MƯỜI MỘT
Ba chiếc đồng hồ
Tích tắc
Trên bệ lò sưởi
Phẩy
Nhưng chàng thanh niên thì sắp chết đói.
E.H., 1921
“Chúng ta đâu có chết đói,” tôi bảo Ernest khi anh cho tôi xem bài thơ mới nhất của mình.
“Có lẽ là không, nhưng cũng chẳng thể nói chúng ra no nê được,” anh đáp.
Căn hộ đầu tiên chúng tôi ở là một ngôi nhà hai tầng chật chội bẩn thỉu dùng cầu thang bộ nằm trên phố Bắc Dearborn, một khu dân cư ổ chuột ở bờ Bắc Chicago. Tôi ghét ở đó, nhưng tài chính của chúng tôi chỉ cho phép có vậy. Chúng tôi trang trải với hai nghìn đô la một năm — tiền từ một quỹ ủy thác ông tôi lập cho tôi. Có hoặc là rồi sẽ có một ít tiền từ di sản mẹ tôi để lại, nhưng giờ thì nó vẫn còn ràng buộc với đủ thứ luật sư. Ernest kiếm được gần năm mươi đồng một tuần từ việc viết lách cho tờ Cooperative Commonwealth, nhưng anh xin thôi việc chỉ vài tuần sau khi chúng tôi trở về từ kỳ nghỉ trăng mật, vì tin đồn bắt đầu lan ra rằng tờ báo dính líu đến vài vụ dàn xếp tài chính gian lận và sắp nhanh chóng phá sản. Ernest không muốn dính dáng tới bất cứ chuyện gì xấu xa như vậy, và tôi hiểu được tại sao, nhất là khi anh định trở thành nhà văn nổi tiếng, chỉ có điều kế hoạch đi Ý của chúng tôi dường như ngày càng bất khả thi.
Hoàn cảnh sống khốn khó chẳng làm Ernest bận tâm nhiều như tôi vì anh ra ngoài cả ngày, sáng tác trong quán ăn hay tiệm cà phê. Tôi thì kẹt cứng ở căn hộ — hai phòng, buồng tắm cuối hành lang — và chẳng có mấy cách để giữ cho mình bận rộn. Có lúc tôi đã nghĩ đến chuyện đi tìm việc, nhưng tôi chẳng mấy sẵn sàng, vả lại, ít nhất, cái ý tưởng đắm mình vào công việc nội trợ cũng rất hấp dẫn. Tôi nhớ sự sôi nổi ở Chốn Cư Ngụ, nhưng Kate đã đi học trường báo chí ở Buffalo mất rồi, mà chuyện giữa Ernest và Kenley lại đang căng thẳng. Anh vẫn nợ Kenley tiền nhà từ trước đám cưới rất lâu rồi, nhưng càng ngày Ernest chỉ càng bướng bỉnh biện hộ rằng Kenley đang cố lừa tiền anh. Anh không chịu trả, thế là Kenley giận tím người, cuối cùng cậu gửi thư nhắn Ernest đến mà tha đồ trong kho về.
Ernest hồi đáp với giọng điệu không kiêng nể, hy sinh tình bạn giữa hai người như thể nó chẳng có ý nghĩa gì. Tôi biết anh đau lòng vì mất mát này, vì lỗi lầm của anh, nhưng anh không chịu thừa nhận điều ấy. Quãng thời gian đó tâm trạng anh khá tệ. Anh vừa mới nhận thêm vài lời từ chối đăng mấy truyện ngắn gửi tạp chí, và lòng kiêu hãnh của anh bị tổn thương. Khi anh còn coi viết lách là nghề tay trái và không thành công thì đã đành một nhẽ. Nhưng giờ đây anh đã toàn tâm toàn sức cho nghề, làm việc hằng ngày, vậy mà vẫn thất bại. Tương lai sẽ thế nào đây?
Dĩ nhiên thời hai đứa chúng tôi còn yêu đương cũng có lúc tinh thần Ernest giảm sút và anh thấy thất vọng với bản thân. Một bức thư u ám từ anh có vẻ dự báo điềm xấu, nhưng chỉ vài ngày sau là giọng điệu của anh lại sôi nổi và lạc quan hơn. Chứng kiến tâm trạng của anh thay đổi từ một khoảng cách gần là một việc khó khăn hơn nhiều. Nói thật, lần đầu tiên chứng kiến việc ấy, không lâu sau khi chúng tôi kết hôn, tôi đã lo lắng hơn những gì tôi có thể thoải mái thú nhận rất nhiều.
