MƯỜI HAI
Căn hộ đầu tiên ở Paris của chúng tôi tọa lạc tại số 74 Cardinal Lemoine, hai gian phòng hình thù kỳ cục trên tầng bốn tòa nhà cạnh một sàn khiêu vũ công cộng, một bal musette (*), nơi vào bất cứ thời gian nào trong ngày ta cũng có thể mua vé để lướt quanh sàn nhảy trong khi cây phong cầm réo rắt một giai điệu tươi vui. Anderson đã gợi ý Montparnasse, nhưng chúng tôi không đủ tiền sống ở đó, hay ở bất cứ khu vực thời thượng nào khác. Đây là khu cũ của Paris, Arrondissement 5 (**), cách xa những quán cà phê và nhà hàng tốt, nhung nhúc không phải du khách mà là tầng lớp lao động Paris với xe đẩy, dê, giỏ trái cây và những bàn tay xòe rộng xin ăn. Quá nhiều người chồng và người con trai đã mất trong cuộc chiến, còn lại đây chủ yếu là đàn bà, trẻ em và ông già, một chuyện khiến ta nản lòng cũng như bất kỳ điều nào khác ở nơi đây. Con phố lát sỏi dốc lên ngoằn ngoèo kéo dài từ sông Seine gần Pont Sully (***) và kết thúc ở Place de la Contrescarpe, một quảng trường bốc mùi những tên bợm đổ ra từ các quán rượu hoặc ngủ vạ vật trên các ngưỡng cửa. Ta sẽ thấy một đụn giẻ rách khổng lồ, thế rồi đụn giẻ ấy động đậy, và ta nhận ra đó là một gã tội nghiệp nào đó đang ngủ cho qua cơn váng vất. Ngược xuôi các con phố hẹp quanh quảng trường, những người bán than dạo vừa vác những bao tải bẩn thỉu đầy than viên tròn vừa ngân nga rao. Ernest yêu nơi này ngay từ cái nhìn đầu tiên; tôi thì nhớ nhà và thất vọng.
Căn hộ được trang bị sẵn đồ đạc, với một bộ bàn ăn bằng gỗ sồi xấu xí và một cái giường khổng lồ giả gỗ dái ngựa trang trí lớp mạ vàng. Đệm thì tốt, vì đệm luôn tốt ở Pháp, một nơi mà có vẻ như ai ai cũng làm mọi việc trên giường — ăn uống, làm việc, ngủ nghê, và làm tình nhiều vô kể. Cái đó hợp với chúng tôi, còn thì gần như chẳng thứ nào khác trong căn hộ được như thế, có lẽ ngoại trừ cái bệ đen xinh xắn phía trên lò sưởi phòng ngủ.
Ngay lập tức chúng tôi bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc, chuyển bàn ăn vào phòng ngủ rồi đưa một cây piano tủ đi thuê vào phòng ăn. Xong xuôi, Ernest ngồi xuống bàn và bắt đầu viết thư cho gia đình anh, họ đang rất nóng lòng ngóng tin chúng tôi, trong lúc tôi dỡ đồ sứ hôm đám cưới và vài thứ đẹp đẽ chúng tôi mang theo, chẳng hạn bộ ấm tách xinh xắn quà của Fonnie và Roland, với họa tiết lá và hoa hồng màu cam đỏ. Ôm chiếc ấm tròn trong tay tính xem có thể đặt nó ở đâu trong căn bếp nhỏ xíu kiểu Trung cổ này, đột nhiên trong tôi nhói lên nỗi nhớ nhà đến phát khóc. Không hẳn là nhớ St. Louis, mà đó là một ý niệm mơ hồ hơn và lớn hơn về nơi được gọi là nhà — với những thứ và những người tôi biết và yêu mến. Tôi nghĩ về hiên trước rộng rãi trong ngôi nhà của gia đình tôi ở Cabanné Place, nơi chúng tôi sống đến sau khi cha tôi tự vẫn: cái xích đu cứ kêu cót két khi tôi nằm lên, đầu đặt trên gối, mắt dán vào trần hiên lát ván đánh véc ni thẳng thớm đến hoàn hảo. Trong có vài phút mà tôi đã đẫm nước mắt vì nhớ nhung đến nỗi tôi phải đặt cái ấm xuống.
