SÁU
Tôi ấp ủ bao kế hoạch với việc viết lách - tôi muốn thấy và cảm nhận và làm quá nhiều điều. Hãy nói đi, em còn nhớ em đã chơi piano với làn tóc ánh lên lấp lánh, rồi em đứng dậy đi về phía tôi trên trường kỷ và cất lời, "Cậu có hiểu tôi không, Thu Hải Đường?"
Em có hiểu tôi không, Hash?
Em sẽ đến đây ngay chứ, và cho tôi hưởng một chút cái điều mà tôi chắc chắn cần lúc này, chính là em?
Những lá thư của anh cứ đến dồn dập chen lấn, đầy những lời ngọt ngào, đôi khi hai ba lá mỗi ngày. Mới đầu tôi cố dè dặt hơn, tự hứa là chỉ viết lại mỗi tuần một lần thôi, nhưng dự định đó tiêu tan ngay lập tức. Chẳng bao lâu sau tôi thấy mình gặp rắc rối thật sự. Thư từ cứ bay qua bay lại, nhưng chúng có nghĩa gì cơ chứ? Giọng Kate thường xuyên lấp đầy tâm trí tôi - Cậu ta thích phụ nữ - có vẻ như là tất cả phụ nữ — và tôi đấu tranh tư tưởng chẳng biết có nên kể cho cô ấy nghe về việc tình bạn giữa chúng tôi đã tiến triển nhanh chóng ra sao không. Cứ nghĩ đến là tôi lại hình dung ra cô ấy cảm thấy tổn thương và tức giận thế nào; rốt cuộc tôi đã rành rành cố ý xem thường lời khuyên của cô ấy. Nhưng nếu tôi thú nhận tất cả, có lẽ cô ấy sẽ khuyên tôi nhiều hơn, và rồi tôi sẽ phải nghe và có lẽ là làm theo lời khuyên đó.
Tôi bị giằng xé giữa việc muốn biết liệu mình có tin được Ernest không và mong muốn tôi cứ mãi mù mờ để giữ cho mọi chuyện y hệt như lúc này. Ngôn từ của anh đã mang rất nhiều ý nghĩa rồi — quá nhiều là đằng khác. Mỗi lá thư của anh đều như một liều thuốc bổ tuyệt vời và viết cho anh cũng là một liều thuốc bổ, và chẳng bao lâu sau tôi nhận ra mình có thể nghe thấy tiếng cậu bé phát thư đạp xe từ cách cả mấy dãy nhà dù cậu thậm chí còn chưa rung chuông. Tôi tự nhủ rằng Kate đâu có biết hết mọi điều về Ernest. Ai mà biết được hết mọi điều về người khác cơ chứ? Những bức thư của anh đã bộc lộ vài phẩm chất - sự dịu dàng chẳng hạn, cả sự nồng ấm dễ thấy nữa - những điều có lẽ Kate đã không bao giờ thấy được trong suốt những mùa hè ở Michigan. Có thể như thế lắm chứ. Phải như thế, bởi vì niềm hạnh phúc nở rộ từ mối quan tâm của Ernest đối với tôi đang dần thấm vào phần cuộc đời còn lại của tôi. Tôi bỗng bận rộn hơn và vui vẻ hơn bao giờ hết khi ở nhà. Hai cô bạn Bertha Doan và Ruth Bradfield đã chuyển đến căn hộ trên gác sống cùng tôi với tư cách khách thuê trọ, và lần đầu tiên trong gần một thập kỷ tôi không cô đơn trong căn nhà của chính mình. Tôi cũng có vài chàng trai trẻ dòm ngó nữa, và ngay cả khi họ không đặc biệt xuất chúng gì, họ cũng cho tôi những giờ phút vui vẻ. Tôi để họ đưa mình đi nhảy, đi xem phim, thậm chí còn cho một vài chàng hôn chúc ngủ ngon. Không một ai trong số họ có cái đầu vuông to tướng và bàn chân bàn tay như lót nhung đệm của Ernest; chẳng một ai đặt những câu hỏi tuyệt vời như anh hay làm tôi muốn nói, Cậu có hiểu tôi không, Thu Hải Đường?