Anh về nhà sau cả ngày làm việc trong một quán cà phê, mặt mũi trông hết sức thảm hại. Mặt anh chán nản cau có; mắt anh đỏ ké vì mệt mỏi. Tôi tưởng anh ốm, nhưng anh xua mối lo ấy đi. “Chỉ là anh suy nghĩ quá nhiều thôi. Chúng mình tản bộ cái nhỉ?”
Bấy giờ đang là tháng Mười một, trời khá lạnh, nhưng chúng tôi quấn áo trong áo ngoài rồi mệt mỏi lê bước một lúc lâu về phía hồ. Ernest im lặng và tôi cũng không ép anh thổ lộ. Lúc đến bờ hồ thì trời đã sẩm tối, mặt nước nổi sóng. Nhưng chúng tôi vẫn thấy một kẻ không biết là can đảm hay ngu ngốc nữa đang bập bềnh ngoài kia, có lẽ là cách bờ cả nửa dặm, trên một con thuyền nhỏ xíu cứ chao đảo một cách đáng ngại, nước tạt vào khoang.
“Darwin sẽ nghĩ gì về gã nhà quê này nhỉ?” Ernest nói, miệng nở một nụ cười chế giễu.
“A ha,” tôi nói. “Em cứ lo là sẽ không bao giờ thấy được hàm răng dễ thương đó nữa.”
“Anh xin lỗi. Anh chẳng biết mình bị làm sao nữa.” Anh đưa hai tay lên ôm đầu rồi thở dài. “Chết tiệt,” anh gằn giọng thì thào, rồi đấm thùm thụp vào trán mình.
“Ernest!” tôi thốt lên, rồi anh lặp lại hành động ấy.
Anh bắt đầu khóc, hay ít nhất tôi nghĩ là anh đang khóc; anh giấu mặt sau hai bàn tay.
“Hãy nói em nghe có chuyện gì đi,” tôi nói. “Anh có thể kể cho em bất cứ điều gì mà.”
“Anh thậm chí còn chẳng biết. Anh suy sụp như xác tàu. Đêm qua anh không chợp mắt được chút nào.”
“Anh đang hối hận vì đã kết hôn sao?” Tôi cố tìm mắt anh. “Nếu thế thì em có thể hiểu mà.”
“Anh không biết. Chỉ là anh thấy mất phương hướng quá.” Anh đưa hai cánh tay áo khoác len lên dụi mạnh vào mắt. “Anh mơ thấy ác mộng và chúng quá sống động. Anh nghe thấy tiếng súng cối, cảm thấy máu trong giày mình. Anh thức dậy đầm đìa mồ hôi. Anh sợ ngủ.”
Tôi cảm thấy trong mình trỗi dậy một tình yêu như tình mẫu tử, tôi muốn ôm anh thật chặt trong vòng tay mình đến khi cảm giác lạnh lẽo trong tim anh tan biến. “Mình về nhà thôi,” tôi nói.
Chúng tôi đi bộ trở lại căn hộ trong im lặng. Về đến nơi, tôi đưa Ernest thẳng đến phòng ngủ và cởi đồ cho anh như cách mẹ thường làm với tôi khi tôi ốm. Tôi kéo chăn choàng thật chặt quanh vai anh, rồi xoa bóp vai và cánh tay anh. Sau vài phút, anh chìm vào giấc ngủ. Tôi tìm một tấm chăn rồi đến ngồi một cái ghế ở góc để canh chừng anh. Chỉ đến lúc ấy tôi mới để mình cảm nhận toàn bộ sức nặng của nỗi lo lắng trong tôi. Mất phương hướng quá, anh đã nói vậy, và tôi có thể thấy điều đó trong mắt anh, một điều gợi nhớ về cha tôi. Toàn bộ chuyện này có nghĩa là gì? Liệu có phải cơn khủng hoảng này liên quan tới trải nghiệm của anh trong chiến tranh không? Liệu có phải những ký ức đó đôi khi lại nhào đến tiêm nhiễm vào anh, hay chuyện này có gì riêng tư hơn? Nỗi buồn này có bám theo Ernest theo cái cách chết người như nỗi buồn của cha tôi từng đeo bám theo ông?
