← Quay lại trang sách

NĂM

Mọi chuyện ổn cả chứ, thưa cô?” người lái taxi hỏi.

“Rồi sẽ phải ổn thôi” tôi đáp rồi mở cửa xe.

Tôi đã về St. Louis sau một ngày dài ngồi tàu, cái ngày đã bị kéo giãn thêm bởi cảm giác mình đã thất bại ở Chicago. Giờ thì tôi lại ở đây, về với ngôi nhà của Fonnie và Roland trên đại lộ Cates. Tôi chỉ còn biết trả tiền rồi xuống xe.

Bên ngoài, không khí khô và lạnh. Người tài xế theo sau, xách hành lý của tôi lên hàng hiên; tiếng bước chân của chúng tôi vang lên trên mặt đường lát đá nghe như tiếng gõ vào một vật rỗng. Vào đến trong nhà, tôi thả hành lý ở chân cầu thang rồi lên căn hộ của mình, nơi này mang lại một cảm giác lạnh lẽo thiếu sinh khí. Dù đã muộn và tôi cũng đã mệt, tôi vẫn bật đèn và nhóm lò để sưởi. Tôi ngồi lên chiếc trường kỷ hồng, tay ôm lấy vai và tự hỏi liệu một phần nào đó của mẹ tôi có còn trong phòng, quấn trong tấm khăn len phủ giường, có lẽ thế, và nhìn tôi đầy thương hại: “Hadley tội nghiệp. Con gà mái tội nghiệp.”

Sáng hôm sau tôi ngủ rốn hơn thường lệ, khi tôi xuống nhà thì chị Fonnie đã đợi sẵn trong phòng ăn. “Thế nào? Chị muốn nghe mọi chuyện đấy nhé. Em đã làm gì? Em đã gặp những kiểu người nào?”Tôi kể chị nghe tất tần tật về những bữa tiệc, những cuộc chơi, những con người thú vị quét qua căn hộ của Kenley như sóng cồn — nhưng tôi không kể gì về Ernest. Có gì mà kể chứ? Tôi không chắc giữa chúng tôi là cái gì, thậm chí có phải là tình bạn không.

Fonnie và tôi đang nói chuyện thì Roland bước vào phòng, vừa cài cổ tay áo sơ mi vừa đi trong cả một đám mây hương xà phòng và keo vuốt tóc. Anh ngồi xuống và Fonnie hơi dịch ghế ra xa anh, rất nhẹ thôi, để khỏi phải nhìn anh ăn. Lúc này tình trạng giữa họ đang là như thế đấy. Cuộc hôn nhân của họ là một thảm họa, đang và đã luôn là như thế, điều ấy khiến tôi thấy thương hại cả hai.

“Chà,” Roland cất tiếng. “Đô thành Chicago có giống những gì cô hình dung không?”

Tôi vừa gật đầu vừa trét mứt cam lên bánh mì nướng.

“Thế cô có chinh phục được hàng chục anh bồ mới không thế?”

Fonnie phát ra một tiếng khịt nóng giận gần như không thể nghe thấy, nhưng chị không nói gì cả.

“Chắc là chưa đến hàng chục,” tôi nói.

“Hẳn cô phải chinh phục được ít nhất một chú. Thư này vừa gửi đến cho cô.” Anh lôi từ trong túi áo vét ra một vật trông nhăn nhúm. “Chuyển phát đặc biệt đấy,” anh nói. “Hẳn là quan trọng lắm.” Anh mỉm cười đưa tôi bức thư.

“Gì thế?” Fonnie hỏi.

“Chuyển phát đặc biệt,” tôi nhắc lại lời Roland trong trạng thái gần như hôn mê. Tên của Ernest đề trên phong bì, nguệch ngoạc nhưng đủ rõ. Chắc anh đã gửi nó ngay sau khi tiễn tôi lên tàu, trả thêm mười xu để đảm bảo nó đến nơi sớm nhất. Tôi sẽ viết cho chị. Tôi sẽ viết tặng chị. Tôi mân mê chiếc phong bì, hơi sợ phải mở nó ra.

“Tên anh chàng của cô là gì thế?” Roland hỏi.

“Em sẽ không gọi cậu ta là anh chàng của em đâu, nhưng mà tên cậu ta là Ernest Hemingway.”

“Hemingway à?” Fonnie nhắc lại. “Tên tuổi kiểu gì thế?”

“Chẳng biết nữa,” tôi đáp rồi mang bức thư ra khỏi phòng để mở. Trông phong bì nhăn nheo rúm ró như thể đã nằm trong túi anh bao nhiêu ngày trời - chưa gì tôi đã thấy yêu đặc điểm ấy rồi, chẳng cần biết trong thư viết những gì. Tôi tìm một góc yên tĩnh trong phòng khách gần cây piano của tôi và phát hiện ra các trang thư bên trong cũng nhàu nhĩ tương tự và nguệch ngoạc những dòng mực đen. Hasovitch thân yêu - bức thư bắt đầu như thế - Em đang ở trên tàu còn tôi ở đây và giờ khi em đi rồi mọi thứ đều vô nghĩa. Hãy nói với tôi đi, em có thật hay không?

