← Quay lại trang sách

MƯỜI LĂM

Trên tàu đi Milan, tôi ngủ như chết và tỉnh dậy khi nghe Ernest và Chink nói chuyện về Benito Mussolini. Lãnh tụ phát xít mới này đang ở Milan, và Ernest muốn dùng thẻ nhà báo của mình để sắp xếp một cuộc phỏng vấn. Anh cho rằng Mussolini là trò bịp bợm lớn nhất châu Âu lúc bấy giờ và muốn gặp ông ta chết đi được. Tuy nhiên, Chink phải trở lại điểm đóng quân, nên cậu tạm biệt chúng tôi ở đó với những cái hôn và lời hứa hẹn rằng chúng tôi sẽ sớm gặp lại.

Ernest rất vui sướng vì lại được về Milan một lần nữa. Sau khi đã tìm cho tôi một đôi giày mới, điểm dừng tiếp theo của chúng tôi là dinh thự đường bệ tuyệt đẹp ở phố Via Manzoni, chỗ này đã được chuyển thành bệnh viện của Hội Chữ thập đỏ nơi cả Ernest và Chink đều đã từng dưỡng thương. Chúng tôi đứng ở cổng, ngước nhìn lên các ban công và sân hiên, những mái hiên kẻ sọc, bàn ghế mây và những cây cọ mập mạp trồng trong chậu.

“Trông chẳng khác nào một khách sạn đẹp anh nhỉ,” tôi bảo Ernest.

“Sống trong đó cũng tốt nữa, rất ổn. Không may là chúng ta phải bị bắn rồi mới được vào bên trong.”

“Em rất tiếc em không thể thực sự biết được lúc ấy anh cảm thấy thế nào.”

“Anh cũng mừng không kém vì em ở đây để nắm tay chia sẻ với anh.”

“Điều đó thì em làm được,” tôi nói rồi với ra nắm lấy tay anh. Sau đó chúng tôi đi bộ tới phố Duomo, rồi tới nhà hàng Biffi trên phố Galleria nơi hai đứa uống sâm banh với những quả dâu tươi nổi lềnh bềnh, và mặc dù Ernest không hay nói về quãng thời gian anh ở chiến trường, việc nói chuyện và ở bên Chink như mồi nước vào máy bơm, và giờ thì trong anh đầy ắp ký ức về thời ấy. Bước chân vào Milan đã hoàn tất quá trình đó. Cả chuyến đi trở thành một cỗ máy thời gian, và anh đã quay trở lại.

“Thật buồn cười,” anh nói, “nhưng thỉnh thoảng điều anh nhớ nhất về cái đêm bị bắn lại là đám muỗi. Chúng bay vào tai ta, vào khóe mắt ta, và ta chẳng tài nào ngủ nổi vì cái bọn ấy. Nói vậy không phải là bọn anh được ngủ nhiều nhặn gì đâu. Thế rồi bầu trời nổ tung trong màn lửa. Anh giẫm trúng mìn ngay dưới chân. Tất cả bọn anh đều giẫm trúng. Mới đầu anh chẳng cảm thấy gì cả, và rồi ngực anh bị ép lại cảm tưởng như không thở nổi, còn đầu anh vang lên một tiếng kêu chói lói.“Anh có thật sự muốn nói tất cả những chuyện này không?” tôi dịu dàng hỏi. “Anh không cần phải làm thế đâu.”

“Anh nghĩ là mình muốn nói,” anh đáp, rồi im lặng vài phút. “Tai anh ù đặc đi, nhưng ai đó đang kêu cứu. Không hiểu bằng cách nào anh cũng tới được đó, nâng anh ta lên bế về bốt chỉ huy. Anh thậm chí còn chẳng biết mình làm thế nào nữa. Anh gần như không nhớ gì về đoạn ấy, chỉ có cảm giác hai cẳng chân như đang vỡ vụn từng mảnh phía dưới. Sau đó anh nghe thấy tiếng súng máy, cứ như thể âm thanh ấy chẳng liên quan gì đến mình. Anh tiếp tục chạy, rồi anh đặt kẻ tội nghiệp kia xuống, và anh cũng gục xuống. Rồi trống không. Anh không còn biết gì nữa.”

