← Quay lại trang sách

MƯỜI BỐN

Những tuần tiếp theo, Ernest nghe lời Gertrude vứt bỏ phần lớn cuốn tiểu thuyết để viết lại từ đầu. Trong quãng thời gian này, anh về nhà miệng huýt sáo vang, đói ngấu và háo hức cho tôi xem những gì anh viết được. Những trang bản thảo mới nổ lách tách nguồn năng lượng. Toàn là phiêu lưu, săn bắn, câu cá và làm tình. Tên nhân vật của anh là Nick Adams, anh ta chính là Ernest, chỉ có điều táo bạo hơn và trong sáng hơn — Ernest cũng sẽ như vậy nếu anh làm theo bản năng của mình. Tôi rất thích chất liệu của câu chuyện và biết rằng anh cũng vậy.Trong quãng thời gian ấy, anh đã phát hiện ra hiệu sách Shakespeare and Company nổi tiếng bên tả ngạn của Sylvia Beach và ngạc nhiên khi thấy bà cho anh mượn sách trả tiền sau. Anh về nhà tay trĩu nặng các tập sách của Turgenev và Ovid, Homer, Catullus, Dante, Flaubert và Stendhal. Danh sách dài cần đọc Pound cho anh đã đưa anh trở lại với những bậc thầy ấy, đồng thời cũng chỉ cho anh tiến lên, về phía T. S. Eliot và James Joyce. Ernest là một học sinh giỏi. Anh đọc ngấu đọc nghiến tất cả, xơi tái tám đến mười quyển một lúc, cứ đặt cuốn này xuống lại nhấc cuốn khác lên, những cuốn sách mở gáy rải khắp nhà. Anh còn mượn cả Ba cuộc đời và Những cái nút mỏng mảnh, hai cuốn sách Gertrude xuất bản cho một lượng độc giả rất nhỏ. Có vẻ như phần lớn giới văn chương không biết phải hiểu sự lạ lùng của bà thế nào nữa, và Ernest cũng vậy. Anh đọc to một bài thơ trong tập Những cái nút mỏng mảnh cho tôi nghe: “Bình nước, đó là một cái ly mù. Một loại thủy tinh và một người anh họ, một thứ ngoạn mục mà chẳng có gì lạ một sắc màu đơn lẻ đau thương và một sự sắp đặt trong một hệ thống chỉ trỏ.”

Anh đặt sách xuống, lắc lắc đầu.“Một sắc màu đơn lẻ đau thương” nghe hay đấy, còn lại anh chẳng thẩm thấu được chút nào.”

“Thú vị thật,” tôi nhận xét.

“Phải. Nhưng nó có nghĩa là gì?”

“Em không biết. Có khi nó chẳng có nghĩa là gì hết.”

“Có lẽ vậy,” anh nói, rồi lại nhấc cuốn Turgenev lên.

Lúc này đã là tháng Tư, mùa xuân đầu tiên của chúng tôi ở Paris, mưa bụi giăng nhè nhẹ và ấm áp. Từ khi mới đến đây, Ernest đã bổ sung vào thu nhập nhỏ nhoi của chúng tôi bằng cách viết xã luận cho tờ Toronto Star. Một hôm anh nhận được thông báo từ biên tập viên của mình, John Bone, họ muốn anh đến Genoa dự một cuộc hội thảo kinh tế quốc tế. Họ sẽ trả anh bảy mươi lăm đô một tuần cộng tiền công tác phí, nhưng không có trợ cấp cho vợ đi theo. Tôi sẽ ở lại Paris, lần đầu tiên chúng tôi xa nhau trong bảy tháng hôn nhân.

“Đừng lo Mèo ạ,” anh vừa nói vừa đóng gói cái máy chữ Corona yêu quý. “Em còn chưa kịp nhận ra thì anh đã về rồi ấy chứ.”