Tôi đặt bức thư xuống vì tôi gần như không chịu nổi cái cảm giác như thể anh đã bò vào trong đầu tôi. Em có thật hay không? Tôi đã tự hỏi y hệt về anh - và tôi có quyền để hỏi thế hơn anh chứ, tôi nghĩ thầm, đặc biệt là sau lời cảnh báo của Kate. Tôi thật như mặt đất anh bước lên vậy, có lẽ là quá thật. Nhưng còn anh thì sao? Mối quan tâm anh dành cho tôi không hề dao động trong suốt thời gian tôi ở đó, nhưng điều ấy không có nghĩa là anh đáng tin, mà chỉ có nghĩa ngay lúc này anh nghĩ tôi đáng để theo đuổi. Thật tình tôi chẳng biết nên nghĩ gì về anh nữa, nên tôi đọc tiếp, rất nhanh chóng ngấu nghiến hết bức thư của anh, tất cả những điều anh cần nói về việc anh đang làm và muốn làm, công việc của anh, suy nghĩ trong anh. Anh bảo có thể anh sẽ được nhận việc ở một tờ nguyệt san tên là Khối Thịnh vượng chung hợp tác nếu anh nộp đơn xin tự làm mọi việc - nhà văn, phóng viên, biên tập, trọn gói luôn. Không thích thú mấy điều khoản lắm nhưng có lẽ sẽ nhận việc này, anh viết vậy. Dù tâm trí tôi đầy những tiếng nói không dứt về anh, tôi vẫn không thể không thích giọng văn của anh, sự sôi nổi trong đó cũng như cái cách những từ ngữ của anh trên giấy giống hệt anh chàng Ernest đã bịa ra bao lý do để xuất hiện trong phòng tôi ở Chicago. Giờ đây bức thư của anh cũng đang làm điều tương tự, nó đưa Ernest vào căn phòng khách mà một phút trước đây còn u ám và thiếu sinh khí.

“Thế nào?” Fonnie hỏi khi bước vào phòng trong tiếng sột soạt của chiếc váy len màu sắc ảm đạm. “Anh ta có gì để nói vậy?”

“Chẳng có gì bất thường cả,” tôi đáp, nhưng dĩ nhiên là không đúng như vậy. Mọi điều ở Ernest Hemingway đều bất thường.

“Ừ, dù sao cũng thật tốt khi có những người bạn mới. Chị mừng vì em đã tìm được một nguồn vui làm xao nhãng.” Chị ngồi xuống và nhấc miếng ren móc dở của chị lên.

“Vậy sao?”

“Dĩ nhiên rồi. Chị muốn em hạnh phúc mà.”

Có lẽ là thế thật, nhưng chỉ khi hạnh phúc có nghĩa là tôi bị nhốt trên gác suốt phần còn lại của cuộc đời, một bà cô không chồng đơn độc.“Cảm ơn chị, Fonnie,” tôi nói rồi lấy cớ lui về phòng, ở đó tôi bắt tay vào viết thư hồi đáp. Tôi không muốn tỏ ra quá nhiệt tình. Tôi không muốn câu trả lời của mình có ý nghĩa gì nhiều hơn sự thực — nhưng tôi nhận ra mình thích viết thư cho anh. Tôi viết trong cả ngày trời, cứ xảy ra chuyện gì là lại kể vào thư chuyện đó, tôi muốn chắc chắn anh có thể hình dung ra tôi đi từ phòng này qua phòng khác, tập piano, ngồi uống một tách trà gừng ngon tuyệt với cô bạn Alice Hunt, ngắm người làm vườn xén tỉa những bụi hồng rồi quấn chúng lại trong vải bố để đón mùa đông. Đêm nay tôi nhớ cái hồ ấy quá, tôi viết. Nhớ nhiều thứ khác nữa. Cậu có muốn gặp tôi trong bếp để làm một điếu không?

Mẹ tôi đã giữ một tấm ảnh chụp tôi mặc đồ tắm, đứng ngập đến gối trên dòng sông Meramec chơi trò té nước với Alice, cả hai đứa đều hạnh phúc và tắm trong ánh mặt trời. Phiên bản Hadley ấy gần như chưa từng xuất hiện vào những ngày này, đúng vậy, nhưng tôi nghĩ Ernest sẽ thích cô gái với khuôn mặt rạng rỡ và nụ cười vô tư đó. Tôi nhét bức ảnh cùng lá thư vào một chiếc phong bì, và rồi, trước nghĩ kịp nghĩ lại, tôi đi xuống phố tới hộp thư ở góc đường. Trời đang tối dần, vừa đi tôi vừa nhìn vào trong các căn nhà như thể chúng là những chiếc bát phát sáng. Mọi vật đều tỏa ánh sáng yếu ớt — và trong một khoảnh khắc tôi chợt hình dung ra ánh sáng rải khắp những cánh đồng ngô nhấp nhô cùng những chuồng trại im lìm giữa St. Louis và Chicago. Khi đến hộp thư, tôi nắm chặt lá thư, hôn nó trong cơn bốc đồng, rồi nhét nó vào khe thư và thả tay ra.