← Quay lại trang sách

MƯỜI BA

“Ở đây đẹp quá đến mức làm ta đau lòng,” Ernest nói vậy một buổi tối nọ khi chúng tôi đi bộ ra quán cà phê quen ở rue des Saint-Pères để ăn một buổi tối. “Em có thấy yêu nơi này không?”

Tôi không, vẫn chưa — nhưng tôi kinh ngạc vì nó. Hồi ấy đi dạo trên những con phố đẹp nhất Paris cũng giống như thể cánh cửa che rèm của một rạp xiếc kỳ quái đang rộng mở cho ta tha hồ xem những thứ lạ lùng và lấp lánh vào bất cứ giờ nào. Sau thời kỳ khắc khổ miễn cưỡng thời chiến, khi ngành dệt may sụp đổ và những thợ may tài ba đóng đinh lên cửa, giờ đây lụa là rực rỡ sắc màu chảy tràn như nước khắp đường phố Paris — màu xanh lam Ba Tư và xanh lục, màu vàng cam và vàng kim chói lóa. Lấy cảm hứng từ phong cách phương Đông của đoàn Ballets Russes(*), Paul Poiret cho phụ nữ diện quần ống rộng, đội khăn quấn tua diềm và đeo hàng chuỗi hàng chuỗi ngọc trai. Trái ngược hẳn, Chanel cũng bắt đầu tạo dấu ấn, và ta thoáng thấy những màu đen hình học sắc nét vụt qua giữa tất cả những sắc màu kia. Chưa hết, chic (**) đồng nghĩa với một mái tóc cắt ngắn ngủn, móng tay sơn màu đậm và đốt thuốc lá bằng ngà dài đến khó tin. Nó cũng đồng nghĩa với gầy giơ xương và trông như chết đói — nhưng không phải ở tôi. Kể cả khi đói tôi cũng chẳng bao giờ mất đi khuôn mặt tròn và hai cánh tay mũm mĩm. Với lại tôi cũng chẳng mấy bận tâm đến y phục để mà nghĩ xem cái gì hợp với mình. Tôi mặc thứ gì thuận tiện và đòi hỏi ít sự giữ gìn nhất, váy len dài, áo len dáng suông và mũ chụp len. Có vẻ như Ernest chẳng bận tâm. Nếu có thì anh cũng nghĩ đám phụ nữ phục sức đỏm dáng thật lố bịch. Đó là một phần trong cái cung cách luôn thích những thứ giản dị của anh — thức ăn ngon và đơn giản, rượu mộc mạc và hơi quánh, những người quê mùa với ngôn ngữ và tính cách không phức tạp.

“Anh muốn viết một câu văn chân thực,” anh nói.

“Chỉ cần mỗi ngày viết được một câu văn, đơn giản và chân thực, là anh đã thấy thỏa mãn rồi.”

Anh vẫn miệt mài làm việc từ khi chúng tôi tới Paris, viết nốt câu chuyện tên là “Trên mạn Michigan” anh bắt đầu trong kỳ trăng mật của chúng tôi ở Windemere. Truyện kể về một anh thợ rèn gặp gỡ một cô hầu gái ở vịnh Horton và cả hai khám phá sự hấp dẫn giới tính của nhau. Anh đã đọc vài đoạn cho tôi nghe, ngay từ đầu, khi anh mô tả thị trấn, những căn nhà, cái hồ và con đường rải cát, cố giữ mọi thứ đơn giản, nguyên vẹn và hệt như anh đã nhớ, và tôi không thể không kinh ngạc trước sự chân thực và sống động ấy.

Tham vọng đối với việc viết lách của anh dữ dội và cực kỳ hoàn thiện. Anh đối xử với nghề viết như người ta đối xử với tôn giáo — ấy thế nhưng anh vẫn lưỡng lự chưa đưa những bức thư giới thiệu của Sherwood Anderson cho bất cứ Mỹ kiều nổi tiếng nào. Tôi đoán anh sợ họ sẽ thẳng thừng từ chối anh. Anh thấy thoải mái hơn khi đánh bạn với tầng lớp lao động ở Paris. Tiếng Pháp của tôi là thứ ngôn ngữ cứng nhắc học trong trường, nhưng tiếng Pháp của anh thì lại được cóp nhặt chỗ này chỗ kia trong chiến tranh, lối nói thông dụng thô nháp và lộn nhộn phù hợp với những cuộc nói chuyện khơi mào nơi góc phố với các bà bếp, anh phu và thợ máy xưởng sửa xe. Quanh họ anh có thể là chính mình mà không cảm thấy cần phải phòng vệ.