“Sau đó là bệnh viện dã chiến,” tôi nói. “Rồi con tàu đến Milan.”

“Đúng,” anh nói. “Mỗi khi con tàu đó dừng, ruồi nhặng lại tràn qua các cửa sổ để ngỏ bu đầy lên lớp băng bó đầy máu của anh. Anh ở trên con tàu đó hai ngày.”

Tôi gật đầu. Ngày ấy cách đây đâu đã nhiều năm, nhưng ở ngay đó trên gương mặt anh, trong đôi mắt anh, anh đến Milan lần này như một con búp bê vỡ vụn. Không phải một anh hùng, mà là một chàng trai có lẽ sẽ chẳng bao giờ thực sự phục hồi sau những gì anh đã cảm nhận, đã chứng kiến. Tôi thấy nhói lên một nỗi buồn sâu sắc khi nghĩ rằng dù tôi có yêu anh bao nhiêu, tôi có cố đưa anh trở lại nguyên vẹn đến thế nào, có lẽ anh vẫn sẽ mãi mãi vỡ vụn.

“Chắc hẳn hôm nay anh đang nghĩ về Agnes,” sau một lúc tôi nói.

“Chỉ một ít thôi.” Anh đặt tay anh lên tay tôi. “Anh mừng là chúng mình làm việc này cùng nhau.”

“Em cũng thế.” Tôi biết anh đang nói thật, nhưng tôi cũng biết rằng nếu có thể, anh sẽ muốn có cả tôi lẫn Agnes ở đó — quá khứ và hiện tại của anh, mỗi chúng tôi lại yêu anh mà không đòi hỏi — và cả những quả dâu nữa. Rượu vang và nắng trời và những viên đá ấm dưới chân chúng tôi. Anh muốn có tất cả mọi thứ, và hơn thế nữa.

Chiều hôm sau, tôi ngủ và đọc sách ở khách sạn trong lúc Ernest thu xếp một cuộc phỏng vấn với Mussolini. Mới đây ông ta vừa được bầu vào Hạ viện Ý, và chuyện này khiến Ernest rất quan tâm. Người đàn ông đó dường như là một tổng thể của những mâu thuẫn. Là người theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ, ông ta muốn đưa nước Ý quay lại vầng hào quang xưa cũ bằng cách vươn tới quá khứ La Mã của nó. Có vẻ như ông ta thực sự chú tâm đến cảnh ngộ của tầng lớp lao động và phụ nữ, tất cả những điều đó đã được ông ta trình bày trong Bản Tuyên ngôn Đấu tranh Phát xít. Ấy vậy nhưng ông ta cũng cố lấy lòng giới quý tộc và tầng lớp tư sản, đảm bảo rằng họ vẫn sẽ tiếp tục tồn tại. Dường như ông ta muốn là tất cả mọi thứ với tất cả mọi người, vừa truyền thống vừa cách tân, được yêu mến bởi cả quân đội lẫn giới doanh nhân và những người tự do chủ nghĩa. Đảng Phát xít Quốc gia đang tập trung lực lượng nhanh chóng đến nỗi sự lớn mạnh của nó dường như là không thể tránh nổi.

“Anh có lo lắng không?” tôi hỏi khi anh đang sắp xếp sổ ghi chép để chuẩn bị đi.

“Vì cái gì chứ? Ông ta chỉ là một tên ma cô to đầu, không phải vậy sao?”

“Em không biết nữa. Vài người nói ông ta là một con quái vật.”

“Có thể, nhưng quái vật không phải lúc nào cũng trông như thế. Chúng có móng tay sạch sẽ, sử dụng dao dĩa và nói thứ tiếng Anh của nhà vua.”