Bên kia phòng, Ernest phát ra tiếng động như một con thú nhỏ rồi trở mình quay mặt vào tường. Tôi quấn chăn chặt hơn quanh vai rồi nhìn ra bầu trời tháng Mười một bão tố ngoài cửa sổ phòng ngủ. Trời đã bắt đầu mưa nặng hạt, và tôi hy vọng con người tội nghiệp trên thuyền kia đã tìm được đường vào bờ. Nhưng đâu phải ai mắc bão ngoài kia cũng muốn được cứu. Tự tôi biết rõ điều đó từ mùa hè Dorothea qua đời. Tôi và người bạn mùa hè của mình đã thoát khỏi vịnh Ipswich an toàn, nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên thôi. Nếu những khối nước thịnh nộ đó có vươn ra nuốt chửng lấy tôi thì tôi cũng để mặc. Hôm ấy tôi đã muốn chết — thật sự — và cả những lần khác nữa. Không nhiều, nhưng chúng vẫn ở đó, và khi quan sát Ernest co rúm lại trong một giấc ngủ không yên, tôi không thể không băn khoăn liệu có phải tất cả chúng ta đều có những lần như thế. Và nếu đúng, vậy thì nếu ta sống sót qua được những đận ấy, liệu có phải chỉ là do ngẫu nhiên?
Nhiều tiếng đồng hồ sau, Ernest tỉnh và gọi tôi qua căn phòng tối.“Em đây,” tôi nói rồi đi đến bên anh.
“Anh xin lỗi em nhiều lắm,” anh nói. “Thỉnh thoảng anh lại bị thế này, nhưng anh không muốn em nghĩ mình đã mua nhầm con ngựa hạng bét.”
“Điều gì đã châm ngòi thế?”
Anh nhún vai. “Anh không biết, nó cứ thế đến thôi.”
Tôi lặng lẽ nằm xuống cạnh anh và nhẹ nhàng xoa trán anh trong khi anh nói tiếp.
“Khi anh bị nó tóm lấy, trong một lúc anh cảm giác rất kinh khủng. Nếu khi ấy là ban ngày và anh đang làm gì đó, câu cá hay làm việc, bất kỳ điều gì, thì anh sẽ ổn. Hoặc vào buổi đêm, nếu đèn sáng và anh có thể nghĩ về cái gì đó khác cho đến khi thiếp ngủ. Nếu anh có thể kể tên mọi dòng sông anh từng thấy. Hoặc vạch bản đồ một thành phố anh từng sống trước đây, cố nhớ mọi con phố, mọi quán rượu hay ho, những con người anh gặp ở đó và những điều họ nói. Nhưng những lúc khác, quá tối tăm và quá yên ắng, thì anh lại bắt đầu nhớ những thứ anh không muốn có trong đầu mình chút nào. Em có biết cảm giác ấy như thế nào không?”
“Em hơi hơi biết, có.” Tôi ôm anh thật chặt “Nhưng nó làm em sợ. Em chưa từng hay cha mình bất hạnh đến vậy, nhưng rồi ông ra đi. Chắc hẳn tất cả mọi chuyện đã vượt quá sức chịu đựng của ông.” Tôi ngừng lại, cố tìm cách diễn đạt đúng ý mình. “Khi mọi chuyện vượt quá sức chịu đựng của anh, anh nghĩ liệu anh có biết không? Ý em là trước khi đã quá muộn ấy.”
“Em muốn một lời hứa à?”
“Được không anh?”
“Anh nghĩ là được. Anh sẽ cố.”
Đêm đó cả hai chúng tôi mới ngây thơ khủng khiếp làm sao. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, thề thốt những điều chúng tôi không thể giữ và lẽ ra không bao giờ nên nói thành lời. Đôi khi tình yêu là như thế đấy. Tôi đã yêu anh hơn bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì tôi từng yêu. Tôi biết anh tuyệt đối cần tôi, và tôi muốn anh tiếp tục mãi mãi cần tôi.