Tuy nhiên, đêm hôm ấy, sau bữa tối, chúng tôi sửa soạn đi gặp Lewis Galantière, một người bạn văn của Sherwood. Lewis có gốc gác Chicago và giờ làm việc cho Phòng Thương mại Quốc tế. Anh ta nổi tiếng là có gu tuyệt vời, và Ernest cuối cùng cũng gặp anh ta tại căn hộ của anh ta trên rue Jean-Goujon, đó là một nơi đầy đồ cổ trông đắt tiền và đồ đạc chạm trổ mà khi về nhà anh mô tả chi tiết với tôi. “Tất cả bàn ghế đều có chân thon mảnh dẻ. Hơi cảnh vẻ so với sở thích của anh, nhưng em có thể hình dung ra phong cách của anh ta rồi đấy.”

Tôi rất lo lắng về cuộc gặp gỡ với Galantière vì tôi còn xa mới được coi là thanh lịch và chẳng cảm thấy mình thuộc về Paris chút nào. Nếu phụ nữ Paris là công thì tôi chỉ là một con gà mái vườn thôi. Mới đây tôi đã đầu hàng trước áp lực và cắt tóc ngắn kiểu bob — có khi tôi là người phụ nữ Mỹ cuối cùng làm thế cũng nên — và ghét cay ghét đắng nó. Nó khiến tôi trông giống một cậu trai mặt to tròn như quả táo, và dẫu Ernest bảo anh thích vẻ ngoài mới này, tôi vẫn chỉ muốn khóc mỗi khi thoáng thấy bóng mình trong gương. Có thể kiểu tóc cũ lỗi mốt và cổ như từ thời Victoria nhưng nó vẫn là tóc của tôi — chính tôi. Giờ thì tôi đã thành cái gì?

Lewis đề nghị chiêu đãi chúng tôi ăn tối tại Michaud, một nhà hàng thời thượng mà tôi mới chỉ dừng lại để nhòm qua cửa sổ. Khi chúng tôi đến nơi, tôi dừng lại nơi ngưỡng cửa và tuyệt vọng xem xét lại bộ đồ đang mặc đến độ hơi thái quá, nhưng có vẻ như Ernest chẳng biết gì đến cơn bồn chồn của tôi. Anh nắm chặt lấy khuỷu tay tôi và đẩy tôi thật nhẹ mà dứt khoát về phía Lewis, miệng nói,“Cô gái thông minh cừ khôi mà tôi vẫn kể lể với anh đây.”

“Hadley. Thật vui và vinh hạnh cho tôi quá,” Lewis nói trong khi tôi đỏ mặt tía tai. Tôi vẫn thấy ngượng ngùng, nhưng tôi vui khi biết rằng Ernest tự hào về mình.

Lewis hai mươi sáu tuổi, ngăm ngăm đen, mảnh dẻ và vô cùng quyến rũ. Anh ta làm trò nhại các nhân vật nổi tiếng rất buồn cười, nhưng khi thực hiện màn nhại James Joyce được coi là hay nhất thì anh ta phải giải thích cho chúng tôi. Chúng tôi đã thoáng thấy Joyce vài lần trên mấy con phố khu Montparnasse, tóc chải gọn gàng, đeo kính không gọng và mặc áo khoác suông, nhưng chúng tôi chưa từng nghe thấy anh ta nói bao giờ.

“Anh ta có nói chứ,” Lewis khẳng định, “nhưng chỉ khi phải chịu vài áp lực thôi. Anh ta có đến vài trăm đứa con cơ đấy, nghe kể thế.”“Tôi mới thấy hai đứa con gái,” tôi nói.

“Hai hay là hai trăm, ở Paris thì cũng như nhau cả, không phải sao? Anh ta gần như chẳng đủ khả năng nuôi ăn chúng, người ta đồn vậy, nhưng nếu hai bạn đến Michaud đây vào đúng phóc năm giờ bất cứ tối nào trong tuần, hai bạn có thể thấy cả lũ con anh ta đang xực hàng xô hàu.”

“Ai cũng nói Ulysses rất tuyệt,” Ernest nói. “Tôi đã đọc vài chương xuất bản theo kỳ trên báo. Không phải thứ văn tôi quen, nhưng anh biết đấy, dù sao thì vẫn có gì đó quan trọng diễn ra trong ấy.”