Dẫu vậy, tôi vẫn duy trì việc đi chơi với gần như tất cả những ai ngỏ lời, bởi vì Ernest, dù rất đáng yêu, chỉ như lý thuyết suông — một giả thuyết dễ thương — mà lại còn ở cách xa hàng trăm dặm. Ở St. Louis, nơi số phận đã định cho tôi sống cuộc đời thực của mình, có Dick Pierce, anh trai một cô bạn thân. Tôi thích ở bên anh và biết rằng chỉ cần tôi bật đèn xanh là anh sẽ yêu tôi và có khi còn cầu hôn nữa, nhưng tôi gần như, hoặc cũng có thể là hoàn toàn, chẳng có cảm giác gì trước anh cả. Rồi đến Pere Rowland, một cậu trai luộm thuộm một cách dễ chịu, biết rất nhiều về sách và nhạc, nhưng những buổi hẹn hò lãng mạn chẳng hấp dẫn tôi bằng cái lúc một nhóm chúng tôi nhồi đống lên xe ai đó rồi đi xem phim trong thành phố hay đến sàn nhảy nơi mọi người đều vui vẻ và tự do. Sau đó, Ruth, Bertha và tôi sẽ ngồi uống trà trong bộ đồ ngủ và tán chuyện về những sự kiện của buổi tối.
Tôi vừa mới bước sang tuổi hai chín, nhưng theo một cách nào đó tôi thấy mình còn trẻ và vô tư lự hơn cái hồi tôi học năm thứ nhất ở Bryn Mawr, hồi ấy tôi chẳng được tận hưởng một chút xíu hạnh phúc hay thân mật nào. Cứ như thể tôi đang trải nghiệm một sự trì hoãn bây giờ mới phát tác vậy, và tôi thấy biết ơn từng phút giây đó. Thế rồi lại có thư từ Chicago đến mỗi ngày, luôn nhàu nhĩ một cách đẹp đẽ và đầy những tin tức bận rộn. Ernest kể hết cho tôi về những bài báo anh viết cho tờ Thịnh vượng chung, ý tưởng của anh về các bản thảo và tiểu thuyết. Nhưng hơn tất thảy anh còn chia sẻ những câu chuyện về quãng thời gian anh lớn lên - về những mùa hè dài ở Michigan khi ông Ed cha anh, một bác sĩ sản đương nhiệm đồng thời là một nhà hoạt động ngoài trời bẩm sinh, đã dạy anh cách nhóm lửa và nấu ăn ngoài trời, cách dùng rìu, giật cần câu và đánh vẩy cá, săn sóc, gà gô và chim trĩ.
Cứ khi nào tôi nghĩ đến cha, anh viết, thì đó luôn là hình ảnh ông đang ở trong rừng xua chim rẽ giun, đang băng qua những bãi cỏ ngắn héo quắt hay những đống thân ngô, hay đang chẻ củi trong lúc chòm râu cứng lại vì sương giá. Tôi đọc những câu ấy mà mắt đẫm lệ, vì tôi có quá ít kỷ niệm ấm áp với cha mình. Khi nghĩ về cha, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí tôi là khẩu súng của ông, rồi sau đó là tiếng động nó gây ra vang vọng khắp nhà. Nhớ lại cái chết của ông, nhớ lại mình đã từng ám ảnh đến đau đớn vì nó khiến tôi thấy lòng xao động đến nỗi phải đi dạo hai vòng quanh khu phố trong làn gió rét buốt thì mới đủ bình tĩnh để quay lại đọc thư của Ernest.
Nhưng nếu mối quan hệ của anh với cha anh khiến tôi ghen tị thì mẹ anh lại phiền phức theo một cách khác. Gần như cứ khi nào nhắc đến bà trong thư là anh lại dùng từ con mụ ấy. Anh miêu tả bà như một kẻ thống trị hoàn toàn trong nhà, chỉ giỏi chỉ trích và đầy những ý tưởng không lay chuyển về việc cuộc sống phải diễn ra như thế nào mới phải, tỉ mỉ đến từng chi tiết. Trước khi anh biết đọc, bà đã dạy Ernest nhớ những cụm từ, những dòng thơ “thiết yếu” bằng tiếng Latinh và tiếng Đức. Dù luôn cố tôn trọng tinh thần sáng tạo của bà — bà hát Opéra, vẽ vời đôi chút và còn làm thơ nữa — nhưng Ernest rốt cuộc vẫn tin chắc rằng bà là một người mẹ và người vợ ích kỷ, chỉ chăm chăm nhu cầu bản thân mà không màng đến nguy cơ làm hại đến mọi người xung quanh, đặc biệt là chồng mình. Bà buộc bác sĩ Hemingway phải nhượng bộ mọi yêu cầu của bà, và Ernest đâm coi thường mẹ mình khi chứng kiến cảnh đó.
