← Quay lại trang sách

Chương 27 .

VĂN CHỈ ĐÂY, thầy Quang Tình ơi. Mong thầy hãy hiểu cho tôi. Ông cụ nội tôi làm nghề gá bạc. Ông thân sinh ra tôi làm nghề thấu khoán. Gia đình tôi thuộc loại khá giả. Tôi có điều kiện để được hưởng thụ một cuộc sống tinh thần và vật chất khá đầy đủ và dư thừa. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, bố tôi cầm cờ đỏ sao vàng đi mít tinh ở Nhà hát Lớn ngày 18 tháng 8. Tuần lễ Vàng, mẹ tôi tháo vòng xuyến, hoa tai, nhẫn vàng đem ủng hộ chính phủ, tính ra hơn hai ki lô. Bố tôi hiến tặng nhà nước năm căn nhà ở các phố Gambetta, Tràng Tiền, Tràng Thi ở Hà Nội. Kháng chiến bùng nổ, bố tôi tản cư lên Tuyên Quang rồi được tuyển vào làm nhân viên kế toán tài chính của tỉnh này. Tuyên Quang vùng tự do, có dòng Lô trong xanh, có Gành Quýt hiểm trở, có Chiêm Hóa, Đầm Hồng căn cứ địa Kháng chiến. Tuyên Quang nơi tụ tập các văn nghệ sĩ anh tài. Thi sĩ Xuân Diệu có bài thơ nhan đề Về Tuyên rất hay. Thế đấy, làm sao nói đến Tuyên Quang lại không nhớ đến Trường ca Sông Lô của thiên tài Văn Cao: Đây dòng Lô, đây dòng Lô. Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng. Đây Volga, đây Dương Tử, đây sông Lô, đây sóng căm hờn vút cao. Ôi Tuyên Quang! Tuyên Quang! Nếu đất nước Venezuela xinh đẹp ở Châu Mỹ La tinh có nhiệm vụ cung cấp các Miss World cho thế giới, thì mảnh đất Tuyên Quang này quả là xứng đáng với danh hiệu “Miền gái đẹp” mà văn sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã danh phong. Tuyên Quang, ở đó có một mỹ nữ đã làm siêu lòng bố tôi. Cô tên Minh Hường. Bố tôi như kẻ ăn phải bùa mê thuốc lú, không hề nghĩ đến món nợ tinh thần ông sẽ để lại cho con cái sau này, đã nhẫn tâm bỏ lại vợ con ngoài kháng chiến, theo bóng hồng mỹ nhân nọ trở về thành phố Hà Nội lúc này đang bị thực dân Pháp tạm chiếm. Bỏ vùng kháng chiến, trở về thành phố của địch bất kể là vì một động cơ thuần túy tình cảm và cá nhân, thậm chí là tầm thường như bố tôi thì cũng vẫn là đầu hàng giặc. Là Việt gian phản động. Dẫu bố tôi lúc đó chỉ là một viên thư ký quèn của một hãng ô tô ca chạy đường Hà Nội-Hải Phòng. Đã vậy, mỹ nhân nọ sau một thời gian dan díu với bố tôi, phụ bần tham phú, tính kế lâu dài, lại đã bỏ rơi ông để lấy một viên sĩ quan phòng nhì quân đội quốc gia của chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Và đến khi Hiệp định Genève năm 1954 được ký kết, hoà bình được lập lại, Bắc Nam chia hai miền, thì bóng hồng nọ cùng chồng chuyển hẳn vào Nam, để lại bố tôi lẻ loi bẽ bàng nơi đất Bắc. Chiến tuyến đã chia. Hệ tư tưởng đã phân định. Từ đây bố tôi sống trong u buồn và ân hận. Sai lầm về tư cách liệu có thể bị coi là lỗi lầm về chính trị? Và mặc cảm ám ảnh ông không lâu sau đã có lời giải đáp.