“Nó quá ư xuất sắc,” Lewis nói. “Joyce sẽ thay đổi mọi thứ nếu ta tin lời Pound. Hai bạn đã qua thăm xưởng sáng tác của Pound chưa?”“Sắp rồi,” Ernest đáp, dù anh cũng vẫn chưa gửi lá thư giới thiệu đó đi.“Trời ạ, hai bạn phải đi đi thôi. Không phải ai cũng chịu nổi Pound, nhưng gặp anh ta là điều bắt buộc đấy.”

“Pound có gì khó khăn à?” tôi hỏi.

“Chính bản thân anh ta, thực ra là vậy.” Lewis phá lên cười. “Rồi các bạn sẽ thấy. Nếu Joyce là vị giáo sư rất kiệm lời với cái áo khoác tồi tàn và cây ba toong, thì Pound là con quỷ, tự mãn và gần như phát cuồng khi nói về sách vở nghệ thuật.”

“Tôi đã gặp con quỷ rồi,” Ernest nói, đoạn uống cạn ly vang của mình, “và anh ta chẳng quan tâm chút xíu gì đến nghệ thuật.”

Đến cuối buổi tối thì cả lũ đã say xỉn và cùng về căn hộ của chúng tôi, ở đó Ernest cố thuyết phục Lewis chơi đấm bốc với anh. “Nửa hiệp thôi, chỉ để cho vui ấy mà,” anh dỗ ngọt rồi cởi áo ra để trần.

“Tôi chưa bao giờ là kiểu người đánh đấm,” Lewis nói, đoạn thối lui — nhưng sau vài ly cocktail nữa thì cuối cùng anh ta cũng chấp thuận. Lẽ ra tôi nên làm gì đó để cảnh báo anh ta rằng dù Ernest có nói gì thì thể thao cũng chưa bao giờ là một chuyện để cho vui đối với anh. Tôi đã thấy ánh mắt anh ở Chicago, khi anh gần như đè ngửa Don Wright ra sàn nhà Kenley. Trận đấu này cũng diễn biến y hệt đến từng chữ cái. Trong vài phút đầu tiên, đó mới chỉ như một bộ phim hoạt hình khá dễ chịu, với hai gã đàn ông vào vị trí, khuỵu gối, dứ nắm đấm ra và thu mình lại. Trông là thấy rõ Lewis không khỏe mạnh gì cho cam, thành thử tôi tưởng Ernest sẽ bỏ cuộc thôi, nhưng rồi, không hề có một hành động khiêu khích nào, từ một bên vai anh tung ra một cú đấm mạnh vào chính giữa.

Nắm đấm của anh hạ xuống như trời giáng. Đầu Lewis ngửa ra sau rồi bật trở lại đằng trước, kính văng vào một góc. Kính vỡ tan, còn mặt anh ta thì xuất hiện vài vết thương.

Tôi chạy tới giúp anh ta hồi lại, nhưng thấy anh ta đang cười ha hả. Ernest cũng bắt đầu cười phá lên — rốt cuộc mọi chuyện cũng ổn thỏa. Nhưng tôi vẫn không thể không nghĩ suýt chút nữa chúng tôi đã mất người bạn duy nhất ở Paris thế nào.

Chính Lewis đã góp phần khuyến khích để Ernest đủ can đảm gửi nốt đám thư giới thiệu còn lại, và chẳng bao lâu một lời mời đã đến từ Ezra Pound. Ở Mỹ Pound vẫn chưa nổi mấy, trừ phi bạn biết đôi chút về thơ ca và đọc các tạp chí văn học như Dial hay Little Review, nhưng ở Paris thì anh ta nổi như cồn với tư cách một nhà thơ và nhà phê bình đang giúp cách mạng hóa nghệ thuật hiện đại. Tôi chẳng mảy may hay biết hiện đại là thế nào — tôi vẫn đọc Henry James cổ lỗ sĩ, như Ernest hay nhắc cho tôi nhớ — nhưng Lewis đã nói những điều hết sức tốt đẹp về cô vợ người Anh của Pound, Dorothy. Tôi rất muốn kết thêm bạn mới nên vui vẻ đi cùng khi Pound mời Ernest tới dùng bữa trà.

