BỐN
1904, năm tôi mười ba, St. Louis là chủ nhà của Triển lãm Trao đổi Louisana, hay chính là Hội chợ Thế giới nổi tiếng. Diện tích hội chợ trải khắp một nghìn hai trăm mẫu trong và bao quanh công viên Forest cùng Đại học Washington, có bảy mươi lăm dặm lối đi và đường lộ nối các tòa nhà, chuồng trại và lều rạp với nhau. Nhiều phần các kiến trúc này đều bằng thạch cao dựng trên khung gỗ, xây lên chỉ để tồn tại trong vài tháng, nhưng trông chúng chẳng khác nào các cung điện tráng lệ theo phong cách tân cổ điển. Viên ngọc quý trên vương miện năm đó, Cung điện Mỹ thuật, kiêu hãnh trưng ra một khu vườn điêu khắc bắt chước phong cách Nhà tắm Caracalla ở Rome. Có các đầm phá nơi ta có thể chèo thuyền khỏa nước, các thác nước nhân tạo khổng lồ, các khu vườn xây trũng xuống, sở thú đầy những con vật lạ và cả “sở người” với nào người lùn, người nguyên thủy, nào con gái mọc râu và con trai ngu độn. Dọc theo Xa Lộ, hàng trăm khu vui chơi giải trí và quầy ăn uống làm người qua kẻ lại mê mệt. Tôi được ăn chiếc kem ốc quế đầu tiên ở đó và cứ mãi sửng sốt làm sao mà khối trụ ngọt ngào đó không lạnh lẽo trong tay tôi. Vị kem dâu bên trong cũng có vẻ khác nữa. Ngon hơn. Đó có lẽ là thứ ngon nhất tôi từng được ăn.
Hôm đó chị Fonnie cũng đi Xa Lộ với tôi, nhưng chị không muốn ăn kem. Chị cũng chẳng muốn kẹo bông hay bỏng ngô hay trà đá hay bất cứ đồ ăn thức uống mới lạ nào khác, chị chỉ muốn về nhà nơi mẹ chúng tôi đang chuẩn bị chủ trì cuộc họp hằng tuần của phụ nữ đòi quyền bầu cử. Với tôi đám các bà các cô ấy luôn có vẻ buồn thảm. Nghe họ nói chuyện ta sẽ tưởng như hôn nhân là điều khủng khiếp nhất từng xảy đến với giới nữ. Mẹ tôi luôn là nhân vật lớn tiếng và hùng hồn nhất trong phòng, bà gật đầu đầy vẻ dứt khoát trong lúc chị Fonnie chuyển những đĩa bánh uống trà và sandwich kẹp cải xoong ra, cố hết sức để làm tất cả mọi người hài lòng.
“Nửa tiếng nữa thôi,” tôi cố gắng mặc cả với Fonnie. “Chị không muốn xem Lâu đài Điện sao?”
“Em cứ ở lại nếu thích. Chị ngạc nhiên là em thấy vui được đấy.” Rồi chị hối hả biến mất vào đám đông.
Tôi đang vui, hay có lẽ là đã vui cho đến lúc chị nhắc cho tôi nhớ rằng đáng lẽ tôi nên buồn mới phải. Có lẽ tôi thật ích kỷ khi muốn ở lại hít hà mùi bỏng ngô hay nghe lừa kêu be be từ khu chuồng trại. Nhưng đang là tháng Tư và anh đào quanh các đầm phá đang nở rộ. Tôi có thể nhắm mắt lại mà lắng nghe tiếng các đài phun nước. Tôi có thể mở mắt ra mà tưởng tượng mình đang ở Rome hay Versailles. Bóng Fonnie nhỏ dần trong đám đông, chiếc váy sẫm màu của chị vấy một sắc màu phóng túng. Tôi muốn mình cứ mặc kệ chị bỏ đi mà không phải bận tâm chị nghĩ gì về tôi hay chị sẽ nói gì với mẹ, nhưng tôi không thể. Tôi chán nản nhìn chiếc kem ốc quế của mình lần cuối rồi vứt vào thùng rác trong lúc lóc cóc chạy theo chị về nhà, nơi các bức rèm kéo kín và ánh sáng bị chặn lại, đã như thế được một thời gian rồi. Chúng tôi đang trong thời kỳ để tang. Cha tôi mới qua đời được hai tháng.