Dù sự chối bỏ dữ dội chính mẹ đẻ của Ernest khiến tôi rùng mình, tôi vẫn không thể không nhận ra một điều. Thật kỳ quái khi biết quan hệ giữa người bố và người mẹ trong gia đình chúng tôi lại giống nhau đến thế, ấy thế nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là mặc dù thường ghét cay ghét đắng cái kiểu sống không chịu ai khăng khăng ý mình của mẹ tôi và thậm chí còn đổ lỗi cho bà về vụ tự tử của cha, nhưng tôi chưa từng thể hiện sự căm ghét đến nhường ấy đối với một con người. Cảm giác đó chỉ sôi sục và khuấy đảo trong lòng tôi thôi. Đôi lúc, khi nó cố ngoi lên bề mặt, tôi lại vớ lấy cái gối lông vũ và hét những cảm xúc trong mình vào đó, khiến chúng chết ngạt ngay từ gốc rễ. Còn Ernest lại thoải mái phun cơn thịnh nộ của mình ra. Phản ứng của ai mới là đáng sợ đây?
Rốt cuộc, tôi cảm thấy ngày càng tôn trọng cái cách anh thể hiện cả phần xấu xí nhất của con người mình, và tôi bị sự tự tin của anh lôi cuốn. Tôi mong thư anh mà gần như chẳng làm được việc gì khác. Ấy thế nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra tính bộc trực của anh được áp dụng nhất nhất trong mọi việc. Đầu tháng Mười hai, không lâu sau sinh nhật tôi, anh viết rằng đêm qua anh đã bị một cô gái mặc đầm màu xanh chóe quyến rũ. Tôi thấy phát bệnh khi đọc được điều ấy. Tôi chẳng có cái váy xanh chóe nào, mà kể cả có thì anh cũng đâu có thấy. Anh cách xa tôi hàng trăm dặm, cuốn theo những chi tiết của cuộc sống hết ngày lại đêm ở đó. Chúng tôi là bạn bè và bạn tâm tình, đúng thế - nhưng anh chẳng nợ nần gì tôi cả, chưa bao giờ hứa hẹn lấy một câu với tôi, kể cả một lời hứa hão cũng không. Nếu muốn thì anh có thể chạy theo cái váy xanh đó như theo tiếng hát mỹ nhân ngư mà đi xuống hồ. Tôi chẳng ràng buộc gì anh cả.
Mà thực ra chẳng ai ràng buộc gì ai. Đó là dấu hiệu của sự chuyển giao thời đại. Chúng tôi đang ở ven rìa, tràn đầy tuổi trẻ và hứa hẹn cùng đôi chút điệu láy rền của nhạc jazz. Một năm trước đó, cô đào Olive Thomas đóng phim The Flapper (Cô nàng mới lớn), thế là cái từ ấy bỗng nhiên đồng nghĩa với jazz, chuyển động như jazz. Các cô gái khắp mọi nơi ra đường trong bộ áo coóc xê, váy thì ngắn lên còn màu mắt màu môi thì trầm xuống. Chúng tôi nói những câu từ kiểu như, “pyjama của ả mèo”(*) rồi “tôi thì cho rằng” rồi “chuẩn quá.” Tuổi trẻ, vào năm 1921, là tất cả, nhưng cũng chính nó là thứ làm tôi lo đến phát ốm. Tôi đã hai chín và thấy mình sắp hết thời rồi, nhưng Ernest chỉ mới hai mươi mốt tuổi nóng rực nhựa sống. Tôi đang nghĩ gì chứ?
“Có lẽ mình không hợp với cuộc chơi này,” sau khi nhận được bức thư tiếng hát nàng tiên cá của Ernest, tôi bảo cô bạn cùng phòng Ruth như thế. Bertha đã ra ngoài chơi, chỉ còn Ruth và tôi cùng nhau nấu bữa tối, thoải mái lướt quanh nhau trong căn bếp nhỏ, ngắt đậu, đun nước trụng mì ống, như thế chúng tôi là hai bà cô không chồng đã làm như thế này hàng bao nhiêu thập kỷ vậy.
“Mình không chắc là có ai trong chúng ta phù hợp đâu,” Ruth nói trong lúc tay cân muối rồi ném một ít ra sau vai để cầu may. Cô có đôi bàn tay chắc khỏe kỳ lạ, và tôi thấy mình cứ ngắm nhìn chúng, thầm mơ mình có thể giống cô ấy hơn. Cô quay lại nhìn rồi cười châm chọc.
“Nhưng có còn gì nữa đâu? Nếu giờ ta bỏ cuộc thì coi như tiêu đời.”
“Có lẽ tớ chỉ việc bò xuống gậm giường nhất định không ra cho đến khi già lập cập và chẳng thể nhớ rằng mình đã từng cảm nhận thế nào về bất cứ ai nữa.”
Ruth gật đầu. “Cậu muốn vậy, nhưng cậu sẽ không làm vậy.”
“Tớ sẽ không làm thế.” Tôi đi quanh chiếc bàn nhỏ để xếp đĩa và bộ thìa dĩa bằng bạc - loại tốt thứ hai trong nhà, rồi vuốt phang khăn ăn của ai đứa. “Tớ sẽ cố hết sức để không làm thế.”
Tôi khao khát được trở lại Chicago, được thấy căn phòng lớn cũ kỹ nhà Kenley — cây dương cầm, chiếc máy hát, tấm thảm sần sùi được đẩy sang bên cho hai con người khiêu vũ. Tôi muốn được nhìn vào đôi mắt nâu trong đến khó tin ấy và biết được chàng trai đẹp đẽ đó đang nghĩ gì. Tôi muốn hôn anh và cảm nhận anh hôn lại tôi.
Vào giữa tháng Giêng, cô bạn Leticia Parker và tôi nung nấu kế hoạch đưa tôi đến đó. Tôi sẽ là khách của cô ấy trong một tuần. Chúng tôi sẽ ở khách sạn và đi mua sắm, và tôi có thể gặp Ernest bao nhiêu tùy thích. Ấy thế nhưng, hai ngày trước lịch khởi hành của chúng tôi, Leticia gọi điện báo hoãn. Mẹ cô bị ốm, thành thử cô không thể đi xa lâu như thế được. Tôi bảo cô tôi hiểu mà; dĩ nhiên là tôi hiểu. Chính mẹ tôi cũng từng bị ốm hàng tháng trời, và tôi biết rõ những đòi hỏi của các bà mẹ khi ấy, nhưng đồng thời tôi cũng thấy chán nản. Mọi thứ đã được lên kế hoạch từ hàng tuần nay. Ernest sẽ đón tôi ở ga, và chỉ mỗi giây phút ấy thôi mà tôi đã tha hồ tưởng tượng đến hàng trăm lần có lẻ.
“Tính sao bây giờ?” tôi trút lên Ruth vào cuối ngày hôm đó.
“Đi thôi,” cô ấy nói.
“Một mình á?”
“Sao lại không? Giờ đâu phải thời Trung cổ, cậu biết mà. Thế chẳng phải lần trước cậu cũng đi một mình đấy sao?”
“Hồi ấy tớ đâu có bị ràng buộc gì. Chị Fonnie sẽ không thích đâu.”
“Thế thì càng có thêm lý do để đi,” Ruth cười nói.
Buổi tối tôi đi Chicago, Roland chở tôi đến ga phía Bắc St. Louis trên con Peugeot mới cứng, một chiếc ô tô hai chỗ màu xanh ve chai khiến anh thấy mình nam tính và kiêu hãnh hơn, tôi nghĩ thầm, đồng thời cũng đưa Fonnie lên mức lo lắng đến độ gần như sôi máu. Tôi quý Roland nhưng cũng cảm thấy thương hại anh. Tình cảnh của anh rất giống cha tôi hồi trước. Anh chỉ dám làm khi Fonnie cho phép; thật thảm hại, ấy thế nhưng anh cũng có thể rất quyến rũ theo cái kiểu mô phạm và tuyệt đối khiêm nhường. Tôi có cảm giác như chúng tôi là đồng minh trong nhà, và hy vọng anh cũng cảm thấy thế. Dù có thể dễ dàng thả tôi xuống vỉa hè, Roland vẫn đỗ xe lại và tiễn tôi đến tận sân ga, ở đó anh trao hành lý của tôi cho phu khuân vác. Thế rồi, khi đang chào tạm biệt, anh nghiêng đầu sang một bên, một trong những tật máy cơ mặt khó chịu mà cũng rất đáng yêu ở anh, rồi nói, “Trông cô rất đẹp, Hadley ạ.”
“Thật ạ?” tôi bỗng thấy e thẹn trước anh và phải lấy tay vuốt lại chiếc váy của bộ đồ đi đường màu xám nhạt.
“Thật. Anh chỉ chợt nghĩ ra là có thể cô không biết điều này về chính bản thân mình.”
“Cảm ơn anh nhé.” Tôi nghiêng người hôn má anh, rồi tôi lên tàu, tìm niềm vui mới trong bộ đồ đi đường của mình - chiếc mũ len mềm, đôi găng màu bơ và đôi giày da lộn quai chữ T. Ghế đơn và ghế băng trên tàu bọc nhung lông trông thật mời gọi, và cái giọng nghiêm khắc của Fonnie cất lên bảo tôi không nên hưởng thụ đột nhiên thật xa xôi. Đây chính là chương trình đặc biệt lúc nửa đêm chứ còn gì nữa, và tôi chui vào chiếc giường nằm Pullman đằng sau bức rèm xanh thẳm.
Sáng hôm sau, khi đến ga Công Đoàn, tôi đã được nghỉ ngơi đầy đủ và chỉ hơi hồi hộp cho đến khi tôi thấy Ernest trên sân ga, trông gần như giống hệt cái lúc tôi chia tay anh vào tháng Mười một - và thế là miệng tôi khô như rang và dạ dày tôi nhộn nhạo. Anh đẹp rạng ngời trong chiếc áo vét thủy thủ và khăn quàng cổ dày, và mắt anh sáng lên trong giá lạnh. Khi tôi xuống tàu, anh nhấc bổng tôi lên và ghì chặt.
“Tôi cũng rất vui được gặp lại cậu,” tôi nói khi anh thả tôi xuống, và cả hai đứa cùng cười, cảm thấy ngường ngượng vì được ở bên nhau đột ngột quá. Mắt chúng tôi gặp nhau rồi lại lảng đi. Bao nhiêu ngàn từ ngữ vẫn tuôn chảy đều đều giữa hai chúng tôi. Giờ chúng đi đâu mất rồi?
“Em đói không?” anh lên tiếng.
“Còn phải hỏi,” tôi đáp.
Chúng tôi cọ cọ mũi rồi đi trong buổi sáng lạnh giá để tìm đồ điểm tâm. Có một nơi anh thích ở phố State phục vụ bò bít tết và trứng với giá sáu mươi xu. Chúng tôi gọi món, đầu gối hai đứa hơi chạm nhau dưới gầm bàn.
“Tờ Bưu điện tối Chủ nhật lại vừa mới từ chối một truyện ngắn khác,” anh nói trong lúc chúng tôi đợi đồ ăn. “Đây là lần thứ ba rồi. Nếu chuyện này không nên cơm cháo gì thì có khi tôi sẽ dành cả đời viết những thứ rác rưởi hoặc kể chuyện của ải của ai cho các tạp chí mất. Tôi sẽ không làm thế đâu.”
“Rồi cậu sẽ thấy tác phẩm của mình được in thôi mà,” tôi an ủi.
“Chuyện đó phải xảy xa. Sẽ xảy ra.”
Anh nhìn thẳng vào tôi, rồi nhấc mũi giày lên ấn mạnh vào cạnh bên bắp chân tôi. Và cứ giữ nguyên như thế, ấm áp và khẩn thiết, anh hỏi, “Em có nghĩ đến chuyện không gặp lại tôi nữa không?”
“Chắc là có.” Tôi cảm thấy nụ cười của mình nhạt đi. “Tôi có thể trở nên một con khờ vì cậu, Nesto ạ.”
“Giá mà em yêu tôi dù chỉ một thời gian ngắn thôi cũng tốt biết bao.”
“Tại sao lại là một thời gian ngắn? Cậu lo bản thân mình không thể gắn bó lâu dài được à?”
Anh nhún vai, dáng vẻ bồn chồn. “Em còn nhớ tôi từng kể về Jim Gamble, bạn tôi trong Hội Chữ thập đỏ chứ? Cậu ta muốn tôi theo cậu ta đến Rome. ơ đấy vật giá rẻ, và nếu tôi tiết kiệm đủ trước khi đi thì tôi có thể chỉ ngồi viết truyện trong năm đến sáu tháng. Cơ hội kiểu này chắc sẽ chẳng xuất hiện đến lần hai đâu.”
Rome ư. Tôi thấy ngực mình thắt lại. Tôi chỉ mới tìm thấy anh, thế mà anh lại định chạy ra nước ngoài sao? Đầu óc tôi quay cuồng, nhưng tôi biết với một niềm đoan chắc rằng cố níu giữ anh sẽ là một sai lầm. Tôi khó nhọc nuốt khan rồi cẩn thận lựa từng lời. “Nếu công việc là thứ quan trọng nhất với cậu, cậu nên đi.” Tôi cố nhìn thẳng qua bàn vào mắt anh. “Nhưng có một cô gái sẽ nhớ cậu lắm.”
Anh nghiêm trang gật đầu nhưng không nói gì.
Những ngày còn lại trong một tuần thăm Chicago của tôi lấp đầy bởi các buổi hòa nhạc, xem kịch và tiệc tùng, tất cả các buổi tối đều kết thúc nơi căn phòng khách dài nhà Kenley với rượu, thuốc và những cuộc chuyện trò sôi nổi về sách hay, tranh đẹp. Mọi thứ đều y sì như hồi mùa thu, ngoại trừ một việc là Kate không khi nào có mặt.