Dorothy đón chúng tôi ở cửa rồi dẫn chúng tôi vào xưởng sáng tác, một căn phòng thoáng gió rộng thênh thang đầy những bức tranh Nhật Bản, cuộn giấy và rải rác những chồng sách hình kim tự tháp. Cô ấy rất đẹp, với cái trán cao xinh xắn và làn da như búp bê sứ. Bàn tay cô xanh tái với những ngón búp măng tuyệt đẹp, và cô nói bằng giọng thì thào trong lúc chúng tôi đi tới chỗ Pound ngồi trên một chiếc ghế bọc gấm Damask, vây xung quanh nào là các giá chất ngất những tập sách phủ bụi và tách trà ố vàng, nào là kệ đặt giấy cùng những bức tượng nhỏ trông rất lạ kỳ.

“Ra là cô tóc đỏ,” Pound nói với tôi khi Dorothy đã giới thiệu xong.

“Ông cũng thế. Đó có phải là điềm lành không?”

“Không ai thù dai bằng người tóc đỏ đâu,” ông ta nói cộc lốc, rồi với vẻ không thể nghiêm trọng hơn, quay qua Ernest. “Hãy nhớ điều đó, cậu chàng Hemingway trẻ tuổi ạ.”

“Vâng, thưa ngài,” Ernest đáp lại như một học sinh ngoan.

Ernest đúng là học sinh của Pound, từ giây phút đầu tiên mắt họ chạm nhau. Pound có thể định vị rõ một người khao khát hiểu biết và gia ơn cho Ernest bằng cách nói không ngừng nghỉ trong khi Dorothy dẫn tôi qua một góc khác của xưởng sáng tác, cách xa cánh đàn ông. Dưới khung cửa sổ dài ngập nắng, cô rót trà cho tôi rồi kể tôi nghe về dòng dõi nổi tiếng của mình.

“Họ của tôi là Shakespear, nhưng không có chữ e ở cuối. Cha tôi là hậu duệ của chính con người vĩ đại ấy.”

“Sao lại không có chữ e?”

“Thực lòng tôi cũng chẳng biết. Nghe thế có cảm giác tự do phóng túng hơn thì phải. Nói vậy không có nghĩa tôi cần giúp đỡ về khoản ấy đâu nhé. Có một dạo mẹ tôi hơi tai tiếng vì là nhân tình của William Butler Yeats (***). Tôi đã gặp Ezra như thế đó, khi anh ấy là trợ lý của Yeats. Tôi nghĩ với lai lịch như thế lẽ ra mình phải là thi sĩ mới đúng, nhưng thay vì thế tôi lại đi cưới một nhà thơ.”

“Hồi đi học chúng tôi cũng đọc một chút thơ Yeats, điểm xuyết vào cùng với thơ Robert Browning và Oliver Wendell Holmes. Ernest đã cho tôi xem bài “Lần Giáng thế thứ hai” trong một tạp chí. Cả hai chúng tôi đều kinh ngạc trước bài thơ ấy.”

'‘Những người ưu việt thì thiếu niềm tin, còn những kẻ kém cỏi lại cuồng nhiệt,”(4) cô nói. Rồi lại thêm, “Không hiểu chú Willy sẽ cảm thấy thế nào về cái sự cuồng nhiệt xung quanh đây.”

Ở góc râm của xưởng sáng tác, Ernest chính xác là đang cúi rạp nơi chân Pound trong lúc người đàn ông lớn tuổi hơn kia vừa thuyết giảng vừa vung vẩy ấm trà. Trong lúc đó mái tóc màu đỏ cam của ông ta càng lúc càng rối bù, và tôi có thể hiểu tại sao Lewis Galantière lại so sánh ông ta với quỷ Satan — không chỉ vì mái tóc và chòm râu dê cứng như thần Satyr, mà còn vì sự dữ dội tự nhiên ở ông ta. Tôi không nghe nổi một từ nào nữa, ông ta cứ thao thao bất tuyệt như dòng dung nham núi lửa, vừa nói vừa liên tục diễn tả bằng cử chỉ và hiếm khi ngồi xuống.