Chúng tôi là một gia đình thuộc giới tinh hoa, với dòng giống Pilgrim ở cả hai bên nội ngoại và rất nhiều cung cách từ thời Victoria giữ cho mọi thứ an toàn và đáng tin. Ông nội tôi sáng lập Thư viện Công cộng St. Louis và Công ty Dược phẩm Richardson, sau này trở thành nhà thuốc lớn nhất phía bờ Tây sông Mississippi. Ông ngoại tôi là giáo viên, người dựng nên Học viện Hillsboro bang Illinois rồi sau này là một trường trung học tư ở St. Louis. Chị Fonnie và tôi được đi học ở những trường tốt nhất, mặc váy xanh hải quân xếp nếp sắc như dao. Chúng tôi ngồi học đàn trước một trong hai cây đại dương cầm hiệu Steinway của hai đứa, đi nghỉ hè ở nhà nghỉ riêng trên bãi biển Ipswich bang Massachusetts. Mọi thứ đều tốt đẹp ổn thỏa cho đến khi không còn như thế nữa.
Cha tôi, James Richardson, là người điều hành công ty dược phẩm của gia đình. Ông đi làm lúc sáng sớm, đội mũ quả dưa và đeo cà vạt đen sực mùi kem cạo râu, mùi cà phê, và, ngay bên dưới, còn thoảng hương whisky. Ông nhét một chiếc chai bẹt trong bộ com lê. Cả nhà đều biết có một chai khác nhét trong ngăn kéo bàn làm việc của cha ở thư phòng, ông khóa cái ngăn ấy lại bằng một chiếc chìa bạc nhỏ xíu. Và một chai khác nữa ẩn mình chờ đợi dưới đống lọ nhồi chặt trái cây hầm trong chạn mà chị bếp Martha vờ như không thấy. Ông cố làm sao để thường xuyên vắng nhà, còn khi ở nhà thì ông lặng lẽ và lơ đãng. Nhưng ông cũng rất tốt bụng. Mẹ tôi, Florence, thì đối ngược hoàn toàn với cha — chỉnh tề từ nếp gấp đến ghim cài và đầy những lời khuyên cùng phán xét. Có lẽ cha tôi quá yếu mềm và nhu nhược khi ở bên bà nên ông có xu hướng thích lui về thư phòng hoặc đi khỏi nhà hơn là phải đối mặt với bà về bất cứ chuyện gì, nhưng việc này tôi không trách ông.
Mẹ tôi luôn yêu chị Fonnie hơn, chị hơn tôi hai mươi hai tháng tuổi. Chúng tôi có một người anh, Jamie, anh xa nhà học đại học trước cả khi tôi vào mẫu giáo, rồi chị Dorothea, hơn tôi mười một tuổi nhưng lại rất thương tôi, chị kết hôn khi còn trẻ và sống cùng anh chồng Dudley ở gần đấy. Vì xấp xỉ tuổi nhau nên hồi nhỏ Fonnie là người bầu bạn chủ yếu với tôi, nhưng chúng tôi khác nhau một trời một vực. Chị vâng lời, dễ uốn nắn và ngoan ngoãn theo cái cách mẹ tôi dễ dàng hiểu được và khen ngợi. Tôi thì bốc đồng, nói nhiều và tò mò về mọi thứ - quá hiếu kỳ so với ý thích của mẹ. Tôi thích ngồi cuối lối xe chạy vào nhà chúng tôi, tì cùi chỏ lên đầu gối mà ngắm xe cộ hối hả qua lại dọc theo trung tâm đại lộ, lòng băn khoăn về những người đàn ông đàn bà ngồi trong đó, họ đang đi đâu, họ đang nghĩ gì, và liệu họ có để ý thấy tôi ngồi đó quan sát họ không. Lúc ấy mẹ thường gọi tôi về nhà rồi tống tôi lên phòng trẻ, nhưng ở đó tôi cũng chỉ chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ mà trầm ngâm mơ mộng.