Mấy ngày đầu, tôi hưởng thụ nỗi cô đơn của mình. Ernest là một người quá to lớn, nói theo lối ẩn dụ. Anh chiếm hết không khí trong phòng, thu hút lôi kéo mọi người về phía mình, đàn ông, phụ nữ, trẻ con và cả chó. Lần đầu tiên trong nhiều tháng ròng, tôi có thể thức giấc trong yên tĩnh, lắng nghe suy nghĩ của mình và chạy theo cơn bốc đồng của bản thân. Nhưng chẳng bao lâu thì có sự biến đổi. Tôi không biết phải miêu tả thế nào, nhưng sau khi ánh hồng của việc một thân một mình phai nhạt dần, ý thức về sự vắng mặt của Ernest trong tôi trở nên rõ ràng tới mức như thể có một thứ tên là thiếu vắng anh đã dọn vào ở chung nhà với tôi vậy. Bóng anh hiện hữu lúc ăn sáng và lúc đi ngủ. Nó treo lơ lửng trên những tấm rèm phòng ngủ, nơi tiếng phong cầm thúc vào rồi đẩy ra như ống bễ.

Ernest đã gợi ý tôi nên đến hiệu sách của Sylvia để dùng trà, và mặc dù đã đi một lần thật nhưng tôi không thể không nghĩ bà ấy chỉ nói chuyện với tôi cho phải phép. Bà ấy thích nhà văn và họa sĩ, mà tôi thì chẳng phải cả hai. Tôi đến ăn tối chỗ Gertrude và Alice, và cho dẫu cảm thấy họ thật sự đang dần trở thành bạn bè, tôi vẫn nhớ Ernest. Tôi thích có anh làm bầu bạn hơn hết thảy. Cảm giác gần như xấu hổ khi phải thú nhận rằng tôi đã trở nên phụ thuộc vào anh đến thế nào. Tôi cố ngăn cơn ủ dột bằng cách đến tất cả những nơi được mời và ra khỏi nhà càng nhiều càng tốt. Tôi năng lui tới bảo tàng Louvre và các quán cà phê. Tôi tập một bản Haydn mới nhiều tiếng đồng hồ để biểu diễn cho Ernest nghe khi anh về. Tôi tưởng chơi nhạc sẽ khiến mình thấy khá hơn, nhưng thực tế nó chỉ nhắc tôi nhớ lại những quãng thời gian thảm thương nhất ở St. Louis, khi tôi cô đơn và bị cách ly khỏi thế giới.Ernest đi trong ba tuần, và đến cuối khoảng thời gian ấy tôi ngủ trên giường không ngon giấc đến nỗi tôi thường nửa đêm chuyển ra cái ghế bành dựng thẳng lưng và rúc vào chăn mà cố ngủ ở đó. Tôi không thể thưởng thức được cái gì cho ra hồn, ngoại trừ việc tản bộ qua Ile St.Louis tới cái công viên mà tôi đã dần trở nên yêu mến và tin tưởng. Cây cối ở đó giờ đã đơm bông, mùi hoa dẻ ngựa đậm đặc trong không khí. Tôi cũng thích nhìn ngắm nhà cửa xung quanh công viên và băn khoăn về những con người sống trong đó, cuộc sống hôn nhân của họ kiểu gì, họ yêu nhau thế nào, làm tổn thương nhau ra sao, và liệu họ có hạnh phúc, họ có nghĩ hạnh phúc là thứ lâu dài. Tôi nán lại công viên càng lâu càng tốt, rồi đi bộ về nhà trong ánh nắng mà tôi gần như không cảm nhận thấy.

Khi Ernest cuối cùng cũng về nhà vào tháng Năm, tôi ôm anh thật chặt, mắt dâng đầy những giọt lệ nhẹ nhõm.

“Giờ thì lại cái gì thế? Em nhớ anh đấy hả, Mèo Lông Vũ?”

“Nhớ quá nhiều.”

“Tốt. Anh thích mình được nhớ tới.”