Tôi nghĩ thầm hai con người này thật là một cặp đôi ngộ nghĩnh, Dorothy thì thanh lịch và dè dặt đến thế, trong khi Pound lại quá ư om sòm, nhưng cô bảo ông ta rất quan trọng đối với công việc của cô. Cô là một họa sĩ, và chiều hôm đó, trong lúc chúng tôi trò chuyện, cô cho tôi xem vài bức tranh cô vẽ. Tôi thấy chúng dễ thương, màu sắc và hình khối cũng mềm và mỏng như chính giọng nói và bàn tay Dorothy vậy, nhưng khi tôi bắt đầu hỏi cô mấy câu về chúng thì cô trả lời rất nhanh, “Tranh này không phải để trưng.”

“Ô, chẳng phải chị đang trưng chúng ở đây sao?”

“Chỉ là vô tình thôi,” cô đáp, rồi nở một nụ cười tuyệt đẹp, trông chính cô như đang bước ra từ trong tranh vậy.

Vào cuối chuyến viếng thăm, sau khi nói lời từ biệt, Ernest và tôi đi xuống những bậc thang hẹp ra ngoài phố.

“Em muốn biết tất cả,” tôi lên tiếng.

“Ông ấy rất ồn ào,” Ernest nói. “Nhưng ông ấy có vài ý tưởng hay đấy. Y tưởng lớn, thật lòng mà nói là vậy. Ông ấy muốn phát động phong trào, định dạng nền văn học, thay đổi những cuộc đời.”

“Thế thì chắc ông ta là một người tốt mà mình nên quen biết,” tôi nói. “Nhưng em thấy anh không chọc tức ông ta nhỉ. Anh đã được cảnh báo về người tóc đỏ mà.”

Chúng tôi cười phá lên rồi đi đến quán cà phê gần nhất, ở đó Ernest kể thêm cho tôi nghe trong lúc chúng tôi uống những ly lùn brandy pha nước. “Ông ta có những ý kiến kỳ cục về đầu óc phụ nữ.”

“Sao cơ? Rằng phụ nữ không có chút đầu óc nào chứ gì?”

“Gần gần như thế.”

“Dorothy thì sao? Ông ta thấy thế nào về đầu óc cô ấy chứ?”

“Khó nói lắm — dù vậy ông ấy cũng bảo anh rằng hai bọn họ có giấy phép được có nhân tình.”

“Suy nghĩ mới thẳng thắn làm sao,” tôi nói. “Anh có nghĩ đây là cách vận hành của tất cả các cuộc hôn nhân nghệ sĩ ở Paris không?”

“Anh cũng không chắc.”

“Đó đâu phải là điều ta ép buộc được ai làm theo. Ta phải đồng ý với quan điểm đó nữa, phải không?”

“Em đang cảm thấy thương cô ấy đấy à? Nhỡ cô ấy cũng thích thế thì sao? Biết đâu tất cả là ý tưởng của cô ấy?”

“Cũng có thể, nhưng nhiều khả năng là ngược lại hơn đấy.” Tôi nhấp ly brandy của mình, vừa uống vừa nhìn anh qua vành ly.

“Dù sao thì, ông ấy sẽ gửi vài bài thơ của anh cho Scofield Thayer ở tờ Dial.”

“Không phải là truyện ngắn sao?”

“Anh vẫn chưa có truyện nào đủ khá hết, nhưng Pound nói anh nên viết cho họ vài bài báo về các tạp chí Mỹ.”

“Chà, thế thì tốt quá rồi.”

“Đây hẳn là khởi đầu của một điều gì đó,” Ernest tiếp. “Pound nói ông ấy sẽ dạy anh cách viết nếu anh dạy ông ấy cách đấm bốc.”

“Ô, Chúa giúp chúng ta,” tôi phá lên cười, nói.

Buổi ra mắt quan trọng tiếp theo đến vài tuần sau đó, khi Gertrude Stein mời chúng tôi qua dùng trà. Lạ thay, cuộc gặp gỡ diễn ra theo cách thức rất giống cuộc gặp với Pound và Dorothy. Ở đây cũng có hai cái góc, một cho cánh đàn ông — trong trường hợp này là Ernest và Stein — và một cho cánh đàn bà, không có nhập nhằng gì hết.