“Không hiểu con hợp được với cái gì nữa?” mẹ hay nói vậy. “Đầu óc con lúc nào cũng như ở trên mây.”
Một câu hỏi chính đáng đấy chứ, tôi nghĩ vậy. Mẹ lo cho tôi vì mẹ chẳng hiểu tôi chút nào. Thế rồi xảy ra một chuyện khủng khiếp. Khi lên sáu, tôi thậm chí còn mơ mộng vượt ra ngoài khung cửa sổ nữa.
Hôm đó là một ngày xuân, tôi nghỉ học ở nhà vì bị ốm. Khi tôi đã chán ngấy phòng trẻ, một việc thường xuyên nhanh chóng xảy ra, tôi bắt đầu quan sát chú Mike, người chuyên làm việc vặt cho nhà tôi, đẩy xe cút kít qua sân. Tôi thích chú Mike điên lên vì thấy chú thú vị hơn bất cứ ai trong gia đình tôi hàng vạn lần. Móng tay chú vuông và cụt ngủn. Chú huýt sáo véo von và mang theo trong túi quần một chiếc khăn tay màu xanh nhạt.
“Chú đang làm gì thế hở chú Mike?” tôi hét ra ngoài cửa sổ phòng trẻ, đầu thò qua bệ cửa để nhìn chú rõ hơn.
Chú ngước lên đúng lúc tôi mất thăng bằng và ngã đánh bịch xuống nền lát đá bên dưới.
Tôi nằm liệt giường suốt mấy tháng ròng trong khi các bác sĩ đều tự hỏi không biết tôi có đi lại được nữa không. Tôi bình phục một cách chậm chạp, và khi đã hồi phục rồi thì mẹ mua một cái xe đẩy trẻ con được thiết kế riêng cho tôi. Mẹ thích đẩy tôi đi quanh khu phố, dừng lại ở mọi nhà hàng xóm để họ có thể thốt lên thán phục thật kỳ diệu làm sao khi tôi vẫn còn sống.
“Hadley tội nghiệp,” mẹ nói. “Con gà mái tội nghiệp.” Bà nói câu ấy hết lần này đến lần khác, cho đến khi những từ ngữ đó khâu chặt vào não tôi, thế chỗ bất kỳ miêu tả nào khác về tôi cũng như mọi kết quả có thể xảy ra khác. Tôi có khỏi hoàn toàn và học cách đi không khập khễng cũng chẳng quan trọng. Thể trạng của tôi trở thành mối lo lớn của cả nhà và cứ mãi như thế. Thậm chí cả tiếng sụt sịt nhỏ nhất rồi cũng sẽ làm tổn thương tôi sâu sắc hơn, cả nhà tôi nghĩ vậy. Tôi không được học bơi, không được chạy và chơi trong công viên như chúng bạn. Thay vì thế tôi đọc sách, chui vào cái ghế kê ở hốc cửa sổ trong phòng khách, bao quanh là những vòng xoáy của kính ố bẩn và nếp rèm màu vang đỏ. Sau một thời gian như thế thì tôi ngừng tranh đấu chống lại phương thuốc im lặng được gia đình tôi kê đơn, thậm chí bỏ cuộc cả trong tâm trí. Các cuốn sách có thể là một cuộc phiêu lưu tuyệt diệu. Tôi chui trong chăn và hiếm khi đi đâu, nhưng chẳng ai đoán được tâm trí tôi đang chạy đua nhanh ra sao và trái tim tôi cất cánh thế nào cùng các câu chuyện. Tôi có thể đến rồi đi khỏi bất cứ thế giới nào mà không ai hay biết, trong khi mẹ tôi quát tháo ra lệnh cho người làm hay làm trò cho các bà bạn cau có nơi tiền sảnh.