Vì Ernest tôi cố tỏ ra mạnh mẽ, nhưng mọi việc ở Chicago không hề dễ dàng đối với tôi. Mối bận tâm với công việc của anh khiến tôi nhận thức rõ rằng mình chẳng có đam mê cá nhân gì cả. Tôi vẫn tập piano vì tôi vẫn luôn tập từ trước tới nay, nhưng đó là một cây piano tủ đi thuê, không phải cây Steinway duyên dáng của tôi hồi nhỏ, và căn hộ thông thống gió đã trút sự tàn phá lên bộ chỉnh âm. Vì chẳng còn người bạn nào ở Chicago nữa, có nhiều lúc cả tuần tôi không nói chuyện với ai ngoài Ernest và ông Minello bán tạp hóa ở cuối phố. Mỗi buổi chiều tôi sẽ đi bộ qua ba dãy nhà tới chợ và ngồi tán gẫu với ông ấy. Đôi khi ông pha cho cả hai tách trà — một loại lá đậm vị nấm và tro — và chúng tôi tán chuyện như dân chợ búa. Ông góa vợ, và là một người đàn ông dịu dàng có thể nhận biết ngay một phụ nữ cô đơn khi nhìn thấy cô ấy.
Chính ông Minello đã giúp tôi lên kế hoạch tổ chức bữa tiệc tối đầu tiên của mình với tư cách một phụ nữ có gia đình, cho Sherwood Anderson cùng vợ ông, Tennessee. Kenley đã giới thiệu Ernest với Anderson hồi mùa xuân, trước khi họ gây lộn. Tập truyện Winesburg, Ohio vẫn còn tương đối nổi, và Ernest gần như không tin nổi Anderson sẽ gặp mình, nói gì đến việc đề nghị xem vài truyện ngắn của anh. Anderson đã nhìn ra điều hứa hẹn trong tác phẩm của Ernest và đề nghị giúp phát triển sự nghiệp của anh trong khả năng của ông, nhưng ngay sau đó ông cùng Tennessee đã rời khỏi Mỹ để đi du lịch châu Âu dài ngày. Khi Ernest tìm được ông cũng là lúc hai vợ chồng họ vừa mới trở về, anh mời cặp đôi ấy đến ăn tối. Tôi háo hức muốn gặp họ nhưng cũng rất lo sợ. Nhà chúng tôi quá kinh, sao tôi có thể làm nó tươm tất hơn được đây?
“Ánh sáng mờ ảo thôi,” ông Minello nói, cố làm cho tôi bình tĩnh lại. “Tiết kiệm nến nhưng đừng tiết kiệm rượu. Và nấu món gì có xốt kem ấy.”
Tôi nấu ăn không xuất sắc lắm, nhưng dù sao thì buổi tối hôm ấy cũng xuôi chèo mát mái. Hai vợ chồng Anderson vô cùng lịch sự, họ vờ như không thấy tình trạng sống kinh khủng của chúng tôi. Tôi thích cả hai người bọn họ ngay lập tức, đặc biệt là Anderson, ông ấy có một khuôn mặt thú vị. Có lúc trông nó có vẻ nhạt nhòa và hoàn toàn không điểm nhấn — mềm mại, tầm thường và có nét miền Trung Tây. Đôi lúc ở ông lại có vẻ xúc cảm mãnh liệt đầy kịch tính lan tỏa khiến khuôn mặt mang một nét cứng rắn và sôi sục đầy đáng yêu. Và ông mới tuyệt vời làm sao khi bắt đầu nói về Paris trong bữa tối.
“Còn Rome thì sao?” Ernest hỏi rồi kể cho ông nghe về kế hoạch chuyển đến Ý chúng tôi ôm ấp từ lâu.
“Dĩ nhiên Rome cũng có sức hấp dẫn riêng,” Anderson nói, đoạn thổi khói khỏi chiếc đĩa đã nhẵn thín của mình, “la dolce vita”(*) vân vân và vân vân.
Có gì ở Ý mà không thích được đâu cơ chứ? Nhưng nếu anh muốn làm bất kỳ việc gì nghiêm túc, thì Paris chính là nơi cần ở. Đó là nơi các nhà văn thực thụ sống lúc này. Tỉ giá tiền tệ tốt. Bất kỳ giờ nào cũng có việc để mà làm. Paris, Hem ạ. Hãy cân nhắc nơi đó một chút nhé.”
Đêm đó sau khi chúng tôi trèo vào chiếc giường nhỏ lạnh lẽo và xích lại gần nhau để sưởi ấm tay chân, Ernest hỏi tôi nghĩ gì về ý tưởng ấy.
“Chúng mình có thể cứ thế thay đổi nhanh vậy sao? Mình đã lên kế hoạch rất kỹ rồi mà.”