Khi chúng tôi đến cửa, một cô hầu gái Pháp tề chỉnh ra đón và đỡ áo khoác cho chúng tôi, rồi dẫn chúng tôi vào phòng — căn phòng ấy, giờ chúng tôi mới biết, là phòng tiếp khách quan trọng bậc nhất thành Paris. Tường phủ toàn tranh của các vị anh hùng trường phái lập thể, trường phái hậu ấn tượng và các trường phái hết sức hiện đại khác - Henri Matisse, André Derain, Paul Gauguin, Juan Gris và Paul Cézanne. Một ví dụ nổi bật là chân dung Stein do Picasso khắc họa, ông nằm trong vòng quen biết của bà đã lâu và thường ghé thăm phòng khách này. Bức tranh vẽ bởi các sắc nâu đậm và xám, khuôn mặt trông như hơi tách khỏi thân hình, nặng nề hơn và hình khối hơn, với đôi mí mắt dày cộp.

Trông bà đâu như độ giữa bốn lăm và năm mươi tuổi, vẻ cổ lỗ hiện lên trên cái váy và khăn choàng tối màu, trên mái tóc cuốn lại thành một búi lớn phía trên mái đầu xinh đẹp. Bà có giọng nói dày như một lớp nhung và đôi mắt nâu ngay lập tức thu nhận tất cả. Sau này, khi có dịp ngồi học với bà, tôi đã vô cùng sững sờ khi nhận ra mắt bà giống mắt Ernest đến nhường nào — sâu thăm thẳm và sắc nâu mờ đục, vừa chỉ trích vừa đón nhận, vừa hiếu kỳ vừa thích thú.

Người bầu bạn với Stein, Alice Toklas, so với bà thì chẳng khác nào một sợi dây căng cứng. Tóc tai da dẻ bà ấy đều sẫm màu, mũi thì khoằm và đôi mắt khiến ta chỉ muốn nhìn đi chỗ khác. Sau vài phút hỏi chuyện chung chung, bà ấy nắm lấy tay tôi và cả hai chúng tôi đi tới “góc dành cho các bà vợ.” Tôi thấy hơi nhói tiếc vì mình chẳng phải văn sĩ hay họa sĩ gì, không phải ai đó đủ đặc biệt để được mời trò chuyện với Gertrude, ngồi gần bà trước lò sưởi như Ernest lúc này và nói về những điều quan trọng. Tôi thích ở cạnh những con người sáng tạo và thú vị, trở thành một phần của những người tài giỏi đó, nhưng ngay lúc này đây tôi lại bị tách vào một góc, bị bà Toklas chất vấn những sự vụ đương thời mà tôi chẳng mảy may hay biết. Tôi thấy mình chẳng khác nào một con đần, và trong suốt quãng thời gian ấy chúng tôi uống hết tách trà này đến tách trà khác, ăn những cái bánh ngọt con con được trang trí rất nghệ thuật. Bà ngồi thêu, những ngón tay chuyển động liên tục và hiệu quả. Bà không bao giờ nhìn xuống và không bao giờ ngừng nói.

Trong khi đó, Ernest đang uống cùng Gertrude một ly rượu, loại rượu gì đó màu sắc đẹp tuyệt vời. Tôi nghĩ ngày hôm ấy, từ một khoảng cách xa, tôi đã hơi hơi yêu bà mất rồi, và cả Ernest cũng vậy. Khi chúng tôi đi bộ về nhà, anh có bao điều muốn nói về gu của bà, tân tiến và hoàn hảo. Anh còn ngưỡng mộ cả bộ ngực của bà nữa.

“Theo em chúng nặng bao nhiêu hả?” anh hỏi. Có vẻ như anh muốn biết thật.

Tôi cười phá lên. “Em thậm chí còn chẳng dám đoán.”

“Họ sống cùng nhau thì thế nào nhỉ? Y anh là, phụ nữ với nhau ấy.”

“Em không biết. Cuộc sống của họ hay thật đấy.”

“Chỉ riêng mấy bức tranh thôi. ơ đó như một cái viện bảo tàng vậy.”

“Thích hơn bảo tàng chứ,” tôi nói. “Có bánh ngọt.”“ eau-de-vie(3) nữa. Dù gì thì cũng rất lạ. Phụ nữ sống cùng nhau.

“Ý anh là sao? Anh không tin rằng họ nhận được cái gì quan trọng từ nhau? Rằng họ yêu nhau? Hay anh không tin vào chuyện tình dục giữa họ?”

“Anh không biết.” Anh xù lông phòng vệ. “Bà ấy nói phụ nữ yêu nhau là điều tự nhiên nhất trên thế giới này, rằng đối với họ, hay là giữa họ với nhau, điều này không có gì xấu xí cả, nhưng đàn ông yêu nhau thì lại là hành động hết sức ghê tởm.”

“Bà ấy nói thế à?”