Hồi cha còn sống, tôi thường quan sát ông về nhà trong lúc đám phụ nữ vẫn đang tụ tập. Nghe thấy tiếng họ là ông dừng sững lại rồi tháo lui, lẩn ra cửa. Cha đi đâu thế nhỉ? tôi tự hỏi. Cha tôi đã phải đi bộ bao xa và nốc bao nhiêu whisky để làm giọng mẹ trong đầu ông im tiếng? Liệu cha còn nhớ ông đã từng yêu cái xe đạp của ông đến thế nào không? Tôi thì nhớ lắm. Có một dạo ông thường vui vẻ đạp xe đi bất cứ nơi nào ở St. Louis, ông chọn chiếc xe đạp trong bao nhiêu phương tiện vận chuyển khác có lẽ bởi vì sự tự do mà nó mang lại. Có lần ông buộc một chiếc xe cút kít ở đuôi xe đạp rồi chở chị Fonnie và tôi đi dọc theo những lối mòn trong công viên Forest, vừa đạp vừa hát “Waltzing Matilda.” Ông có chất giọng nam trung tuyệt đẹp, và khi những câu hát trôi về phía hai đứa nhóc ngồi xe cút kít chúng tôi vào cái ngày hôm ấy, tôi cảm thấy niềm hạnh phúc của ông thật và lạ đến nỗi tôi sợ không dám nhúc nhích gì, chỉ e làm nó giật mình tan biến mất.
Đó là một buổi sáng giá lạnh tháng Hai, một tiếng súng nổ duy nhất vang khắp căn nhà. Mẹ nghe thấy đầu tiên và lập tức hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Bà không dám nghĩ đến từ tự sát, thế thì quá thường và quá khủng khiếp, nhưng dù sao một phần trong bà vẫn chuẩn bị đón nhận chuyện đó. Ở nhà dưới, đằng sau cánh cửa thư phòng khóa chặt, bà thấy cha tôi nằm giữa một vũng máu trên thảm, sọ ông vỡ toác.
Tiếng động từ cái chết của cha tôi vẫn vang vọng khắp nhà trong suốt nhiều tuần sau đó. Chúng tôi hiểu ra rằng ông vừa mất hàng chục nghìn đô la ở thị trường chứng khoán, rằng ông đi vay thêm và lại mất sạch số tiền đó nữa. Chúng tôi vốn đã biết ông uống rượu nhưng lại không biết ông còn uống kinh hơn trong những tuần cuối đời, do bị quấy rầy bởi những cơn đau đầu nhói buốt khiến ông không ngủ được.Sau khi cha qua đời, mẹ tôi ở rịt trong phòng, khóc lóc, hoang mang và nhìn chằm chằm vào tấm rèm kéo kín trong lúc những người làm tiếp quản căn nhà. Tôi chưa từng thấy nhà tôi hỗn loạn đến thế bao giờ và chẳng biết phải làm gì để giải quyết chuyện ấy ngoài việc chơi những bản dạ khúc của Chopin và khóc thương cha tôi, lòng thầm ước giá mình hiểu cha hơn.
Cửa vào thư phòng của cha đóng chặt trong một thời gian, nhưng không khóa. Thảm đã giặt nhưng không được thay, khẩu súng lục được dốc hết đạn, được đánh bóng rồi đặt lại chỗ cũ trong bàn làm việc của ông — những chi tiết ấy quá kinh khủng đến nỗi tôi không tài nào không bị chúng lôi cuốn. Hết lần này đến lần khác, tôi tưởng tượng ra giây phút cuối đời ông. Ông hẳn đã cảm thấy cô đơn ra sao, cảm thấy chết chóc và vô vọng đến thế nào, nếu không thì ông đã chẳng thể hành động, chẳng thể đưa họng súng lên và bóp cò.
Tâm trạng tôi ngày càng tệ đến độ gia đình bắt đầu lo lắng tôi có thể tự làm mình đau. Ai cũng biết rằng con cái của những người tự sát sẽ có nguy cơ đi lại con đường ấy lớn hơn. Liệu tôi có giống cha tôi không? Tôi không biết, nhưng tôi đã thừa hưởng chứng đau nửa đầu của ông mất rồi. Mỗi cơn đau giống như một sự trừng phạt khủng khiếp của Chúa với sức ép, cơn buồn nôn cùng tiếng gõ thùm thụp đều đều dai dẳng từ đáy hộp sọ trong lúc tôi nằm bất động hoàn toàn trong căn phòng thiếu không khí. Nếu tôi nằm đó đủ lâu, mẹ sẽ bước vào, vỗ về tay tôi và dém chăn quanh chân tôi, miệng nói, “Con thật là một cô gái ngoan, Hadley à.”