Tôi gật đầu vào vai anh, nhưng một phần trong tôi không thể không băn khoăn liệu có thực sự tốt không khi phụ thuộc tuyệt đối vào anh như vậy. Anh vẫn ngưỡng mộ sự mạnh mẽ của tôi, khả năng phục hồi của tôi và dựa dẫm vào đó; hơn thế, chính tôi cũng muốn cảm thấy mình mạnh mẽ và thấy không thoải mái khi biết rằng phẩm chất ấy sẽ bốc hơi ngay khi anh đi. Có phải hạnh phúc của tôi giờ đã gắn chặt với anh đến độ tôi chỉ có thể là chính mình khi anh ở gần bên? Tôi cũng không biết nữa. Tất cả những gì tôi có thể là cởi đồ cho anh thật chậm, trong khi đó, nơi sàn khiêu vũ phía dưới, tiếng phong cầm vút lên một giai điệu u sầu.

Khi Ernest trở về, chúng tôi có hơn hai trăm đô nóng hôi hổi từ tờ Toronto Star, và hai đứa quyết định nuông chiều bản thân vào một chuyến du lịch Thụy Sĩ. Lúc ấy anh đang cảm thấy gần như tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp. Mới đây Scofield Thayer ở tờ Dial đã gửi lại mấy bài thơ Pound đề xuất cùng một lá thư từ chối chung chung đến đau lòng, nhưng Ernest đã thiết lập được nhiều mối quan hệ mới ở Genoa, những phóng viên khác mà anh làm việc khăng khít cùng như Max Eastman, một biên tập viên người Mỹ, ông này muốn Ernest gửi vài phác thảo văn xuôi của anh, và Lincoln Steffens, nhà báo nổi tiếng chuyên bới móc chuyện bí mật của những người của công chúng, Ernest hết sức ấn tượng trước quan điểm chính trị mạnh mẽ của anh ta. Steffens mới đi Liên Xô về, lòng tràn đầy nhiệt huyết dành cho chủ nghĩa cộng sản, anh ta nói với báo giới và bất cứ ai khác chịu lắng nghe, “Tôi đã được đi tới tương lai, và nó hoạt động hiệu quả.” Ernest sung sướng lắm khi Steffens chú ý đến mình, và được hỗ trợ bởi một cảm quan mới về cộng đồng và khát vọng, anh vừa gửi tận mười lăm bài thơ cho Harriet Monroe ở tờ Poetry.

“Việc quái gì mà không gửi nào?” anh nói. “Biết đâu cửa sẽ không mở nếu anh không đập thật to và lâu.”

“Thành công sẽ đến với anh,” tôi nói. “Em cảm thấy nó sắp đến rồi.”

“Có thể lắm,” anh bảo, “nhưng mình đừng nói đến nó kẻo sẽ gặp vận rủi đấy.”

Chúng tôi mua vé hạng ba đi Montreux, rồi đón tàu điện thẳng lên sườn núi tới Chamby, khu nghỉ dưỡng nhìn ra hồ Geneva. Căn nhà gỗ chúng tôi thuê rộng và sần sùi, còn không khí nơi miền núi thì trong sạch tuyệt vời. Mỗi ngày chúng tôi dành mấy tiếng đồng hồ đi bộ việt dã trên những con đường núi giữa rừng cây rậm rạp và trở về ăn một bữa trưa với thịt quay ngon tuyệt, bí đao, củ cải vàng và trái cây hầm với kem tươi béo ngậy. Đêm đến, chúng tôi đọc sách cạnh lò sưởi, uống vang hâm nóng với chanh và các loại lá hạt gia vị mùi ám khói. Chúng tôi ngủ bao nhiêu tùy thích, làm tình ngày hai lần, đọc sách và viết thư và chơi bài.

“Trông em rám nắng, mạnh mẽ và khỏe khoắn quá đi mất,” một hôm Ernest nói với tôi khi chúng tôi đang đi bộ việt dã. “Mọi thứ ở đây dường như rất hợp với em.”

Tôi thích nghe anh khen, nhưng những tuần một mình ở Paris vẫn còn ám ảnh tâm trí tôi. Chúng làm tôi sợ, khiến tôi phải nghĩ về việc thật sự mạnh mẽ, theo ý mình, có nghĩa là gì — không chỉ là khỏe mạnh và nâu rám vì ánh mặt trời, không chỉ là linh hoạt và dễ thích nghi.

Sau tuần đầu tiên, bạn cũ của Ernest từ hồi chiến tranh, Chink Dorman-Smith (*), đến chơi với chúng tôi. Hai người gặp nhau ở Schio, mặt trận Ý, trước khi Ernest bị thương. Chink là người Ailen, cao bằng Ernest nhưng trắng hơn nhiều, má đỏ hồng hào và ria mép màu râu ngô. Tôi mến cậu ngay tắp lự. Cậu cư xử hòa nhã tuyệt vời, phù hợp với một người dành thời gian ở các phiên tòa hơn là một anh lính chuyên nghiệp. Hằng sáng cậu xuống ăn điểm tâm, miệng ngân nga vui vẻ và gọi tôi là bà Popplethwaite (**). Ernest yêu Chink như anh trai và nể cậu vô cùng. Anh không cạnh tranh với cậu như với nhiều người bạn văn hay bạn báo của anh, và vì thế khoảng thời gian ấy rất vô tư lự, ngày này qua ngày khác. Lúc bấy giờ thung lũng sông Rhone đang vào thời điểm đẹp nhất, thủy tiên nở rộ trên mọi khoảng đồng trống và trong những khe đá lởm chởm. Lần đầu tiên trông thấy một bông thủy tiên xuyên qua lớp băng vươn lên, tôi đã nghĩ hình ảnh đó quá tuyệt vời và thầm mong mình cũng có được ý chí như vậy.

Ngày nào chúng tôi cũng lang thang vào sâu trong núi để tìm những quán trọ đẹp và những điểm câu cá hứa hẹn. Stockalper, con suối gần nơi giao nhau giữa hồ Geneva và sông Rhone, là nơi Ernest yêu thích nhất, chẳng khác gì Bắc Michigan ở bên này bán cầu. Anh ngồi nhiều giờ đồng hồ, vui vẻ câu cá hồi trong lúc Chink và tôi nằm ườn trên cỏ đọc sách hoặc trò chuyện.

“Thật tuyệt khi được thấy hai người yêu nhau thế này,” một buổi chiều nọ Chink nói khi chúng tôi đang ngồi dưới bóng râm của một cây lê hoa nở rộ. “Đã có những lúc tôi tự hỏi liệu có bao giờ Hem quên được Milan không.”

“Milan hay là cô y tá xinh đẹp của anh ấy?”

“Chắc là cả hai,” anh nói. “Cả quãng thời gian đó khó mà khơi gợi điều gì tốt đẹp nơi cậu ấy. Nhưng chị đã làm được.” Chink vắt tay ra sau đầu rồi nhắm mắt lại. “Hem ngày xưa,” cậu lẩm bẩm, và rồi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Tôi mừng vì Chink nhìn ra và hiểu được điểm tốt trong quan hệ của chúng tôi. Cậu còn biết những điều về Ernest mà tôi không hề biết. Họ đã cùng nhau chia sẻ quá khứ, cả biển bia rượu và những lời thú nhận lúc đêm khuya. Đôi khi họ nói về cuộc chiến trong những buổi chiều dài lành lạnh trên khoảng hiên rộng trước ngôi nhà gỗ, những câu chuyện đem đến cho tôi một niềm trân trọng mới mẻ đối với những gì cả hai đã từng chứng kiến và chịu đựng.

Chink đã và sẽ luôn là một người lính. Khi Ernest trở về với cuộc sống của mình ở Mỹ, Chink tiếp tục ở lại với quân đội Anh. Mấy năm qua cậu đóng quân ở Ailen trong lực lượng chiếm đóng của Anh, họ đang cố kiểm soát bạo lực trong cuộc chiến giành độc lập của người Ailen. Một điểm đóng quân đầy khó khăn, và cậu đã thấy vô khối cảnh chết chóc, mỗi ngày ở với chúng tôi, ta đều có thể cảm nhận được cậu đang cố nôn mửa những gì mình đã chứng kiến ra một chút.

“Hẳn là phải lạ lùng lắm,” một tối nọ tôi bảo cậu, “một trận đánh khủng khiếp đang diễn ra ở đó, còn cậu thì lại lên tàu đi nghỉ phép. Cứ thế mua vé rồi bỏ đi thôi.”

Chink phá lên cười u ám. “Trong cuộc chiến tranh của chúng tôi” — cậu ngừng lại để gật đầu với Ernest — “khi mặt trận kéo dài đến tận eo biển Manche, có những gã được nghỉ phép một chốc để về nhà uống trà. Họ sẽ quay trở lại, nhặt lưỡi lê cùng mặt nạ chống khí độc lên tiếp tục chiến đấu, lưỡi vẫn còn thưởng thức vị của những vụn bánh quy.”

“Nhưng tâm trí ta thì không chịu đựng được điều đó,” Ernest nói. “Ta không theo kịp sự thay đổi đột ngột ấy. Ta bị mắc kẹt ở nơi này hoặc nơi kia, hoặc đâu đó ở giữa. Và đó là khi những tổn thương bắt đầu.”

“Chính xác,” Chink nói.

“Tuy vậy, đôi lúc, một khi ta đã tham chiến và cuộc chiến ấy đã ở trong ta, ta có thể quay trở lại. Gần giống như em đã nói đấy, bé con.” Anh gật đầu với tôi qua bàn, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Kiểu như mua vé đi đến đó, rồi lại trèo ra khỏi đó khi em giật mình hay tỉnh giấc.”

“Không phải lúc nào cũng dễ chịu thế, phải không?” Chink nói, vì cậu biết về những cơn ác mộng chiến trận của Ernest, biết anh vẫn còn tỉnh dậy lúc nửa đêm thế nào, mồ hôi ướt sũng và la hét, ánh mắt hoang dại và kinh hoảng. Hai người bạn gật đầu với nhau rồi nâng ly lên.Chính vào một trong những buổi tối say sưa uống và chuyện trò như vậy, Chink đưa ra ý tưởng vượt qua đèo Great St. Bernard sang Ý.

“Napoléon và Charlemagne cũng làm thế đó,” cậu nói, đoạn chùi bọt bia trên ria mép.

“Cậu nghĩ quãng đường là bao xa?” tôi hỏi.

“Chắc khoảng năm mươi cây số chăng?”

“Đi đi,” Ernest nói. “Từ Aosta, chúng ta có thể bắt tàu tới Milan.”

“Hoặc Schio,” Chink nói. “Quay lại hiện trường tội ác.”“Anh muốn chỉ cho em xem Schio quá,” Ernest bảo tôi. “Đó là một trong những nơi đẹp nhất quả đất.”

“Có một nhà máy xay cũ, bọn tôi biến nó thành trại lính và gọi nó là Câu lạc bộ Đồng quê Schio,” Chink mỉm cười nói. “Không thể kể hết chúng tôi thường xuyên bơi trong con suối ở đó như thế nào, khi ngày vào lúc nóng nực nhất. Và cây đậu tía nữa chứ!”

“Và cái nhà hàng có khu vườn nhỏ nơi chúng ta nốc bia dưới ánh trăng tròn,” Ernest nói. “Có một khách sạn đẹp tuyệt ở Schio, khách sạn Due Spadi. Chúng mình sẽ ở đấy một hai đêm gì đó, rồi tiếp tục đi tới Fossalta. Anh thậm chí còn có thể thuật lại cả chuyến đi cho tờ Star ấy chứ. Thương binh quay về chiến trường xưa.”

“Tuyệt,” Chink đồng tình, và chuyến đi thế là đã được ấn định.

Sáng hôm sau chúng tôi rời ngôi nhà gỗ với những chiếc ba lô chất nặng. Ernest đã vào phòng lúc tôi đang xếp đồ và thấy tôi cố tìm chỗ nhét các loại chai lọ kem dưỡng da mặt và dầu tắm gội vào. “Ba lô của anh còn chỗ không?” tôi hỏi, tay cầm đống chai lọ.

“It khả năng là còn lắm,” anh đáp. “Em đang mong người ngợm thơm tho để quyến rũ bọn cá hồi đấy à?”

“Để cô gái này được yên đi,” tôi nói, nhưng anh không đổi ý.

Cuối cùng tôi nhờ Chink mang chúng, và cậu đồng ý, một cách miễn cưỡng. Nhưng mức độ phù phiếm của việc muốn dầu tắm gội ở gần bên trong khi vượt qua một con đèo núi nguy hiểm vẫn chưa là gì so với đôi giày tôi chọn — giày cổ thấp buộc dây da thuộc mỏng manh thay vì một đôi ủng đúng điệu. Chẳng hiểu lúc đó tôi nghĩ gì nữa, trừ việc chân tôi trông đẹp hơn khi đi giày buộc dây cổ thấp. Một đôi chân trông đẹp đẽ mới làm lợi cho tôi nhiều làm sao chứ. Chúng tôi đi chưa được năm dặm thì chân tôi đã ngấm nước rồi. Để biện minh, tôi phải nói rằng chúng tôi chẳng biết mình đang dấn thân vào cái gì nữa. Con đèo qua được vào mùa xuân, nhưng năm ấy nó vẫn chưa được mở thông. Vẫn chưa có ai đi qua đó, và ở vài chỗ tuyết vẫn còn ngập sâu đến đùi. Dù sao thì chúng tôi vẫn tiếp tục lê bước, qua các thung lũng và những con đường mòn giữa rừng thông rậm rạp, qua những cánh đồng mênh mông điểm xuyết hoa dại. Phong cảnh vô cùng ngoạn mục, nhưng cả Ernest lẫn tôi đều trong tình trạng hết sức tệ hại. Hai bàn chân tôi nhức nhối và cẳng chân đau đớn. Anh thì bắt đầu mắc chứng bệnh độ cao kiểu gì đó — buồn nôn và đau đầu — và chúng tôi trèo lên càng cao thì các triệu chứng càng tệ hại. Đầu anh choáng váng, và cứ độ một dặm thì anh lại chúi người về phía trước nôn ọe vào tuyết. Xét ở một phương diện nào đó thì tình cảnh của Chink là tệ nhất, vì cậu phải bù cho sự yếu ớt của chúng tôi, cậu thường vác hai ba lô vài trăm thước một lúc, rồi thả xuống và quay lại vác ba lô thứ ba. Khi chúng tôi bước đi, tôi bắt đầu tưởng tượng ra mình được giải cứu bởi một trong những con chó giống St. Bernard trứ danh, nó sẽ kéo chúng tôi, cả ba người, lên nốt ngọn núi trên một chiếc xe trượt thoải mái.

Trèo lên được nửa đường, chúng tôi dừng lại ở Bourg-St. Pierre và ăn trưa dưới một khoảng nắng. Chân tôi đã phồng rộp lên đến nỗi tôi sợ phải cởi giày ra, e rằng có khi tôi sẽ chẳng đi lại vào được nữa. Không làm được gì, chỉ còn biết chợp mắt một lúc, tôi đành cuộn người trên một băng ghế gỗ trong lúc Ernest cùng Chink tha thẩn quanh thị trấn thử bia.

“Chị bỏ lỡ một nghĩa địa nhỏ đẹp tuyệt đấy,” Chink nói khi họ đánh thức tôi dậy một lát sau đó.

“Hàng nối hàng bia đá cho những kẻ xấu số tội nghiệp trải xuống sườn núi,” Ernest nói.

“Núi này sao?” tôi hoảng hốt thốt lên. “Có phải chúng ta đang gặp nguy hiểm thật không?”

“Vậy em có muốn bỏ cuộc và ở lại đây không?” Ernest hỏi.

“Để rồi bỏ lỡ mất các vị thầy tu ư?” Chink nói. “Thế thì làm sao chúng ta tha thứ cho bản thân được chứ?”

Trại tế bần St. Bernard nằm ở điểm cao nhất con đèo, nơi đây một hội những người tình nguyện cống hiến đã trợ giúp các lữ khách trong suốt hơn một nghìn năm qua. Bất kỳ ai gõ cửa sẽ được cho bánh mì và xúp, một cốc rượu vang và một chiếc giường rơm để qua đêm. Và thế là chúng tôi đến với họ, tối muộn hôm ấy, ba mươi cây số đường núi và ngà ngà say vì chỗ rượu cognac cả ba đã nhấp cứ hai mươi phút một lần để lê được đến đây từ Bourg-St. Pierre. Ấy là một đêm sáng trời. Mặt trăng hiện lên to đùng phía sau trại tế bần và soi tỏ nó trong một thứ ánh sáng kỳ dị.

“Trông như một trại lính ấy nhỉ?” Chink nói, rồi bước tới trước để gõ lên cánh cửa gỗ đường bệ.

“Anh thì cái gì cũ cũ mà chẳng liên tưởng đến trại lính,” Ernest nói trước khi cánh cửa mở rộng và một cái đầu trọc lốc hiện ra.

Vị thầy tu chẳng hỏi han câu nào, lẳng lặng dẫn chúng tôi vào, xuyên qua những hành lang tối tăm im ắng đến phòng chúng tôi. Phòng ốc đơn giản, như đã biết trước, với những tấm nệm rơm để ngủ, nhưng có một ngọn đèn sáng để đọc và một lò sưởi ấm. Trong khi Chink và Ernest nghỉ ngơi trước bữa tối, tôi đi thám hiểm, thầm nghĩ biết đâu tìm thấy bếp và chậu để ngâm đôi chân tội nghiệp. Nhưng hành lang cái nào cũng giống cái nào. Tôi cố đi theo các giọng nói, nhưng chẳng có tiếng nói nào cả. Cuối cùng, tôi đi bừa vào một hành lang dài tối chỉ để nhận ra rằng mình đã lạc đến khu riêng của các thầy tu. Vài cánh cửa mở cùng một lúc, những mái đầu cạo trọc cái này nối cái kia thò ra như chuột chũi. Tôi hoảng hốt quay lại phòng mình, ngồi sụp xuống và kể lại chuyện vừa rồi. Hai kẻ kia chỉ cười ha hả, dĩ nhiên, và rồi Ernest bảo tôi theo anh nhiều khả năng tôi là người phụ nữ đầu tiên đặt chân trên những hành lang ấy trong một nghìn năm! Anh lập tức kể lại trong lá thư gửi tới Gertrude và Alice: Bà Hemingway cố quyến rũ các vị thầy tu, tại đây. Làm ơn cho lời khuyên.

Sáng hôm sau chúng tôi rời đi Aosta, cảm thấy sẵn sàng đối phó với chặng đèo còn lại hơn — hoặc giả tôi tưởng thế, cho đến khi chiếc giày bên chân phải của tôi tuột chỉ.

“Đáng đời em lắm, cô nàng Phù Phiếm,” Ernest quát lên. Thành thực mà nói, tình trạng của anh cũng đâu khá kham gì hơn. Anh vẫn bị nôn mửa vì độ cao, và anh phải cố hết sức bình sinh mới đi được nốt chặng đường. Chỉ có Chink là vẫn còn khỏe mạnh. Cậu lấy dao rạch mở chiếc giày còn lại ra cho tôi, và hôm sau chúng tôi đã tập tễnh đi vào Aosta như thế, ra khỏi một con đèo ngập tuyết để bước vào vùng đồi xanh nhạt đang độ rất xuân, với những vườn nho rực rỡ ở mỗi bên. Tôi nói đùa trong một bức thư gửi về nhà cho Ruth rằng hai chàng trai gần như phải bế tôi vào thị trấn, nhưng sự thực là tôi đã làm chính mình bất ngờ vì khả năng chịu đựng. Dù có tưởng tượng cách mấy thì hình ảnh tôi cũng không đẹp đẽ gì, nhưng tôi đã thể hiện sức chịu đựng hơn những gì mà tôi cho rằng mình thậm chí có khả năng. Nếu không vì đôi giày kinh khủng kia thì có khi tôi còn chạy tới Aosta trong một trăm thước cuối cùng ấy chứ.

Chú thích:

(1) Eric Edward Dorman-Smith (1895-1969): lính quân đội Anh và Cộng hòa Ailen, khởi đầu nghiệp lính với những chiến công hiển hách trong Thế chiến I. Chink là biệt danh của ông.(2) Dorman-Smith gọi Hemingway là Shamus O’Popplethwaite.