“Giữa ban ngày ban mặt luôn.”

“Em thấy thật vinh dự khi bà ấy cởi mở như thế với anh.”

“Lần sau anh có nên kể đẫy tai bà ấy về chuyện chăn gối của chúng ta không?”

“Anh sẽ không kể đâu.”

“Anh sẽ không kể.” Anh cười. “Nếu kể có khi bà ấy lại muốn đến xem mất.”

“Anh kinh quá đấy!”

“Đúng, nhưng thế em mới yêu anh mà.”

“Ô, vậy sao?” tôi nói, và anh vỗ mông tôi.

Hai tuần sau, Gertrude và Alice nhận lời mời tới căn hộ tồi tàn của chúng tôi dùng trà. Họ nghĩ gì khi leo lên lối cầu thang tối tăm ọp ẹp, qua chỗ đi tiểu bốc mùi phát khiếp, tôi gần như không dám đoán nữa - ấy thế mà họ vẫn tỏ ra lịch sự và dễ tính, cư xử như thể họ đến khu này của Paris suốt. Họ uống trà chúng tôi mời đựng trong cái ấm sứ quà cưới — ít nhất cái đó còn đẹp đẽ - và ngồi trên chiếc giường gỗ dái ngựa.

Trước đó Gertrude đã đề nghị được xem vài tác phẩm của Ernest, nên giờ bà hỏi xem chúng đâu, bà đọc lướt mấy bài thơ, vài truyện ngắn, một phần cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh Michigan. Y như hồi ở Chicago, khi tôi lần đầu đọc tác phẩm của anh, Ernest đi đi lại lại, mặt mũi co rúm, trông như thể đang rất đau đớn.

“Mấy bài thơ rất hay,” cuối cùng Stein nói. “Đơn giản và khá rõ ràng. Cậu không bộ tịch màu mè chút nào cả.”

“Thế còn tiểu thuyết?”

Tôi thấy anh rất dũng cảm khi hỏi thế, thậm chí khi cho bà xem bản thảo, nó chẳng khác nào người yêu mới của anh. Anh bảo vệ nó đến mức chẳng cho tôi xem dù chỉ một chút xíu.

“Đó không phải kiểu văn phong tôi thích,” cuối cùng bà cũng nói. “Ba câu nói về màu trời. Bầu trời là bầu trời và thế là hết. Câu tường thuật dứt khoát, đó là cái cậu viết tốt nhất. Cứ bám vào đó.”

Khi Stein nói, trong một khoảnh khắc mặt Ernest xìu xuống, nhưng rồi anh bình tĩnh lại. Bà đã nói trúng một điều mà anh mới bắt đầu nhận ra, về sự thẳng thừng, về việc lột trần hoàn toàn ngôn ngữ.

“Khi cậu viết lại từ đầu, hãy chỉ để lại những gì thật sự cần thiết thôi.”

Anh gật đầu, mặt hơi ửng đỏ, và tôi gần như nghe được tiếng tâm trí anh tập trung vào lời khuyên của bà rồi kết hợp với lời Pound. “Cắt bỏ mọi thứ thừa thãi đi,” Pound đã nói thế. “Dấn thân vào nỗi sợ những khái niệm trừu rượng. Đừng bảo độc giả phải nghĩ gì. Hãy để hành động tự thân nó nói lên.”

“Bà nghĩ gì về thuyết biểu tượng của Pound?” anh hỏi bà. “Bà biết đấy, cái lý thuyết rằng diều hâu trước tiên và trước nhất phải là một con diều hâu ấy?”

“Hiển nhiên là thế rồi, phải không?” bà nói. “Diều hâu thì luôn là diều hâu, trừ phi” — đến đây bà nhướng một bên mày rậm và nở một nụ cười bí hiểm — “trừ phi diều hâu là một cây bắp cải.”

“Gì cơ?” Ernest hỏi lại, miệng cười tươi, vẻ mặt tha thiết và rõ ràng rất hoang mang.

“Chính xác là thế đấy,” Gertrude nói.

Chú thích:

(*) Đoàn ba lê lưu động của Nga biểu diễn ở nhiều quốc gia từ 1909 đến 1929,được coi là một trong những đoàn ba lê vĩ đại nhất thế kỷ 20.

(**) Từ gốc Pháp, nghĩa là hợp mốt, sành điệu.

(3) Một loại rượu trái cây không màu trong suốt