Tôi không thể không để ý thấy mẹ đối xử với tôi nồng ấm hơn khi tôi ốm, vậy nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tôi thường xuyên bị bệnh, hoặc nghĩ là mình bị bệnh. Năm lớp mười một, mười hai, tôi nghỉ học nhiều đến nỗi buộc phải ở lại một năm trong khi tất cả các cô bạn khác đều đi học đại học mà không có tôi. Cảm giác ấy giống như nhìn một đoàn tàu rời ga đến một nơi xa xôi kỳ thú nào đó mà mình lại không có vé và cũng chẳng có cách gì để mua được một cái. Khi thư từ bắt đầu đổ về từ Barnard và Smith và Mount Holyoke, tôi bỗng thấy ghen tị đến phát ốm lên với niềm hứng khởi và lời hứa hẹn của các bạn tôi.
“Con muốn xin vào học ở Bryn Mawr,” tôi bảo mẹ. Em gái mẹ, dì Mary, sống ở Philadelphia, thành thử tôi nghĩ có một người họ hàng gần bên sẽ làm mẹ tôi dễ bằng lòng hơn.
“Ôi Hadley. Sao con cứ khăng khăng làm những việc quá khả năng của mình thế' hả? Thực tế một chút đi.”
Chị Fonnie bước vào phòng ngồi cạnh mẹ. “Thế còn những cơn đau đầu của em thì sao?” chị hỏi.
“Em sẽ không sao đâu mà.”
Lông mày Fonnie nhăn tít lại.
“Dì Mary có thể lo cho con nếu có gì xảy ra. Mẹ biết dì tháo vát thế nào mà.” Tôi đặc biệt nhấn mạnh từ tháo vát vì mẹ tôi thích và thường bị thuyết phục bởi nét tính cách ấy. Nhưng lần này bà chỉ thở dài mà nói sẽ nghiêm túc suy nghĩ về điều đó, đồng nghĩa với việc vấn đề sẽ được mang ra bàn với bà Curran hàng xóm cùng cái bảng bói toán Ouija(*).
Từ lâu mẹ tôi đã rất quan tâm đến các vấn đề huyền bí. Thi thoảng một buổi gọi hồn lại được tổ chức ở nhà chúng tôi, nhưng đa phần chúng diễn ra ở nhà bà Curran cuối phố. Theo lời mẹ tôi thì bà ấy là người đọc thông hiểu rộng về những vấn đề siêu nhiên và có mối liên kết rất quen thuộc và thuyết phục với tấm bảng bói toán. Tôi không được mời tham gia phiên gọi hồn đó, nhưng khi trở về từ nhà bà Curran, mẹ thông báo rốt cuộc tôi cũng được đi học ở Bryn Mawr, và rằng rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi.
Về sau tôi buộc phải tự vấn về lời tiên tri của bà Curran vì có vẻ như nó rành rành là sai đối với tôi. Tôi đi học thật, vào năm 1911, nhưng toàn bộ cuộc dấn thân ấy đã kết thúc bi đát trước cả khi nó bắt đầu. Mùa hè trước khi tôi đi Bryn Mawr học, chị Dorothea bị bỏng nặng trong một đám cháy. Dù chị đã thoát ly khỏi gia đình trong những năm tôi lớn lên, Dorothea vẫn luôn là người ủng hộ tôi nhất nhà, tôi có cảm giác như chị hiểu tôi theo cái cách không ai khác hiểu hoặc muốn hiểu. Khi mọi thứ ở nhà trở nên quá ngột ngạt và kìm kẹp, tôi lại đi bộ tới nhà chị, ngắm hai cậu con trai nhỏ của chị vật nhau quanh mẹ, lòng thấy bình tĩnh và vẹn nguyên trở lại.