Một ngày cuối năm nọ, khi miền Bắc sau mấy năm yên ổn đã có vài vụ máy bay của Sài Gòn xâm nhập và thả biệt kích, bố tôi đang uể oải đạp chiếc xe đạp cà tàng trên đường phố Hàng Bài ở trung tâm thủ đô Hà Nội thì kịch một tiếng, xe ông thình lình bị bắn về phía trước, loạng choạng rồi cùng ông đổ kềnh trên mặt đất. Một chiếc xe máy đi từ phía sau gần như cố tình đâm vào đuôi xe ông. Lồm cồm bò dậy, chỉ thấy bị sứt xát hai đầu gối và một bên má, ông vội nhoai người lên để giữ lấy chiếc túi vải đựng các vật dụng tùy thân móc ở tay lái xe. Không kịp rồi. Chiếc xe máy gây tai nạn đằng sau ông có hai gã thì một gã đã nhẩy bổ tới và giật lấy chiếc túi nọ. Trong cái túi vải đó hẳn có tiền bạc? Đâu có. Chỉ có tấm thẻ căn cước và mấy lá thư của người tình xưa từ Sài Gòn mới gửi ra mà ông coi là những kỷ niệm thiêng liêng nhất đời. Những lá thư tình thấm đẫm mùi cải lương và thương hại. “Cướp! Cướp! Trả tôi cái túi đây!” Tất nhiên, ông bố tôi đã kêu cứu. Và thật may, một chiến sĩ công an trẻ đã xuất hiện. Miếng võ nhà nghề của anh đã đánh ngã một lúc hai tên cướp đường và thu lại được chiếc túi. Thêm một chiến sĩ nữa từ trên vỉa hè bước xuống, đỡ ông bố tôi dậy và tuýt một tiếng còi, yêu cầu cả hai tên cướp cùng nạn nhân là ông về đồn. “Cho tôi xin lại cái túi. Cám ơn các anh! Chào các anh, tôi đi nhé!” Ông bố tôi vừa nói vừa chìa tay. Nhưng người cảnh sát vẫn giữ trong tay chiếc túi lấy lại được từ gã cướp đường, đã chặn trước ông và nói với một giọng thật tự nhiên và lễ phép: “Dạ! Mời cả bác nữa cũng về đồn cùng chúng cháu ạ!” “Ồ, sao tôi lại phải về đồn cùng với hai tên cướp nhỉ? Bị cướp, thu hồi lại được tài sản bị cướp rồi thì tôi có việc gì nữa mà phải về đồn.” Ông lý sự bằng một giọng thật từ tốn. Nhưng người cảnh sát đã nhấc chiếc xe đạp của ông lên hè, sau khi giải thích rất đơn giản, rằng bác cần về đồn để công an chúng tôi xem trong túi bác có cái gì mà bọn cướp nó rắp tâm chiếm đoạt.

Để xem trong túi bác có cái gì mà kẻ cướp nó định chiếm đoạt. Rõ là lý sự vừa trẻ con vừa ngang cành bứa chưa. Ngang cành bứa thì có chứ hóa ra chẳng trẻ con tí nào. Nó là một thủ thuật nhà nghề. Nghĩa là để có thể khám xét nhà một nghi phạm nào tôi chỉ cần cho một tên đạo chích đến rình ở cửa nhà anh. Và với lý do là để xem trong nhà anh có cái gì mà tên kẻ trộm đó rình mò, tôi có thể xộc vào bới móc không còn một ngõ ngách nào trong

nhà anh. Kết cục của trò tạo cớ để khám xét này thật lộ liễu, khi hai tên cướp vừa bước vào đồn đã được điệu đi nơi khác tắp lự. Vai cò mồi, chân gỗ đã đóng xong! Còn ông bố tôi, với mấy lá thư tình của vợ một tên sĩ quan phòng nhì là đã quá đủ vật chứng để tra vấn và kết tội là kẻ thù của cách mạng rồi. Bắt nhầm còn hơn bỏ sót!

Đau đớn nhân hai lần, vừa bị bội tình vừa mắc hàm oan chính trị, vào nhà giam được hai hôm thì bố tôi cắn lưỡi tự tử.

Xong một cái vạ trời gieo. Xong một đời người! Đến đời tôi. Lúc này tôi đang học năm thứ hai khoa