“Tiếng thút thít ấy là từ Mèo Con Lông Vũ của anh đấy ư?” Ernest nói vọng ra từ phòng ngủ.
“Em e là thế đấy,” tôi nói. Tôi đi đến bên anh, vòng tay quanh cổ anh và áp khuôn mặt đẫm nước của mình vào cổ áo anh.
“Con mèo mít ướt tội nghiệp,” anh nói. “Anh cũng cảm thấy như vậy đấy.”
Cái bàn được kê sát vào một khung cửa sổ hẹp, từ đó chúng tôi có thể thấy mặt xù xì của các tòa nhà và cửa hiệu hàng xóm, ngoài ra chẳng còn mấy thứ gì khác. Còn năm ngày nữa là đến Giáng sinh.
“Hồi em còn nhỏ mẹ em vẫn chăng cành lá làm dây trang trí dọc theo các ô cửa kính đỏ trong phòng khách. Trong ánh nắng hay ánh nến, mọi thứ đều tỏa sáng. Đấy chính là Giáng sinh.”
“Mình đừng nói chuyện đó nữa,” anh bảo, rồi đứng lên để ôm tôi. Anh vùi đầu tôi vào ngực anh, ở nơi anh biết là tôi sẽ cảm thấy an toàn nhất. Qua ván sàn và những bức tường, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng phong cầm từ sàn nhảy, và chúng tôi bắt đầu khiêu vũ theo tiếng nhạc, đu đưa nhè nhẹ.
“Chúng ta sẽ ổn định cuộc sống thôi,” anh nói. “Rồi em sẽ thấy.”
Tôi gật gật đầu vào ngực anh.
“Có lẽ giờ mình nên ra ngoài mua sắm đồ Giáng sinh cái nhỉ. Thế sẽ làm mèo vui lên.”
Tôi lại gật, và hai đứa ra ngoài để đi mua sắm. Ở chiếu nghỉ cầu thang mỗi tầng trong tòa nhà đều có một chậu rửa và một nhà vệ sinh công cộng nơi ta phải đứng trên hai bàn đạp mà sử dụng. Cái mùi mới thật là khủng khiếp.
“Thật mọi rợ,” tôi nói. “Phải có một hệ thống tốt hơn chứ.”
“Còn hơn là phải tè ra ngoài cửa sổ, anh nghĩ thế,” anh nói.
Ra phố, chúng tôi rẽ trái để xuống đồi và dừng lại để ngó qua cửa sàn khiêu vũ, trong đó hai gã thủy thủ đang lắc lư đầy vẻ tục tĩu với hai cô nàng, cả hai nàng đều gầy nhang đến phát thương và bôi son trát phấn dày cộp. Phía trên những thân hình ấy, những dây đèn lồng nhôm hắt những cái bóng nháng bạc khiến căn phòng như đang bơi bơi và quay cuồng đến phát buồn nôn.
“Trong đó hơi giống một lễ carnival nhỉ,” tôi nhận xét.
“Anh hình dung nó sẽ đẹp đẽ hơn khi em say đấy,” anh nói, và chúng tôi nhanh chóng đồng ý rằng mọi thứ đều vui hơn khi chúng tôi tự chuốc cho mình say.
Vẫn chưa đi đến hết phố, nhưng chúng tôi rẽ vào một con đường quanh co đâm về hướng sông Seine, qua tòa nhà Sorbonne và rạp Odéon, cho đến khi chúng tôi tìm thấy Pré aux Clercs, một quán cà phê trông có vẻ hứa hẹn trên rue (4) des Saints Pères. Chúng tôi bước vào, chọn một bàn gần vài sinh viên y khoa người Anh đang nói chuyện chán ngắt về tác động của chất cồn lên gan. Có vẻ như họ vừa mới tiếp xúc với tử thi.“Các cậu có thể lấy lá gan của tôi khi tôi xong việc với nó,” Ernest trêu họ. “Nhưng không phải tối nay đâu nhé.”