Mùa hè năm ấy chị Dorothea đang mang thai những tháng cuối. Phần lớn thời gian chị ở nhà một mình với hai đứa nhóc, một chiều nọ ba mẹ con đi ra hiên trước thì thấy một đám lửa đã bốc lên trên đống lốp cao su trong khoảnh đất không người ở cạnh nhà. Hai đứa nhóc hiếu kỳ đứng nhìn, nhưng Dorothea sợ đống lửa sẽ lan sang vườn nhà mình. Chị chạy qua đó cố dậm chân dập lửa, nhưng bộ kimono mùa hè dài thượt của chị đã nhanh chóng bắt lửa. Cả tất của chị cũng cháy, làm chị bị bỏng nặng đến tận eo trước khi chị ngã xuống lăn trên mặt đất khiến lửa tắt ngúm.
Khi anh Dudley chồng chị gọi điện báo tin, chúng tôi đang đi nghỉ ở ngôi nhà trên vịnh Ipswich. Cả nhà lo cho Dorothea đến phát ốm, nhưng anh Dudley trấn an rằng chị đang hưởng sự chăm sóc tốt nhất trong bệnh viện. Chị không sốt, và các bác sĩ tin rằng chị sẽ sớm bình phục hoàn toàn thôi. Đến hôm sau thì chị sinh ra một bé gái chết yểu. Cả Dorothea và Dudley đều đau đớn, nhưng các bác sĩ vẫn khẳng định rằng chị sẽ sống. Họ cứ nói mãi như thế cho đến khi chị ra đi, tám ngày sau vụ cháy. Mẹ tôi đón tàu về dự lễ tang, nhưng những người còn lại thì vẫn ở Ipswich, lòng tan nát và tinh thần tê liệt.
Tôi vẫn còn nhớ cảm giác của mình khi ấy, rằng có lẽ tôi không sống được khi mất Dorothea, rằng có lẽ tôi không muốn sống. Mẹ trở về từ St. Louis mang theo Dudley cùng hai đứa nhóc. Chúng bước xuống tàu với vẻ mặt đau khổ, và tôi làm được gì để an ủi chúng đây? Chúng không còn mẹ nữa rồi, tôi thấy mình cứ nghĩ đi nghĩ lại như thế.
Một chiều nọ, không lâu sau đám tang, một cơn bão khủng khiếp đổ bộ vào vịnh Ipswich, và tôi bảo một cậu ở căn nhà nghỉ hàng xóm chèo thuyền đưa tôi ra biển. Sóng quật vào mái chèo, tràn vào hai bên thành và quất vào mặt chúng tôi đau nhói. Tôi thậm chí còn không biết bơi, nhưng cậu ta không quay lại, kể cả khi người trực cột hải đăng đã đánh tín hiệu yêu cầu chúng tôi đi vào. Mây sà xuống thấp trông rất đáng sợ, không khí nặng hơi nước và muối. Suốt quãng thời gian đó tôi có cảm giác như mình đang chết đuối, hết lần này đến lần khác. Ngay cả khi hôm đó cuối cùng chúng tôi cũng chèo được vào bờ, cái cảm giác mình vẫn còn dưới vịnh, chìm xuống mỗi lúc một sâu hơn, vẫn bám riết lấy tôi suốt những ngày hè còn lại và rất lâu sau đó.