Vật lý trường đại học Sư phạm. Tôi học khá. Các bài kiểm tra đều đạt điểm 5. Do vậy tôi luôn được phân công giúp đỡ các sinh viên học kém. Sinh viên mà tôi được kèm cặp là anh Lê Trí. Anh là đảng viên lại là trưởng lớp. Anh được đặc cách nhận bằng tốt nghiệp trung học phổ thông do khi đang học dở lớp mười đã xung phong nhập ngũ. Kiến thức toán lý của anh lỗ mỗ. Nhị thức luận của Newton anh còn chả biết. Kèm cặp anh rất vất vả. Được cái anh rất chịu khó. Đêm đêm, khi mọi người đã đi ngủ, anh thường gọi tôi xuống nhà ăn của khoa để học bài. Đời sống sinh viên thời nào thì cũng khổ. Ăn như sư, ở như phạm. Đang học thì đói quá. anh Trí bảo, để tớ vào bếp xem có kiếm dược miếng cháy hay củ quả gì không. Bước vào cửa bếp thì thấy bóng một con mèo đen. Một con mèo hoang đang la liếm cạnh cái chảo trên bếp lò. “Tóm tên thổ phỉ này rồi gọi chúng nó xuống nổi lửa đi!” Anh Trí bảo tôi. Thì cũng là thói quen săn bắt thú rừng ăn thịt đêm đêm từ hồi còn đánh giặc ở Trường Sơn mà. Hưởng ứng dự định của anh, tôi vòng ra phía sau con mèo. Bắt mèo không phải là dễ. Biết vậy nên anh Trí cầm con dao nhọn lao thẳng tới chỗ con vật với ý định trước hết xả cho nó một nhát vào lưng. Không ngờ nền nhà bếp lênh láng nước trơn chuồi chuội, anh trượt chân ngã, đầu vập vào thành lò và lưỡi dao nhọn chẳng hiểu sao lại quay ngược lại chọc thẳng ngay vào bụng anh. Kinh hoàng, tôi vội chạy lại đỡ ngang lưng anh và cầm lấy chuôi con dao rút mạnh ra, nghĩ là để kịp thời cứu anh.

Trọng chứng hơn trọng cung. Vết tay tôi trên cán dao đã đủ để tố cáo tôi là kẻ giết người rồi. Và còn gì nữa? Tôi giết anh Trí vì anh là cái tội cái nợ của tôi. Kiểm tra môn Vật lý học kỳ vừa qua, do không giúp anh có được điểm ba nên tôi không được kết nạp Đoàn và đó là lý do khiến tôi giết anh. Tôi giết anh vì anh có tính sĩ diện, đã dốt lại hay cãi ngang. Có bận anh còn chê tôi kém trước mặt cô Ngà hoa khôi của lớp. Thôi thì còn thiếu gì lý do mà mọi người không cố tình nại ra để đẩy tôi vào vòng tội lỗi. Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết!

Tôi bị kết án tù mười năm và đi cải tạo tại trại giam Thái Biên gần trường Bổ túc Văn hóa Công Nông của thầy Quang Tình. Khỏi phải nói lúc bấy giờ tôi buồn nản đến thế nào. Nghĩa đời trong ba tiếng: Máy điện giục gầm gừ. Chuông đạo hát vô tư. Kẻng tù khua gắt gỏng. Đọc tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu có bao giờ lại nghĩ rằng rồi có lúc mình lại được nghe tiếng kẻng tù? Kèng kèng kèng... tiếng kẻng tù phát ra từ một cái vành xe ô tô rỉ sét. Kẻng báo dậy. Kẻng báo đi làm đường, đi phá đá, đi trồng trọt. Sợ nhất là tiếng kẻng ngũ liên báo có tù trốn trại. Đến năm thứ hai thì tôi được học nghề. Hồi đó nữ thì có nghề may, nghề dệt thảm, nghề khâu bóng da. Nam thì có nghề rèn, nghề mộc. Vục đầu vào học, tôi cố quên đi tất cả nỗi đau buồn của tôi và của bố tôi. Người dạy nghề là một bác già gần sáu chục, người Hà Nam. Ông chính là con trai một người thợ mộc đã góp phần tạo dựng ngôi đại khoa ông thân sinh ra bố tôi kiếm được nhờ nghề gá bạc. Ông thợ phạm tội đánh bạc và chỉ lĩnh án có ba năm. Ngày ông mãn hạn tù, tôi đã có trình độ thợ mộc bậc ba. (Đó, chuyện tôi học nghề mộc là tình cờ vậy chứ không như có lần tôi đã bịa tạc với thầy đâu.) Dạo đó do đi rừng nhiều nên tôi biết khu rừng Đản Khoa gần đó là vùng rừng nguyên sinh, có rất nhiều sến táu cổ thụ lưu niên.