Lúc chúng tôi rời Mỹ thì luật cấm rượu đang vào lúc gắt gao nhất, và cho dẫu chúng tôi chưa bao giờ ngừng uống — ai mà ngừng chứ? — thì cũng thật là nhẹ cả người khi có thể thoải mái mua và thưởng thức đồ uống có cồn. Chúng tôi gọi Pernod, khi thêm nước và đường vào trông nó xanh xanh ghê ghê, và cố tập trung vào uống thứ nước đó thay vì ăn bữa tối — món coq au vin (5) với những mẩu cà rốt xam xám lềnh bềnh trong nước dùng.
“Giáng sinh mà ở xa nhà thế này cảm giác sao sao ấy. Lẽ ra chúng mình nên có một cái cây tử tế rồi dây trang trí và một con gà tây béo quay trong lò,” tôi nói.
“Cũng có thể,” anh nói. “Nhưng thay vào đó mình đã có Paris. Đó là điều chúng mình muốn còn gì.”
“Vâng,” tôi đáp. “Nhưng một ngày nào đó mình sẽ trở về nhà chứ, phải không anh?”
“Dĩ nhiên là mình sẽ về rồi,” anh nói, nhưng không hiểu điều gì đã làm mắt anh tối sầm lại — vì hồi tưởng hay vì lo lắng. “Trước tiên mình phải tìm cách sống được ở đây đã. Em nghĩ chúng mình có làm được không?”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói dối.
Ngoài cửa sổ quán cà phê, phố xá tối om và thứ duy nhất đi qua là một con ngựa kéo cỗ xe thùng đầy nước cống, bánh xe hắt những cái bóng đan dệt lấy nhau.
Anh ra hiệu cho bồi bàn đến để gọi thêm hai ly Pernod nữa, và chúng tôi bắt đầu uống cho ra uống. Đến lúc quán đóng cửa thì cả hai đã say bí tỉ đến mức phải vịn lấy nhau để giữ thăng bằng khi bước đi. Lên đồi thì rõ là khó hơn xuống đồi nhiều, nhất là trong tình trạng của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn tìm cách đi được dù chậm rề rề, đôi lúc dừng lại nghỉ ở cửa nhà người ta, thi thoảng lại trao nhau một nụ hôn ướt át. Đây là chuyện ta có thể làm ở Paris mà không thu hút nhiều chú ý.
Ở nhà, cả hai đều lần lượt nôn thốc vào cái bô. Sàn nhảy vẫn huyên náo đầy những kẻ say khi chúng tôi đi ngủ; tiếng phong cầm đã vống lên đến một độ cao phát sốt. Chúng tôi dụi trán vào nhau, ướt đầm và ghê tởm, cố mở mắt để thế giới không quá quay cuồng đảo điên. Và ngay khi chúng tôi đang dần thiếp vào giấc ngủ, tôi nói, “Chúng mình sẽ nhớ điều này. Rồi có ngày chúng mình sẽ nói tiếng phong cầm này chính là âm thanh năm đầu tiên của chúng mình ở Paris.”
“Tiếng phong cầm, tiếng đĩ điếm và tiếng nôn ọe,” anh nói. “Đó là âm nhạc của bọn mình.”
Phần lớn tháng Giêng trời mưa, và khi đợt mưa qua đi, mùa đông Paris ập đến rét buốt và rõ ràng. Ernest từng tin rằng anh có thể viết ở bất cứ đâu, nhưng sau vài tuần làm việc trong căn hộ tù túng mà luôn ý thức được là có tôi ở đấy, anh đi tìm thuê một căn phòng đơn, rất gần thôi, trên rue Descartes. Với 60 quan một tháng, anh có một căn gác xép không to hơn cái nhà xí là bao, nhưng hoàn hảo với nhu cầu của anh. Anh không muốn bị phân tán tư tưởng, và ở đó anh không bị xao nhãng. Bàn làm việc của anh nhìn ra những mái nhà và ống khói không được đẹp đẽ cho lắm của Paris. Trời rét, nhưng cái rét lại có thể khiến ta tập trung, và có một lò than nhỏ để anh đốt những bó cành con sưởi ấm đôi tay.