Tôi gài nút áo khoác cho anh rồi phủi sợi vải trên vai anh xuống.

“Em đang làm nhặng lên đấy, vợ à. Chợp mắt một chút đi, và đừng có lo.”

Anh đi trong hai tiếng, và khi anh trở về khách sạn để đánh máy lại những ghi chú của mình, anh có vẻ rất tự mãn khi kể với tôi rằng anh đã đúng.

“Gã đó ngập trong bịp bợm đến tận đây này,” anh nói, tay chỉ lên cổ, “và trên đó thì chẳng còn gì nữa.”

“Ông ta có mặc cái áo đen đó không?” tôi hỏi, lòng thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.

“Có, tất cả bọn họ đều mặc như thế.” Anh ngồi xuống bàn viết và đặt một tờ giấy mới tinh vào chiếc máy Corona. “Ông ta to lớn hơn ta tưởng nữa, mặt nâu to và đôi bàn tay rất đẹp. Đôi tay của phụ nữ, thật đó.”

“Nếu là anh em sẽ không viết điều ấy đâu.”

Anh cười và bắt đầu đánh máy với tốc độ tên lửa như thường lệ, những ngón tay gõ xuống nhanh với rất ít lần nghỉ lại hay dừng thở. “Anh sẽ kể cho em nghe thêm điều này nữa,” anh nói mà không nhìn lên, “có một con cún dòng săn sói rất đẹp ở cùng ông ta trong căn phòng đó.”

“Vậy là con quái vật phát xít là một kẻ yêu chó.”

“Có lẽ ông ta định ăn thịt nó sau này,” anh nói, toét miệng cười.

“Anh thật kinh khủng.”

“Đúng thế,” anh nói, hai ngón trỏ lơ lửng sẵn sàng cho một cuộc tấn công bạo lực khác lên chiếc máy chữ. “Đó là một con chó tốt.”

Hôm sau chúng tôi lên xe buýt đi Schio, Ernest muốn chỉ cho tôi xem nhà máy xay, cây đậu tía và mọi phần của thị trấn vẫn còn lưu giữ quá rõ ràng trong trí nhớ anh, bất kể điều gì khác đã xảy ra xung quanh nó. Nhưng trên đường đi, bầu trời tối sầm lại và càng lúc càng trở nên xám xịt. Trời bắt đầu mưa, và mưa mãi không dứt. Khi cuối cùng chúng tôi cũng đến thị trấn, Ernest rất ngạc nhiên.

“Nó nhỏ hơn nhiều quá,” anh bảo.

“Có lẽ nó bị co lại vì cơn mưa chăng,” tôi nói, cố làm không khí tươi vui lên, nhưng rồi nhanh chóng nhận ra điều đó là không thể. Trong cả chuyến viếng thăm, Ernest đánh vật với ký ức. Mọi thứ đã thay đổi và trở nên dơ dáy trong bốn năm trời kể từ lần cuối anh ở đây. Nhà máy len sợi — đóng cửa trong chiến tranh — đã nôn mửa ra quá nhiều rác rưởi đen sì vào cái hố bơi nơi Ernest cùng Chink tắm táp bao buổi chiều nóng nực. Chúng tôi đi ngược xuôi những con phố ngoằn ngoèo trong mưa, nhưng mọi thứ trông đều buồn tẻ và cô đơn, quầy kính trưng bày các cửa hiệu toàn những bát đĩa, khăn trải bàn và bưu thiếp rẻ tiền. Quán rượu vắng teo. Chúng tôi đi vào cửa hàng rượu có một cô gái đang ngồi chải len.

“Tôi hầu như chẳng nhận ra thị trấn này nữa,” Ernest nói với cô bằng tiếng Anh. “Quá nhiều thứ mới.”

Cô gật đầu và tiếp tục công việc của mình, kéo hai bàn chải tới lui, những sợi len trắng trở nên dài mượt.

“Anh có nghĩ cô ấy hiểu anh không?” tôi khẽ nói với Ernest.

“Cô ấy hiểu anh đấy.”

“Chồng tôi đã ở đây hồi chiến tranh,” tôi nói.

“Chiến tranh kết thúc rồi,” cô gái trả lời mà không nhìn lên.

Chán nản, chúng tôi từ bỏ việc ngắm cảnh và đến đăng ký phòng ở khách sạn Hai Bích(*), nhưng nó cũng thay đổi. Giường kêu cót két, ga gối mòn rách và trông buồn tẻ, bóng đèn thì phủ một lớp bụi.

Giữa chừng một bữa tối vô vị, Ernest bảo, “Có lẽ không có điều gì như thế từng xảy ra.”

“Dĩ nhiên là chúng đã xảy ra chứ,” tôi nói. “Ước gì Chink ở đây. Cậu ấy sẽ tìm được cách làm chúng ta tươi tỉnh hơn.”

“Không. Cả anh ấy cũng sẽ không chấp nhận được chuyện này đâu.”

Đêm ấy chúng tôi ngủ không ngon giấc, và sáng ra mưa vẫn không ngừng rơi. Ernest vẫn quả quyết muốn chỉ cho tôi Fossalta, nơi anh bị thương, thế nên chúng tôi tìm một tài xế đưa chúng tôi đến xa nhất là Verona rồi lên tàu tới Mestre, ở đó hai đứa phải tìm xe và tài xế khác. Liên tục, suốt ngày, và trong cả chuyến đi, Ernest tra cứu bản đồ, cố kết nối những gì anh thấy ở vùng quê này với những gì anh nhớ là đã thấy nhiều năm trước. Nhưng không có gì còn như xưa nữa. Fossalta, cuối cùng chúng tôi cũng đến đó, còn tệ hơn cả Schio vì không còn một chút dấu hiệu nào của cảnh tàn phá chiến tranh. Hầm hào đã biến mất sạch. Những căn nhà và công trình bị trúng bom đã được xây mới. Khi Ernest tìm thấy con dốc nơi anh bị thương, nó đã xanh rờn cây cỏ, không một chút sứt sẹo và hết sức xinh đẹp. Không gì mang lại cảm giác chân thật cả. Chỉ mới vài năm trước thôi hàng nghìn người đã chết tại đây, chính Ernest cũng đã đổ máu ở nơi đây, trúng nguyên một mảnh đạn, ấy thế mà tất thảy cứ sạch bong bóng bẩy, như thể bản thân vùng đất này đã lãng quên mọi thứ.

Trước khi chúng tôi đi, Ernest lục soát kỹ giậu cây, và cuối cùng ra đi với duy nhất một mảnh vỏ đạn han gỉ, không lớn hơn cái nút áo là bao.

“Đuổi theo quá khứ thật là một trò chơi xấu xí khó ưa, phải không?”

Anh nhìn tôi. “Tại sao anh vẫn đến?”

“Anh biết tại sao mà,” tôi đáp.

Anh lật lật mảnh đạn trong bàn tay vài lần, tôi đoán anh đang nghĩ về cuộc nói chuyện của chúng tôi với Chink, và rằng không thể tin tưởng vào hình ảnh cuộc chiến trong đầu anh được nữa. Không thể tin vào ký ức. Thời gian là thứ không đáng tin cậy, mọi thứ đều tan rã và chết đi — kể cả, và nhất là, khi chúng giống với sự sống. Như mùa xuân chẳng hạn. Khắp xung quanh chúng tôi, cỏ vươn lên. Chim chóc ríu rít huyên náo trong lùm cây. Mặt trời chiếu những tia nắng chói chang đầy hứa hẹn. Từ giây phút đó trở đi, Ernest luôn luôn ghét mùa xuân.

Chú thích:

(*) Tức khách sạn Due Spadi mà Hemingway đã nhắc tới ở trên