Vào tháng Chín tôi lên tàu tới Bryn Mawr theo kế hoạch, nhưng các bạn học của tôi dường như đang chạy theo một nhịp sống khác. Các cô gái trong ký túc tôi ở ngồi cả chiều trong phòng khách uống trà và sôcôla nóng sủi tăm, tán chuyện về khiêu vũ tập thể và những kẻ tiềm năng bị họ chinh phục. Tôi thấy mình đến là lạc lõng. Tôi vẫn biết mình là đứa xinh xắn, với mái tóc đỏ rực, mắt đẹp và da trắng — nhưng lúc này tôi dường như không muốn bận tâm xem đám con trai có để ý mình hay không. Tôi ngừng quan tâm đến quần áo và cả việc học nữa. Tôi bắt đầu thi trượt suốt, một việc khiến tôi thấy ngạc nhiên và khó chấp nhận, bởi vì, bất chấp nghỉ học nhiều đến phát sợ, trước đến giờ tôi vẫn luôn là học sinh giỏi. Giờ thì tôi thấy mình không tài nào tập trung hay chú ý được gì, thậm chí cả mối quan tâm cũng không.Mùa thu năm sau, tôi để mẹ và chị Fonnie thuyết phục mình ở nhà. Tôi không thể nói là ở trường thì sẽ tốt cho tôi hơn. Ở nhà, tôi chẳng biết đi đâu để lẩn trốn những suy nghĩ u ám của mình. Tôi không ngủ được, và khi ngủ, tôi mơ những giấc mơ kinh hoàng ám ảnh về Dorothea và cha tôi, tái hiện những giây phút khủng khiếp cuối đời họ. Tôi choàng tỉnh trong cơn hoảng sợ để đối mặt với lời hứa hẹn về những ngày đêm tương tự không một niềm vui nào đón đợi. Và nếu tôi nói rằng mình đã ở trong tình trạng như thể hôn mê suốt tám năm sau đó, chắc mọi người sẽ hiểu tại sao tôi lại sẵn sàng để sống vào cái lúc mẹ tôi bắt đầu chết dần.
Mẹ tôi bị viêm thận mãn tính đã nhiều năm rồi, nhưng bệnh trạng nhanh chóng diễn biến xấu đi vào mùa hè năm 1920. Trong suốt những tuần nóng nhất tháng Bảy tháng Tám, tôi gần như không bước chân khỏi căn hộ trên gác, và vào những dịp hiếm hoi tôi đi ra ngoài thì bà lo lắng mãi không thôi.
“Elizabeth? Con đấy phải không?” Bà yếu ớt gọi ngay khi nghe thấy tiếng tôi trên cầu thang. Tôi không chắc tại sao bà lại dùng tên rửa tội để gọi tôi sau từng ấy năm, nhưng hồi đó có nhiều điều về bà làm tôi thấy khó hiểu lắm. Bà chẳng giống người đàn bà thép khó tính luôn có khả năng làm tôi cụt hứng chỉ cần bằng một từ. Bà trở nên yếu đuối và bồn chồn, lại cất tiếng gọi lần nữa trong lúc tôi vội vã leo cầu thang: “Elizabeth?”
“Con đây, mẹ.” Tôi bước vào căn phòng chính nơi bà đang nằm nghỉ trên chiếc trường kỷ nhung hồng đã sờn rách. Tôi đặt các túi đồ mua sắm xuống rồi tháo mũ ra. “Mẹ thấy ngột quá à? Con mở một cửa sổ ra nhé?”“Trời ấm sao?” Bà kéo chặt tấm khăn len phủ giường vào lòng. “Mẹ thấy lạnh thấu xương.”
Tôi kéo một chiếc ghế ra bên cạnh trường kỷ rồi nắm lấy hai tay bà, xoa cho đến khi máu hồng lên trên bề mặt, nhưng ở bất kỳ chỗ nào tôi sờ vào, đầu ngón tay tôi lại có cảm giác như chạm vào cái gì se lại, như thể da bà đã biến thành bột bánh mì. Tôi thả tay bà ra và bà bắt đầu rên rỉ.
“Con làm gì được đây?”
“Gọi chị con lên đây. Mẹ cần Fonnie bên cạnh ngay lúc này.”
Tôi gật đầu và đứng dậy định đi, nhưng mắt bà lại mở to hơn. “Đừng đi, xin đừng bỏ mẹ.” Thế là tôi lại ngồi xuống, và chuyện cứ lặp đi lặp lại như thế suốt cái đêm dài dằng dặc ấy. Bà uống một chút nước canh hầm rồi ngủ chập chờn trong vài tiếng đồng hồ. Rồi đến gần nửa đêm, đột nhiên bà trở nên bình tĩnh.
“Mẹ lo cho con kinh khủng, Elizabeth à,” bà nói. “Con sẽ ra sao đây khi mẹ đi rồi?”
“Con đã là một phụ nữ trưởng thành rồi mà mẹ. Con sẽ không sao đâu. Con hứa.”
“Không.” Bà lắc đầu. “Nhiều năm trước bà Curran và mẹ đã nói chuyện với Dorothea về con.”