Chúng tôi dần đi vào một nếp sinh hoạt đều đặn, cùng nhau thức dậy mỗi sáng và đánh răng rửa mặt mà không nói năng câu nào, vì lúc ấy công việc đã bắt đầu xâm chiếm tâm trí anh rồi. Sau bữa sáng, anh sẽ đi ra ngoài trong chiếc áo khoác sờn rách và đôi giày thể thao thủng gót. Anh đi bộ tới phòng mình và cả ngày vật lộn với câu chữ. Khi trời quá lạnh không làm việc được hoặc khi suy nghĩ của anh trở nên quá u ám, anh sẽ đi dạo hàng giờ dài dằng dặc trên phố hoặc dọc theo những lối nhỏ khá ngăn nắp của vườn hoa Luxembourg. Dọc đại lộ Montparnasse có một chuỗi các quán cà phê — quán Dôme, quán Rotonde, quán Select — nơi những nghệ sĩ xa xứ ngồi làm dáng, nói chuyện vớ vẩn và uống đến khi nôn ọe. Ernest thấy ghê tởm bọn họ.
“Tại sao tất cả những người ta gặp đều xưng là nghệ sĩ chứ? Một nghệ sĩ đích thực không cần nổ về điều đó, anh ta không có thời gian. Anh ta làm việc của mình và đổ mồ hôi sôi nước mắt mà không nói một lời, và không một ai có thể giúp anh ta sất.”
Dĩ nhiên tôi có thể hiểu tại sao cả ngày vất vưởng quán xá thì không phải là công việc, nhưng tôi cũng băn khoăn không biết liệu có phải ai cũng nghiêm túc và cứng nhắc với nghề như Ernest không. Tôi hình dung có nhiều nhà văn khác làm việc ở nhà riêng và có thể chịu đựng được cuộc đối thoại ở bàn ăn sáng, chẳng hạn thế. Những nhà văn có thể ngủ trọn đêm, bất cứ đêm nào, mà không lo lo lắng lắng, không đi đi lại lại, không sột soạt ngòi bút trên cuốn sổ trong lúc một ngọn nến duy nhất nghi ngút khói và lay động. Cả ngày tôi nhớ sự bầu bạn của anh, nhưng dường như anh không nhớ tôi, nhất là khi đang có việc để làm. Khi thèm giao tiếp, anh ghé qua thăm các bức tranh của Cézanne và Monet ở Musée du Luxembourg, tin rằng chúng đã làm xong điều mà anh đang cố gắng để đạt được — chưng cất nơi chốn, con người và đồ vật đến độ thực chất nhất. Sông trong tranh Cézanne màu nâu đặc quánh và vì thế mà hiện thực hơn. Đó chính là điều Ernest theo đuổi — và đôi khi quá trình thực hiện diễn ra chậm chạp đến đau đớn. Nhiều hôm anh về nhà trông kiệt quệ, chán nản, như thể cả ngày qua anh đã phải vật lộn với hàng bao tải than chứ không phải với chỉ một câu riêng biệt. Khi Ernest làm việc, tôi trông nom nhà cửa, dọn giường, quét dọn lau chùi và rửa bát đĩa của bữa sáng. Cuối buổi sáng, tôi xách làn ra phố mua đồ, cố tìm những món đồ với giá hời nhất. Mặc dù ở tận hữu ngạn sông Seine và chẳng gần nhà chúng tôi chút nào, tôi vẫn hay đi bộ tới Les Halles, khu chợ ngoài trời vẫn được biết đến như cái dạ dày của Paris. Tôi yêu mê cung những quầy hàng bán những thứ lạ lùng hơn bất cứ thứ gì tôi từng thấy ở quê nhà. Có đủ loại thịt thú rừng, hươu nai và lợn lòi và hàng đống thỏ rừng mềm oặt què quặt chất thành hình kim tự tháp. Mọi thứ có thế nào thì bày ra thế ấy, móng guốc và sừng và lông thú được để nguyên vẹn để ta biết ngay mình đang nhìn vào cái gì. Dẫu có lúng túng khi biết những sinh vật này chỉ mới đây thôi vẫn còn thỏa sức chạy trên những cánh đồng và trang trại gần đó, nhưng có một cái gì đó gần như là vẻ đẹp trong sự dồi dào đa dạng của những thứ được bày bán, tất cả đều ăn được ở dạng nhất định. Tôi gần như chẳng biết phải làm gì với phần lớn những thứ ấy — gà lôi và ngỗng còn nguyên lông, hay những giỏ nhốt đầy loài chim nhỏ màu nâu xám mà thậm chí tôi còn chẳng biết tên — nhưng tôi thích nhìn ngắm chúng trước khi bị hút về phía các quầy rau quả. Tôi luôn nán lại lâu hơn mức cần thiết, vừa đi vừa chiêm ngưỡng các giạ tỏi tây và củ cải vàng, cam, quả vả và táo vỏ dày.