Đến năm thứ tư ở tù thì tôi được tha bổng. Kỳ lạ chưa? Nhưng thật ra thì không có gì là kỳ lạ cả. Vì suốt ba năm ở tù là chuỗi thời gian tôi liên tục làm đơn khiếu nại. Và cô em gái tôi ở bên ngoài không kỳ quản khó nhọc hết ngày này sang ngày khác đến gõ cửa các cơ quan hữu trách kêu oan cho tôi và tốn kém không ít tiền bạc. Nén bạc đâm toạc tờ giấy!

Ra tù, tôi cùng mấy anh em phạm nhân học mộc ở lại ngay địa phương nơi trại giam “đóng quân”. Chẳng phải là gan sành dạ sỏi gì. Mà chỉ là nát gỗ thì còn bờ tre, còn có nghề trong tay thì hãy kiếm sống cái đã. Mà kiếm sống thì không gì bằng quen biết thung thổ. Tôi quen biết thầy Quang Tình từ đó. Không thể quên được những lần đói khát được thầy cưu mang, rét mướt được thầy truyền cho hơi ấm ngọn lửa. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Bát cơm phiếu mẫu nhớ ơn nghìn vàng.

Làm nghề khai thác gỗ cực lắm. Thứ nhất là mồ côi cha. Thứ nhì gánh quẩy, thứ ba sơn tràng. Đản Khoa là vùng rừng nguyên sinh tôi đã biết. Nhưng phải qua mấy dẫy núi đá vôi che khuất bên ngoài, đi cả nửa ngày đường mới vào tới nơi. Cơ giới không có đất dụng. Chỉ có sức người và sức trâu. Nghĩ đến những ngày lặn lội trong khu rừng Đản Khoa giờ tôi vẫn còn rùng mình. Hồi đó làm gì đã có máy cưa. Chỉ có rìu búa. Đứng chặt cây, thấy ngưa ngứa, cúi xuống nhìn, hai bắp chân đã bu đen muỗi rừng. Tuốt ngược lên một cái, xòe hai bàn tay nhìn, cả năm ngón tay và lòng bàn tay đã đỏ lòm máu mình.

Nguyên tắc lâm nghiệp đặt ra là chỉ được khai thác ba mươi phần trăm trữ lượng gỗ của rừng. Vì như thế, sau mười năm thì rừng đó sẽ hồi sinh hoàn nguyên. Thêm nữa cây nào đủ tiêu chuẩn mới được đốn hạ và quyết không được gây tổn hại đến đám cây non chung quanh. Như vậy, với người thợ sơn tràng thì quan trọng nhất của kỹ thuật là điều khiển cây đổ theo ý mình. Bởi vậy trước khi đốn chặt một cây nào thì phải làm công việc phát luồng xung quanh cây đó ít nhất là trước ba bốn tháng. Nghĩa là quanh cái cây định đốn hạ nhất thiết phải quang đãng cái đã. Rắc rắc... Nghe tiếng lõi cây vặn mình, trật ra khỏi gốc, rùng rợn như chứng kiến một cơn bão rừng. Nhất là khi nhìn lên trời, thấy các vòm lá rung chuyển, rũ rượi tả tơi, rồi cái thân cây khổng lồ đang tự dưng nghiêng dần nghiêng dần, thì kinh hồn hoảng sợ đến mức có cảm tưởng là trời sắp sập. Đốn hạ một cây cổ thụ, một việc động trời. Thành ra, lúc đầu nhiều khi không còn giữ được bình tĩnh, thấy cây sắp đổ là cuống cuồng chạy tóe đi. Rồi quay lại ngước lên thấy một khoảng trời đang râm tối bỗng trắng hoe ra, rồi sau đó thình lình ầm một tiếng như bom tấn nổ, chuyển rung cả một khu rừng, thì kinh sợ đến mức còn thấy lại trong giấc mơ. Dù đã đốn hạ cả chục cây, trăm cây, mỗi lần ghe thấy tiếng hò “Đổ rồi!” vẫn là một lần giật mình, một lần kinh hoảng, vì sự kiện này quá tầm cảm nhận, không sao có thể làm quen được. Thế đó, hạ đốn cây quả là một hành động táo gan, thách thức ông trời! Tất nhiên, không bị vướng víu dây leo cây bụi, cây sẽ dễ dàng đổ theo ý mình. Sợ nhất là phải chặt những cây cụt ngọn, không nhánh cành. Một khi đổ xuống là nó lao bất tử, không thể lái theo hướng mình chọn. Lái hướng này, nó lại theo hướng khác. Có lần nó lao vun vút, hùng hổ như con thú xổng chuồng rồi đâm phịch, găm sâu vào một khe đá. Bẩy sao được cái mũi của nó ra bây giờ!