“Rome vẫn sẽ ở đó bất cứ khi nào chúng mình muốn đến — nhưng Paris. Anh muốn đi theo dòng chảy hiện giờ. Anderson hiểu rõ những thứ ông ấy nói, và nếu ông ấy bảo Paris là nơi chúng ta muốn ở thì ít nhất chúng ta cũng nên cân nhắc nghiêm túc.”
Lúc ấy chúng tôi vẫn còn quá túng thiếu đến độ toàn bộ chuyện này đáng lẽ ra đã là một việc xa vời chẳng đáng để tranh luận, nhưng rồi tôi được tin cậu tôi, Arthur Wyman, đã qua đời, để lại khoản thừa kế tám nghìn đô la cho tôi. Cậu đã ốm đau một thời gian rồi, nhưng món quà đó thì hoàn toàn bất ngờ. Số tiền ấy — cả một gia tài với chúng tôi — chỉ sau một đêm đã đảm bảo cho chuyến đi nước ngoài của hai vợ chồng. Ngay khi hay tin, Ernest tới gặp Sherwood ở văn phòng của ông trong khu trung tâm và bảo chúng tôi thích Paris. Liệu ông có thể làm gì để mở đường trước không? Chúng tôi nên tới đâu? Khu dân cư nào? Đâu là cách đúng đắn khởi sự?
Anderson lần lượt trả lời tất cả các câu hỏi của anh. Montparnasse là khu tốt nhất cho giới nghệ sĩ và nhà văn. Chúng tôi nên trọ tại Hôtel Jacob cuối phố Bonaparte cho đến khi tìm được nơi ở. Chỗ đó sạch sẽ, giá cả phải chăng và có thể tìm thấy nhiều trí thức người Mỹ trong khách sạn cũng như ở loanh quanh. Cuối cùng Anderson ngồi xuống bàn giấy viết mấy bức thư giới thiệu Ernest tới vài Mỹ kiều nổi tiếng ông mới gặp gỡ và kết thân, trong đó có Gertrude Stein(1), James Joyce(2), Ezra Pound và Sylvia Beach (3).
Tất cả đều đang hoặc chẳng mấy chốc sẽ thành những người khổng lồ trong lĩnh vực nghệ thuật và chữ nghĩa, nhưng vào lúc ấy chúng tôi không hề hay biết điều này, chỉ biết rằng có được lá thư của Anderson làm danh thiếp là vô cùng quan trọng. Ernest cảm ơn vì mọi điều ông đã làm rồi vội vã về nhà đọc to các bức thư cho tôi nghe, mỗi bức thư đều nói gần như cùng một điều, rằng anh chàng Ernest Hemingway này là một nhà báo còn non kinh nghiệm nhưng rất trẻ trung giỏi giang, “tài năng ngoại hạng” của anh ta sẽ đưa anh ta vượt xa phạm vi báo chí.
Đêm đó trên giường, khi chúng tôi nói chuyện và mơ mộng về Paris, tôi thì thầm vào tai Ernest, “Phải anh là chàng nhà văn trẻ trung giỏi giang mà em vẫn nghe nói không vậy?”
“Chúa ơi, anh mong là vậy.” Anh ôm tôi thật chặt.
Ngày 8 tháng Mười hai năm 1921, khi con tàu Leopoldina khởi hành đi châu Âu, chúng tôi đã ở trên đó. Cuộc sống bên nhau của chúng tôi rốt cuộc cũng bắt đầu. Chúng tôi ôm nhau và nhìn ra biển. Biển mênh mông đến khó tin, tràn ngập vẻ đẹp mà cũng không kém phần hiểm nguy — và chúng tôi muốn có tất cả những điều đó.
Chú thích:
(*) Tiếng Ý trong nguyên bản: cuộc sống tươi đẹp.
(1) Gertrude Stein (1874-1946): nhà văn, nhà sưu tầm tranh người Mỹ song sống chủ yếu ở Pháp. Trong khoảng 40 năm, ngôi nhà của Stein trở thành nơi tụ họp tối thứ Bảy cho các văn nghệ sĩ Mỹ biệt xứ.
2) James Augusta Aloysius Joyce (1882-1941): nhà thơ, nhà văn biệt xứ người Ailen, một trong những nhà văn ảnh hưởng lớn đến phong trào văn học thể nghiệm hiện đại đầu thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulysses.
3) Sylvia Beach (1887-1962): người sáng lập hiệu sách nổi tiếng Shakespeare and Company, một trong những Mỹ kiều có uy tín ở Paris giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến.