MƯỜI
Ngày 3 tháng Chín năm 1921, bình minh trong trẻo và êm dịu và lặng gió — một ngày hoàn hảo. Lá trên cây chỉ mới bắt đầu chuyển màu, nhưng ta sẽ không biết được điều đó nếu chỉ cảm nhận nước hồ, vẫn còn ấm áp như nước bồn tắm. Sáng hôm đó Ernest đã đến vịnh Horton trong tâm trạng xúc động mạnh sau ba ngày đi câu với mấy cậu bạn độc thân. Sống mũi anh rám nắng và mắt anh hằn lên vẻ mệt mỏi, hoặc bồn chồn, hoặc cả hai.
“Anh có sẵn sàng cho chuyện này không vậy?” tôi hỏi khi nhìn thấy anh.
“Quá sẵn sàng ấy chứ,” anh nói. Anh đang nói dối, nhưng chẳng phải tôi cũng đang nói dối đó sao? Chẳng phải tất cả mọi người đều sợ phát khiếp trong ngày cưới ư?
Trong lúc Ernest dành những tiếng đồng hồ cuối cùng với tư cách một người đàn ông tự do trong ngôi nhà nghỉ hè phố Main vịnh Horton, chuyền tay một chai whisky với các phù rể, thì tôi đi bơi rất lâu sau bữa trưa với Ruth và Kate, hai phù dâu của tôi.
Con đường thuyết phục Kate thậm chí còn đồng ý đến dự đám cưới thật chẳng đơn giản gì. Đã phải tốn hàng bao nhiêu lá thư căng thẳng và khó khăn, mới đầu gần như tất cả đều từ phía tôi gửi cho cô ấy. Nhưng sau nhiều tuần thì cuối cùng cô ấy cũng thú nhận: Tớ sợ là đã có lúc tớ rất yêu Ernest. Tớ không chắc tại sao trước giờ mình không thể nói ra điều này, chỉ có điều tớ đã rất đau lòng khi thấy anh ấy phải lòng cậu thay vì tớ, và tớ thấy xấu hổ kinh khủng khi nghĩ đến chuyện hai người các cậu có lẽ đã cười vào mặt tớ.
Tôi thấy nhói lên một niềm cảm thông sâu sắc khi đọc những lời cô ấy viết. Tôi biết rất rõ con người ta khi bị điều khiển bởi tình yêu đơn phương có thể cư xử tầm thường ra sao, ấy thế nhưng Kate ở đây đã chứng tỏ cô ấy là người bạn tốt đến thế nào. Cô ấy đã từng yêu Ernest và đã mất anh vào tay tôi, thế mà vẫn sẵn sàng đại diện cho cả hai chúng tôi trước mặt gia đình và bạn bè.
Chiều hôm đó tôi tràn ngập lòng cảm phục đối với cô ấy và không thể ngăn mình bơi lại chỗ cô ấy đang té nước ở vùng nước nông, tôi nói, “Kate à, cậu là một người tốt.”
“Cậu cũng vậy, Hash ạ,” cô ấy nói. Mắt cô ấy rơm rớm lệ.
Giá mà lúc đó chúng tôi biết được rằng tám năm sau, ở một Paris mà chúng tôi còn chưa bắt đầu mường tượng ra, John Dos Passos(*) sẽ trở thành một nạn nhân trước vẻ rạng rỡ của Kate và theo đuổi cô ấy cho đến khi cô ấy nhận lời lấy anh ta. Rằng Dos cũng là một nhân vật hăng hái và quan trọng với nền chữ nghĩa Hoa Kỳ gần như không kém gì Hemingway, nếu biết thế thì giây phút này đã nhẹ nhàng đi biết bao nhiêu — nhưng chúng ta có bao giờ biết được điều gì đang chờ đợi mình, dù tốt hay xấu đâu. Tương lai vẫn còn nấp sau tấm mạng mỏng khi Kate trao cho tôi một nụ cười mệt mỏi rồi khỏa nước bơi vào đám sậy.
Buổi chiều hôm ấy nước hồ quá ấm và lý tưởng, bơi đến tận ba giờ thì tôi mới hoảng hốt nhận ra tóc mình sẽ không kịp khô trước buổi lễ. Chúng tôi vội vã chạy về nhà nghỉ, ở đó tôi dùng ruy băng buộc tóc lên rồi bước vào chiếc váy ren màu ngà, chiếc váy hợp với tôi đến nỗi tôi đã tưởng nó được may riêng cho mái tóc ẩm. Một đôi dép lụa mềm màu kem cho chân tôi, một vòng hoa đội đầu và một tấm mạng thả xuống lưng. Tôi mang theo một cành hoa baby.
Lúc bốn giờ mười lăm, chúng tôi bước vào ngôi nhà thờ nhỏ, Kate và Ruth đã trang trí nơi này bằng hoa súng đầm lầy, hoa bóng nước và hoa roi vàng hái ở một cánh đồng gần đó. Những dải nắng xuyên qua cửa sổ in lên tường. Ernest cùng các phù rể đứng bên bệ thờ, hết thảy đều hồng hào và đẹp đẽ trong bộ quần âu trắng và áo vét lam đậm. Ai đó hắt hơi. Người chơi dương cầm bắt đầu đánh bản “Wedding March” của Wagner, và tôi cất bước, chú George Breaker, một người bạn của gia đình, dẫn tôi đi giữa hai hàng ghế. Tôi đã mong anh Jamie có thể từ California tới dự để dắt tôi đến trao cho chú rể, nhưng anh đang bị bệnh lao nặng quá. Cậu tôi, Arthur Wyman, là lựa chọn thứ hai, nhưng cả cậu cũng quá yếu không tham dự được. Tôi thấy buồn khi nhiều người nhà tôi không thể ở đó với tôi, nhưng chẳng phải chính vào ngày hôm đó tôi sẽ có một gia đình mới đấy sao?