Ngay trước khi rời St. Louis, tôi đã gửi thư cho cô ấy. Tôi không chắc bức thư sẽ đến tay cô trước khi chúng tôi chạm mặt nhau ở Chicago, vì hiển nhiên việc hai đứa gặp nhau là không tránh khỏi, nhưng tôi không thể không viết gì hay ít nhất là cố gắng nhẹ nhàng rào trước. Nesto và tớ đã trở nên khá thân thiết, tôi viết. Chúng tớ là những người bạn tốt của nhau và cậu cũng là bạn tốt của tớ nữa, và tớ ghét phải nghĩ rằng chuyện này sẽ thành rào cản giữa hai ta. Đừng giận lâu nhé. Bạn thân yêu nhất, Hash.
Kenley khăng khăng rằng cô ấy chỉ bận việc quá thôi, cậu nói, “Chị biết Kate mà. Chị ấy nhận quá nhiều việc thế rồi chẳng thể dứt ra được. Em chắc chúng ta sẽ sớm thấy chị ấy thôi.”
Nhưng chúng tôi không thấy cô, và ngày qua ngày, tôi càng lúc càng ước giá mình có thể nói chuyện về tình cảnh này với Ernest. Cứ lập lờ hai mặt thế này thật không giống tôi, nhưng tôi đã tự dồn mình vào góc tường khi chưa bao giờ để lộ việc Kate đã cảnh báo tôi phải tránh xa anh. Tôi có đầy rẫy lý do để không nói. Tôi không muốn làm tổn thương cảm xúc của anh là một, và tôi cũng không cảm thấy chỗ của mình là bước chen vào giữa hai người đó tạo mối bất hòa. Khi những ngày tôi đến chơi đã gần hết mà sự im lặng của Kate vẫn mỗi lúc một nặng nề thêm, tôi đã phải tự vấn liệu có khi nào một yếu tố trong mối quan hệ tay ba khập khiễng này sẽ chấm dứt vĩnh viễn hay không. Hoàn toàn có khả năng cô ấy sẽ không còn tin tưởng tôi nữa. Và cũng có thể - thậm chí rất có thể - Ernest sẽ đi Rome mà miệt mài với tiểu thuyết của anh, để lại tôi tròng trành vì hai lý do một lúc.
Cứ để mặc trái tim mình mập mờ với Ernest thế này rất nguy hiểm, nhưng tôi còn có lựa chọn thực sự nào đây? Tôi đang yêu anh, và ngay cả khi tôi không thấy can đảm chút nào khi đối diện với tương lai thì vẫn không thể phủ nhận cuộc sống của tôi đã thay đổi rõ rệt theo hướng tốt hơn kể từ khi gặp anh. Tôi cảm nhận rõ điều đó ở quê St. Louis và cả ở nhà Kenley nữa. Vào đầu giờ mỗi buổi tối, tôi luôn bồn chồn và e dè, lo rằng mình chẳng có gì để đóng góp cho cái nhóm này, nhưng rồi tôi cứ thế thoải mái với ngoại hình và giọng nói của mình. Và đến nửa đêm, tôi là là một phần của cuộc vui, sẵn sàng uống như hũ chìm và tán chuyện tới sáng. Cảm giác đó giống như thể mỗi đêm ta lại được tái sinh, cùng một quy trình ấy lặp đi lặp lại, tìm thấy mình, đánh mất mình, rồi lại tìm thấy mình.
“Mới đây thôi tôi còn chẳng đủ sức ngồi chơi piano lâu hơn nửa tiếng đồng hồ,” tôi nói với Ernest khi cùng ngồi ăn điểm tâm một buổi sáng nọ. “Đêm qua chúng ta thức đến tận ba giờ, thế mà tám giờ tôi đã ngồi đây mắt sáng bừng và nói chuyện ríu rít. Tôi đã từng lúc nào cũng mệt mỏi - và rất buồn phiền nữa. Chuyện gì xảy ra với tôi thế nhỉ?”
“Tôi không biết,” anh nói, “Nhưng tôi có thể xác minh chi tiết mắt sáng bừng.”
“Không đùa đâu,” tôi nói. “Chúng ta đang nói về một sự biến đổi lớn lao đấy.”
“Em không tin vào sự thay đổi sao?”
“Tin chứ. Nhưng thi thoảng tôi thậm chí còn không nhận ra chính mình. Cứ như trong truyện ấy, có một đám tiểu yêu đến mang cơ thể người ta đi và để lại một cơ thể khác — để thế chỗ.”
“Không quan trọng gì đâu, nhưng mà tôi thích em như thế này, Hash à.”
