chai na phu si và nhiều chuyện cổ nữa.
Chị dâu trầm ngâm:
- Hồi yêu chị, anh Siểu có kể chuyện Pít chai na phu si cho chị nghe. Chị vẫn nhớ chuyện, nhất là đoạn người phụ nữ ấy đi làm dâu, bố mẹ chồng chẳng may bị mù, trong khi chồng theo lệnh vua đi dẹp giặc nơi xa, nàng dâu bèn nuôi bố mẹ chồng bằng cách xẻo thịt tay chân mình nấu cho bố mẹ chồng ăn. Nhưng chị nhớ nhất là những bài hát ngắn. Có đến cả ngàn bài. Anh Siểu bảo thế. Nhiều bài do tự anh nghĩ ra. Rồi phòng Văn hóa huyện ghi lại, in ra giấy phổ biến cho mọi người. Chị còn nhớ. Anh Siểu ơi. Anh ở đâu sao không về với em! Anh Siểu ơi, em biết anh buồn vì oan ức, vì thương cha thương mẹ, thương em thương cô Thắm, nhưng chúng em cũng thương anh lắm. Anh tỉnh lại đi, quên oan ức buồn phiền đi, về nhà đi, để chúng em đỡ lo, anh ơi!
Vừa nói vừa hát, chị dâu nấc lên từng hồi, rồi chị ôm mặt khóc nức nở. Chị dâu yêu anh Siểu quá. Cũng bằng Thắm yêu anh Quang Tình rồi.
Ngoài trời sương đã tan. Lịch kịch tiếng sừng con trâu chạm vào dóng chuồng, chắc nó muốn đi làm. Thắm lắc vai chị dâu:
- Thôi chị đừng khóc nữa. Thế thì chắc chắn là anh Siểu đang ở Bình La rồi. Dậy chuẩn bị rồi hai chị em mình ra đường vẫy ô tô đi Bình La nào!
Sau ngày ở Bình La, hai chị em lại thuê xe ôm đi sang Bản Khoang, vùng thảo quả của họ Sần trước đây. Tiếp đó là các làng người Giáy ở phía bắc huyện Bát Xát rồi
lại là các làng ven sông Hồng như làng Quang, làng Vền, làng Kim...
Trở về làng Nhuần, mệt mỏi và thất vọng, hai chị em càng lúc càng chìm vào tăm tối lo sợ. Hung hiểm có chừa ai đâu. Người khỏe mạnh tỉnh táo đã vậy. Đằng này, anh đang lúc tâm trạng bất an như thế, ốm đau sầu não như thế. Mưa rừng. Suối lũ. Núi lở. Vực sâu. Chưa kể thú dữ, kẻ gian tham độc ác. Sao người lại làm người đến nông nỗi thế này!
Đêm thứ ba, hai chị em về làng, trằn trọc gần sáng vừa thiếp đi thì nghe thấy tiếng chân con vật cào cào đất ở ngoài sân, rồi sặc lên mùi mồ hôi ngựa. Vội vàng choàng dậy đẩy cửa ào ra. Trời, anh Siểu! Anh Siểu áo đen, quần chàm một thân xác tơi tả ướt sũng, lép kẹp như các bao tải đang phủ phục trên mình con ngựa bạch, đầu gục trên đám bờm ngựa rối bù.
Vội vàng đỡ anh Siểu xuống, hai người phụ nữ chân tay run lẩy bẩy vừa sợ hãi vừa thương xót. Lửa trong cái bếp khách cháy dựng ngọn. Thắm ra sân đưa con ngựa vào chuồng, đổ đầy máng ăn ngô trộn thóc, thầm cám ơn con vật tình nghĩa khôn ngoan, có tài nhớ đường. Chưa biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng thấy được người về là may rồi. Chị dâu mắt đẫm lệ, bắc nồi cháo, sau đó ra vườn bới củ gừng đem vào đập dập rồi tìm chai rượu. Mùi rượu gừng xộc lên cay cay thơm thơm. Lưng anh Siểu nổi từng vầng đo đỏ. Hôm sau anh Siểu mở mắt.
Ăn hết bát cháo rồi lại nằm xuống. Chiều thì ngồi dậy được. Chị dâu hai mắt nhoèn nước, bước đến bên, mừng mừng rỡ rỡ lập bà lập bập:
- Anh Siểu, anh đi xa, ở nhà em và Thắm lo quá. Anh trừng mắt đọc thơ mà như cáu bẳn:
Đi bốn góc trời có bốn gói cơm thì tốt
Đi bốn chân trời có bốn dao găm không tốt.
Thắm thấy lạ chạy lại, chưa kịp nói gì thì anh đã lại cất tiếng:
Một người buộc cho chặt
Một người lắc cho lay
Một người dậy cho biết
Một kẻ lừa cho chết.
Biết đó là những câu hát, Thắm càng lo ngại.
Từ hôm ấy, hai chị em không dám hỏi han gì anh. Và anh cũng bặt tiếng. Một tuần lễ nữa trôi qua. Trước sau vẫn chỉ là một đám mây mù dày đặc. Ca sĩ tài tử dân gian đã biến thành một ông già suốt ngày lầm lì, chẳng hé răng nói một câu. Căn bệnh tâm thần này do đâu mà có thì mười phần cũng biết được tám chín. Nhưng cách chữa thế nào thì đành bó tay. Chị dâu nghẹn ngào bảo Thắm:
- Thôi, được thế là chị mừng rồi. Khổ, em vất vả vì anh chị quá! Chị cám ơn em. Em về với anh Quang Tình và các con nhé!