Hơi thở của bà trở nên nặng nhọc, và tôi không muốn thấy bà phải khổ sở như vậy.
“Suỵt. Có quan trọng gì đâu.”
“Quan trọng chứ. Hai người bọn mẹ đã hỏi chị con về con vài lần nhưng chị con chẳng chịu nói.”
Tôi luôn nghi ngờ những chuyện huyền bí — tấm bảng, những buổi gọi hồn xì xào dưới ánh nến cùng các cuộc viết lời nhắn gửi tự động với khăn choàng đỏ phủ lên ngọn đèn — nhưng lúc này đây tôi bỗng cảm thấy toàn thân ớn lạnh. Liệu mẹ có liên lạc được với Dorothea thật không? Nếu thật, thì tại sao chị tôi, đã qua đời chín năm rồi, lại quay lưng với tôi? Chị biết điều gì không hay, đáng buồn về số phận của tôi ư? Ý nghĩ đó khiến tôi kinh hoảng, ấy thế nhưng chẳng có cách nào để chắc chắn cả. Tôi không thể yêu cầu mẹ tả tỉ mỉ buổi gọi hồn ấy; bà đã kiệt sức và bồn chồn hơn bao giờ hết rồi. Vả lại tôi cũng không hoàn toàn chắc rằng mình muốn biết. Nhỡ tương lai còn u ám hơn hiện tại thì sao? Và nhỡ đâu tương lai thậm chí không hề tồn tại?
Suốt cái đêm tháng Tám ấy tôi ngồi yên trên chiếc ghế lưng thẳng cạnh trường kỷ. Tôi đắp khăn ẩm lên trán và cổ mẹ rồi nhìn ra màn đêm mùa hè ấm áp, bầu trời tối đen và cây cối còn tối đen hơn nữa, mọi thứ đều xa xôi như những vật chưng bày trong viện bảo tàng. Và tôi biết, cả tôi nữa cũng có thể chết trong căn phòng này. Đó là một ngả đường mà bánh xe cuộc đời tôi có thể rẽ vào. Vài tiếng sau, lúc bình minh sắp ló rạng, mẹ tôi qua đời mà không một tiếng thở dài, không nấc hấp hối, không thở khó nhọc. Thật khác cái cách cha tôi ra đi làm sao — tiếng nổ từ khẩu súng lục của ông làm rúng động mọi thanh rầm cửa trong nhà — nhưng cũng chẳng ít tính kết thúc hơn. Trong khi những người khác đang ngủ ở nhà dưới, tôi nhìn vào khuôn mặt mà có khi tôi rất ghét nhưng có lúc lại rất thương. Hai tay bà nắm lại đặt hai bên thân hình gầy guộc, và tôi đưa đầu ngón tay lên vuốt một bàn tay, cảm thấy dâng tràn một tình yêu dữ dội và phức tạp đối với bà. Rồi tôi xuống nhà đánh thức Fonnie cùng Roland dậy và gọi bác sĩ. Tôi chuẩn bị bữa sáng, tắm rửa rồi ngồi cùng chị Fonnie trong phòng khách để bàn việc chuẩn bị tang lễ. Thi thể mẹ tôi vẫn ở trên gác chờ nhân viên pháp y, tôi có thể cảm nhận thấy bà ở đó, vẫn gây áp lực với tôi. Dường như bà đã luôn lấy sự tĩnh lặng của đời tôi làm vui, như thể tôi đã trở thành người giống mẹ tôi nghĩ, tức là một người nhạt nhòa không có gì đáng kể cả. Sự trì kéo ấy quá lâu ngày và mạnh mẽ, tôi biết mình có thể dễ dàng đầu hàng nó, đầu hàng sự vô nghĩa. Hoặc tôi cũng thể đẩy mình đi theo hướng ngược lại, với tất cả những gì tôi có.
Chú thích:
(*) Bảng bói toán gồm những mẫu tự, khi người xem bói đặt tay lên mũi tên trên bảng và đặt câu hỏi, mũi tên sẽ di chuyển đến từng chữ cái và chữ số để trả lời câu hỏi đó. (ND)