Trên đường bước tới bục giảng kinh, tôi đi qua Fonnie, chị ăn mặc cứng nhắc và đội một chiếc mũ hải quân chật chội bé xíu. Roland đứng cạnh chị và trao cho tôi nụ cười thương mến, rồi đến cô cháu gái Dodie nhe răng cười và chỉ cho tôi thấy hai đầu gối Ernest đang run run trong chiếc quần vải flanen trắng của anh. Thêm một bằng chứng về sự hèn nhát vào lúc phải hành động, hay là gì đó khác? Tôi thật lòng không biết, nhưng dù sao cũng đã quá trễ để hỏi những câu như thế rồi — quá muộn để dừng hay lấy lại bất cứ điều gì, kể cả khi tôi muốn đi chăng nữa. Mà tôi thì đâu có muốn.
Buổi lễ tĩnh lặng, tuyệt đẹp và diễn ra trôi chảy. Chúng tôi ra khỏi ngôi nhà thờ nhỏ để bước vào ánh nắng cuối ngày. Tiếp đó, sau bữa chiều với món gà, một chiếc bánh sôcôla tan chảy và quá nhiều ảnh chụp trong vườn mà ai nấy đều phải nheo mắt trước ánh mặt trời, Sừng Nhi đề nghị chở chúng tôi ra gần hồ Walloon, nơi chúng tôi nghỉ trăng mật tại Windemere, ngôi nhà nghỉ mùa hè của gia đình Hemingway. Bà Grace và bác sĩ Hemingway đã cho chúng tôi ở đó hai tuần như một món quà cưới. Trời đã chạng vạng khi chúng tôi bước lên thuyền bắt đầu chuyến đi băng qua hồ. Hành lý cứ va quanh đầu gối hai đứa, và một nỗi bồn chồn dịu ngọt đổ xuống giữa chúng tôi khi giờ đây việc lớn của ngày đã xong.
“Em có hạnh phúc không?” anh khẽ hỏi.
“Anh biết là em hạnh phúc mà. Còn phải hỏi nữa sao”?
“Anh thích hỏi,” anh nói. “Anh thích nghe em xác nhận, dù biết rõ mình sẽ nghe được những gì.”
“Thế thì có lẽ là em cực kỳ hạnh phúc,” tôi nói. “Anh có hạnh phúc không?”
“Còn phải hỏi nữa sao?”
Chúng tôi bật cười nho nhỏ với nhau. Bầu không khí ẩm ướt, tĩnh lặng, đầy chim đêm và dơi đi kiếm ăn. Lúc chúng tôi cập thuyền vào cái vũng nông ở Windemere thì trời đã tối hẳn. Ernest giúp tôi bò lên bờ cát, rồi hai đứa ôm sát nhau đi bộ lên đồi. Chúng tôi mở cửa, thắp đèn rồi nhìn vào trong căn nhà. Mẹ Ernest đã nỗ lực đánh bóng loáng mọi thứ, nhưng dù có sạch sẽ, các phòng vẫn rất lạnh. Ernest mở một chai vang mà bà Grace đã để sẵn trong thùng đá cho hai đứa, rồi chúng tôi nhóm lò sưởi trong phòng khách và kéo mấy tấm đệm từ vài cái giường xuống để làm ổ ngay trước ngọn lửa.
“Hôm nay trông chị Fonnie thật là hiếm thấy nhỉ,” sau một lúc thì anh lên tiếng. “Một cỗ xe tăng hoàn hảo.”
“Fonnie tội nghiệp,” tôi nói. “Cuộc hôn nhân của chính chị ấy là một vụ phá sản lớn. Chẳng lạ gì khi chị ấy quá nanh nọc với chúng ta.”
“Chẳng phải em thật tốt bụng đó sao?” anh vừa nói vừa vuốt tóc tôi. Và tôi chợt nhớ tới chuyến đi bơi hồi chiều.
“Kate tỏ ra dũng cảm khủng khiếp, anh nhỉ?”
“Đúng vậy, nhưng anh mừng là giờ tất cả đã ở phía sau chúng ta rồi.”
Anh đứng dậy băng qua phòng để bật đèn. “Lẽ ra anh nên đề cập đến chuyện này từ trước, nhưng anh luôn cần một chút ánh sáng để ngủ. Thế có sao không?”
“Chắc là không sao. Thế chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh để đèn tắt?”
“Em không muốn biết đâu.” Anh trèo lại vào trong ổ và ôm siết tôi. “Sau khi anh bị bắn, và khi đầu anh vẫn còn ở trong tình trạng rất tệ, một sĩ quan người Ý đã bảo anh rằng cách duy nhất để thực sự giải quyết được nỗi sợ kiểu đó là kết hôn.”
“Để cho vợ anh chăm sóc anh phải không? Thật là một cách nghĩ thú vị về hôn nhân.”
“Thực ra anh lại hiểu điều đó có nghĩa là nếu anh có thể chăm lo cho vợ mình — nghĩa là em đấy — thì anh sẽ bớt lo lắng cho bản thân hơn. Nhưng có lẽ phương pháp này vận hành theo cả hai cách nhỉ.”
Em tin là thế,” tôi nói.
Chú thích:
(* )John Roderigo Dos Passos (1896-1970): tiểu thuyết gia, họa sĩ người Mỹ, nổitiếng với bộ ba tác phẩm U.S.A.