Nhưng trong các hẻm nhỏ sau khu chợ, hoa quả thịt thà thối rữa trong các thùng gỗ. Chuột bò lổm ngổm; đám bồ câu bu lại và mổ nhau đầy vẻ hung dữ, để lại tung tóe lông vũ và chấy rận. Đây mới là hiện thực, và mặc dù sống với Ernest đem lại cho tôi sức chịu đựng hiện thực mạnh hơn bao giờ hết thì cảnh tượng này vẫn làm tôi phát buồn nôn. Cảm giác giống như nhìn xuống rãnh nước khu Place de la Contrescarpe, màu nhuộm từ gánh hàng hoa rong chảy tràn: sự tốt tươi giả tạo ngắn ngủi và vẻ xấu xí ẩn bên dưới. Ernest đã nói gì hồi còn ở Chicago nhỉ? Tình yêu là một kẻ nói dối đẹp đẽ? Vẻ đẹp cũng là một kẻ nói dối. Lần đầu thấy lũ chuột cống, tôi đã muốn đánh rơi cái làn tại trận rồi bỏ chạy, nhưng chúng tôi không giàu có gì để mà bày những trò điệu bộ như vậy. Nên tôi bước tiếp.
Từ những con hẻm bỏ hoang tỏa ra từ chợ Les Halles, tôi đi bộ tới sông Seine. Ven cầu Pont Neuf, bến cảng thô nháp và sinh động. Một cơn gió lạnh buốt luồn qua áo khoác mỏng của tôi, nhưng ngay bên kia là Ile St. Louis (6) với những ngôi nhà được bảo tồn tuyệt đẹp và những con phố duyên dáng khiến nơi đây trở thành một ốc đảo. Tôi đi hết một dọc hòn đảo đến khi tìm thấy một công viên ở đầu mỏm phủ đầy những cây dẻ trơ trụi, rồi theo một dãy bậc thang nhỏ xuống bên dòng sông. Mấy người đi câu đang căng cần câu cá goujon (7) và rán chúng ngay tại trận. Tôi mua một vốc bọc trong giấy báo rồi ngồi trên bờ tường ngắm xà lan qua lại dưới gầm Pont Sully. Miếng cá giòn tan dưới một lớp áo muối thô trắng như tuyết, tỏa một mùi thơm quá đỗi giản đơn và ngon lành đến nỗi tôi tưởng như nó có thể cứu rỗi đời mình. Chỉ một chút thôi. Chỉ trong khoảnh khắc ấy.
Chú thích:
* Kiểu sàn nhảy, đồng thời là một điệu nhạc và điệu khiêu vũ theo tiếng nhạc phong cầm thịnh hành ở Pháp vào những năm 1880.
** Quận 5.
*** Cầu Sully.
(4) Đường, phố (tiếng Pháp trong nguyên bản).
(5) Món gà om rượu kiểu Pháp.
[6] Đảo St. Louis, một trong hai hòn đảo tự nhiên trên sông Seine đoạn chảy quatrung tâm Paris.
[7] Cá đục.