Cực nhọc lắm! Nhưng đó là những năm tháng dạy con người phải biết cắn răng lại. Cực nhọc lắm, nhưng dẫu sao cũng còn là một đời sống cần lao sung sướng vì tự do. Thêm nữa, lao khổ là trường rèn luyện sức chịu đựng cho con người. Hãy tưởng tượng: một cây gỗ đại thụ đổ bị kẹt chặt giữa hai khe đá. Lôi nó ra thế nào đây? Bẩy, kích, kéo. Dây tời. Ròng rọc. Đòn ngang, đòn dọc. Dô tá dô tà. Đủ hết. Và vừa làm vừa có cảm giác ngoài sức voi ra là bó tay. Vậy mà cuối cùng, cây gỗ vẫn ra được bãi gỗ. Và thế là bắt cua được cả ếch. Sức chịu đựng, sức căng nẩy, sức bật, sức rướn từ môi trường khắc nghiệt này mà có đây. Nên sau này mới có thể làm được những việc mà người khác cho là phi thường, như lần gồng mình vác được cả một cái tủ buýp phê nặng đến bảy tám chục ki lô ra khỏi chiếc xe bò bị sa lầy. Vô hoạn nạn bất anh hùng!

Tiếc thay, những năm tháng đó cũng lại không kéo dài. Tôi vào tù lần thứ hai. Cay đắng, vì cũng lại một cái án oan. Mà lại còn đơn giản hơn cả lần trước. Những gã lâm tặc lì lợm bất chấp lề luật hủy hoại sơn lâm chẳng thiếu gì mưu ma chước quỷ, ngậm máu phun người, lập chứng cứ giả đổ tội cho chúng tôi. Kim ngân phá luật lệ! Đồng tiền đổi trắng thay đen rất dễ dàng. Tôi đứng trước vành móng ngựa với tội danh khai thác gỗ lậu hơn ba trăm mét khối, làm cháy cả trăm héc ta rừng nguyên sinh trên dẫy Hoàng Liên mà chỉ có thể há miệng xin tòa mở lượng khoan hồng. Đã có tiền án rồi, việc xét sử của tòa cũng gọn gàng chóng vánh!

Tội phá hoại môi trường tài nguyên xứng đáng phải nhận án mười lăm năm tù giam. Lần này thì người vợ đầu kiên quyết bỏ tôi. Còn tôi, tam thập nhi lập, đã vào độ tuổi chín muồi của tư tưởng và nghề nghiệp. Những gì là manh nha ở tuổi tráng niên, sau trải nghiệm chua chát của cuộc sống đã kết tinh thành ý tưởng nhân sinh. Lòng tôi bắt đầu trĩu nặng suy tư. Còn đâu là cái hăm hở vô tư sau những gì ông thân sinh mình và mình đã tiếp nhận ở cuộc đời này. Tôi hoàn thiện nghề mộc vì lại được bổ túc thêm những khuyết thiếu về nghề ở trại giam lần thứ hai. Một cái may! Nhưng lại nhận ra mình đã thật sự biến đổi thành một con người khác. Khôn ngoan. Tinh quái. Lọc lõi. Độc địa. Gian manh. Nhất là sau một sự kiện rất cay cú này.

Trong buồng giam, tôi nằm cạnh một gã tên Luông. Y người Hòa Bình. Phạm tội giết vợ và nhân tình của vợ rồi đốt xác phi tang. Y lĩnh án chung thân. Là một kẻ vô nhân cách, y sống không yên ổn với mọi người, đặc biệt là với tôi. Đùng cái y vượt ngục trốn trại. Bấy giờ giám thị kiểm tra mới biết, y tẩu thoát bằng cách đào tường khoét ngạch ở ngay khoảng tường phía đầu tôi và y nằm ngủ. Giấu đâu được một mảnh thép nhọn, hằng đêm vào hồi một hai giờ sáng là y thức giấc, dùng mảnh thép đó, nay một tí mai một tí, nậy từng mạch xây, làm rời từng viên gạch ra, nhưng sau đó lắp lại vào nguyên chỗ cũ rồi lấy giấy báo trát cơm nguội lên và quét mầu y như bước tường nguyên vẹn để che mắt mọi người. Gian hiểm thật đáng bậc cao thủ. Bắt được y, hỏi. Y đáp, dễ ợt. Hồi là lính đặc công, ở Trường Sơn, một đêm y ăn trộm một con gà của anh nuôi, chén sạch mà chả ai biết, cũng bằng cái chiến thuật đánh lấn, gậm nhấm dần như thế. Tôi nằm trên võng, y kể, để con gà đã bóp chết dưới đất, đặt hăng-gô nước lên cái thanh gỗ bắc qua hai cái chạc cây, đốt một miếng săng cháy của bọn Mỹ, nước sôi, y xẻo một bên đùi gà, cho vào luộc, vặt lông rồi chén. Cứ thế lần lượt, đến sáng thì hết con gà. Nghe xong ai cũng phải lắc đầu lè lưỡi. Riêng tôi thêm một nỗi đau đời. Tôi bị tăng án tù thêm hai năm, vì phạm tội biết mà không tố cáo, mà nào tôi có biết! Tình ngay lý gian! Lại một cái vạ trời gieo nữa!

Trại giam, nơi tụ hội tội ác. Trại giam, trường học của lòng căm thù. Trại giam, lớp huấn luyện các thủ đoạn gian manh. Nhưng mà thầy Quang Tình ơi. Gặp thầy, gần gụi thầy, xem thầy xử sự như hôm nay thì tôi mới nhận ra, cuộc đời còn bao lẽ đời khuất nẻo, nông sâu thế nào mà đâu tôi đã tỏ tường! Thầy Quang Tình ơi, tôi đã bị người ta lừa. Vâng, kẻ tự hào là tinh thông nghề nghiệp đến mức quái kiệt, liếc qua mặt gỗ là có thể gọi tên nó ra, cả trăm loại mà không bao giờ lầm lẫn. Vậy mà có lần tôi lại rơi vào tròng lừa bịp rất trẻ nít của con mẹ buôn gỗ ở Sơn La. Còn bây giờ, anh hùng khi gặp khúc lươn, khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài, trường đời đã trải, lên voi xuống chó đã từng, vào tù ra tội đã qua, đối mặt với kẻ năm lừa bảy lọc, nanh nọc nẩy nòi, côn đồ ma mãnh, tam khoang tứ đốm đã đủ vành đủ vẻ. Tưởng đã chạm đến đáy của sự khôn ngoan, biết đến kỳ cùng chi lý chuyện đời, mà hóa ra vẫn là kẻ khờ khạo, có tài chăng chỉ là cái tài con lừa có miếng đá hậu, vẫn như kẻ đi đêm u u mê mê, mông mông muội muội lẽ đời nông sâu chưa hiểu hết. Ba cái chuyện gian lận, dối trá trong kinh doanh chỉ là những chuyện nhỏ. Ai cũng vậy thôi. Quan trọng là chuyện khác. Quan trọng là con người đã tự lừa mình mà không tự biết. Vì trên đời này không gì dễ hơn là con người tự đánh lừa mình. Và như thế là tôi đã tự lừa dối tôi mà không biết. Cho đến khi gặp thầy, thầy Quang Tình à.

Tôi đã gặp thầy đúng lúc thầy đang ở trong cơn hoạn nạn và thú thực là trong thâm tâm tôi, một kẻ kiêu hãnh ngầm, thì cùng với tinh thần báo đáp chút tình cũ nghĩa xưa, tôi vẫn đinh ninh rằng mình là kẻ ở thế thượng phong, đủ sức trở thành người dẫn lộ, cưu mang thầy. Tưởng là thế mà hóa không phải thế. Vênh vang khi được thầy phong tặng chức danh sư phụ, hóa ra cũng là tự lừa dối mình. Kẻ định dạy dỗ người hóa ra chỉ là một chú học trò lớp đồng ấu. Hóa ra chỉ là kẻ nói chưa sạch, vạch chưa thông. Còn người tưởng là trò của mình hóa ra lại là thầy mình. Ôi, những bài học ở thể vô thư, vô ngôn!

Cái lẽ nông sâu ở đời nó thăm thẳm vậy đó, thầy Quang Tình! Đúng là sinh ư nghệ, tử ư nghệ. Đúng là học khôn đến chết và học nết đến già là vậy đó, thầy Quang Tình, người khai sáng của tôi ơi!