“Cảm ơn nhé. Tôi cũng thích tôi thế này.”
Tối hôm sau là tối cuối cùng tôi ở Chicago và tôi quyết tâm tận hưởng nó từng phút một. Tôi không chắc khi nào Ernest và tôi sẽ gặp lại nhau, hoặc liệu chúng tôi có còn gặp lại nữa hay không. Anh không đề cập gì đến Jim Gamble hay nước Ý sau cái ngày đầu tiên đó nữa, nhưng anh cũng chẳng tâm sự bất kỳ câu chuyện nào khác về tương lai. Khi tôi hỏi liệu lúc nào đó anh có thể đến St. Louis thăm tôi không, anh bảo, “Chắc chắn rồi, cô bé à,” cứ nhẹ tựa lông hồng, không kèm theo lời hứa nào, chẳng để lộ ý định gì. Nắm chặt và bấu víu không phải cách để giữ một người đàn ông như Ernest — ấy là nếu có một cách để làm việc đó tồn tại trên đời. Tôi đành phải chờ đợi xem sao thôi.
Đêm hôm đó trôi đi như đặc trưng vốn có, với hàng xô đồ uống và rất nhiều bài hát, tất cả chúng tôi đều hút như ống bễ. Ernest đề nghị tôi chơi một bản Rachmaninoff và tôi vui vẻ làm theo. Anh đến ngồi bên tôi trên ghế băng, như đêm đầu tiên chúng tôi gặp gỡ, và tôi thấy nhói lên một cảm giác hoài niệm trong lúc những ngón tay tôi lướt trên những phím đàn. Thế rồi giữa chừng bản nhạc, anh đứng dậy đi quanh phòng, nhón chân nhún nhảy tới lui, chồm chồm như ngựa nòi trước cổng. Cuối cùng, tôi tìm thấy anh khi anh đang ở ngoài khom người hút thuốc.
“Tôi chơi tệ thế cơ à?” tôi hỏi.
“Xin lỗi nhé. Không phải do em đâu.” Anh hắng giọng rồi ngước lên nhìn bầu trời đêm lạnh chi chít sao đến hoa cả mắt. “Tôi đã muốn kể cho em nghe về một cô gái.”
“Ai chà.” Tôi ngồi xuống một trong những bậc thềm đá lạnh buốt, cố kiểm soát nỗi kinh hãi đang đột ngột dâng lên trong lòng mình. Nếu Kate nói đúng về Ernest thì sao, tôi không biết liệu mình có chịu nổi điều đó hay không nữa.
“Không phải cô gái theo kiểu em nghĩ đâu. Chuyện cũ rồi. Tôi đã kể em nghe về hồi bị thương ở Fossalta chưa nhỉ?”
Tôi gật đầu.
“Khi người ta chuyển tôi đến Milan để hồi sức, tôi yêu cô y tá trực đêm chăm sóc tôi ở đó. Thật là một loại khí độc phải không? Tôi và mười nghìn gã khờ khác.”
Chẳng phải chuyện gì mới, nhưng nhìn mặt anh tôi hiểu rằng với anh đó là câu chuyện duy nhất.
“Tên cô ấy là Agnès. Khi họ chuyển tôi về Mỹ thì chúng tôi đã lên kế hoạch lấy nhau. Ngày ấy mà có tiền là tôi đã ở lại và cưới cô ấy rồi. Cô ấy muốn chờ. Phụ nữ luôn lý trí chết tiệt vậy đấy. Tại sao thế?”
Tôi không mảy may biết mình nên nói gì. “Lúc ấy cậu chỉ mới mười tám thôi phải không?”
“Mười tám hay là một trăm cũng được,” anh nói. “Chân tôi đầy mảnh kim loại. Họ lôi ra hai mươi tám mảnh trái phá từ người tôi. Hơn một trăm mảnh khác quá sâu nên không thể chạm tới, nhưng chẳng cái nào trong số đó làm tôi đau bằng bức thư cuối cùng cũng đến từ Ag. Cô ấy đã yêu người khác, một tay trung úy người Ý bảnh bao.” Anh nhếch mép cười, mặt rúm ró lại. “Cô ấy bảo mong sẽ có ngày tôi tha thứ cho cô ấy.”
“Cậu vẫn chưa tha thứ.”
“Chưa. Chưa hẳn.”
Sau vài phút trôi qua trong im lặng, tôi nói, “Cậu không nên kết hôn trong một thời gian dài nữa. Cú đánh kiểu đó giống như một căn bệnh khó lành. Cậu cần thời gian hồi phục, nếu không cậu sẽ chẳng bao giờ dứt bệnh hoàn toàn.”
“Đấy là phương thuốc em kê ư, bác sĩ? Liệu pháp nghỉ ngơi sao?”
Trong lúc nói anh đã ngồi dịch dần về phía tôi, và giờ thì anh đang với lấy một bàn tay đeo găng của tôi. Anh xoa xoa nùi len ấy theo chiều này rồi chiều khác, trông anh có vẻ bình tĩnh hơn. “Tôi thích sự thẳng thắn của em,” sau một lúc thì anh lên tiếng. “Em lắng nghe tôi rồi nói với tôi đúng những điều em đang nghĩ.”
“Chắc vậy,” tôi nói, nhưng thực ra tôi muốn lộn mửa. Rõ ràng anh đã yêu người con gái kia đến tuyệt vọng, và nhiều khả năng anh vẫn còn yêu. Tôi làm sao mà cạnh tranh nổi với một bóng ma — tôi, một kẻ biết quá ít về tình yêu và không điều gì trong số đã biết là tốt đẹp cả?
“Em nghĩ chúng ta có khi nào bỏ lại quá khứ sau lưng được không?” anh hỏi.
“Tôi không biết nữa. Mong là được.”
“Đôi lúc tôi nghĩ nếu Agnès biến mất thì chuyện này cũng có thể biến mất.”
Tôi gật đầu. Tôi đã từng có nỗi lo y hệt.
“Có lẽ cô ấy thực ra không hề biến mất. Có lẽ cô ấy chưa từng yêu tôi.”
Anh châm một điếu thuốc khác rồi hít một hơi thật sâu, đầu thuốc lóe lên một màu đỏ giận dữ. “Tình yêu thật là một tên lừa đảo khốn kiếp nhỉ?”
Giọng anh chất chứa niềm cay đắng, và tôi phải khó khăn lắm mới nhìn thẳng được vào mắt anh, nhưng anh lại soi tôi thật sát sao và chăm chú, rồi anh bảo, “Giờ thì tôi làm em sợ rồi.”
“Chỉ hơi hơi thôi.” Tôi cố mỉm cười vì anh.
“Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại tầng trên và khiêu vũ đến sáng.”
“Ôi Nesto. Tôi mệt kinh khủng rồi đây này. Có lẽ mình nên quay vào, thế thôi.”
“Đi mà,” anh nài nỉ. “Tôi nghĩ làm thế sẽ đỡ mệt hơn đấy.”
“Thôi được rồi.” Tôi đưa tay mình cho anh nắm.
Trên gác, bữa tiệc đã rã đám gần hết. Ernest chậm rãi cuộn tấm thảm qua một bên và bật máy hát. Giọng Nora Bayes láy rền lan khắp phòng - Hãy giả vờ vui khi em đang buồn.
“Đó là bài hát tôi thích nhất,” tôi nói với Ernest. “Cậu có tài tiên tri đấy à?”
“Không đâu, tôi chỉ giỏi dụ một cô gái đứng gần mình hơn mà thôi.”
Tôi không rõ đêm hôm ấy chúng tôi đã nhảy trong bao lâu, đi tới đi lui khắp phòng khách theo một hình ê líp chậm và dài. Mỗi khi bản nhạc kết thúc, Ernest lại rời tôi một lúc rất chóng thôi để bật lại từ đầu. Rồi anh quay trở lại với vòng tay tôi, mặt anh vùi vào cổ tôi, tay anh ôm chặt thắt lưng tôi. Ba phút diệu kỳ cứ căng lại trùng như thế. Có lẽ hạnh phúc là một chiếc đồng hồ cát đã chảy gần cạn, những hạt cát cứ đổ xuống, lắc rắc trôi qua nhau. Có lẽ nó chỉ là một trạng thái của tâm trí — như Nora Bayes đã khẳng định — là một miền đất ta có thể khắc lên từ vô định rồi bước vào khiêu vũ.
“Tôi sẽ không bao giờ lừa dối cậu,” tôi nói.
Anh gật đầu khi vẫn vùi trong tóc tôi. “Mình hãy luôn nói thật với nhau nhé. Chúng mình có thể lựa chọn điều ấy, phải không?”
Anh đưa tôi lướt vòng quanh rồi vòng quanh, chầm chậm mà mạnh mẽ. Bài hát kết thúc, kim máy hát lách cách, thì thầm, xì xào rồi yên lặng. Nhưng chúng tôi vẫn nhảy, lắc lư lướt qua cửa sổ rồi vòng ngược trở lại.
Chú thích:
(*) Một từ lóng phổ biến ở Mỹ những năm 1920, chỉ một người hoặc một vật thú vị đáng được săn đón.