MƯỜI SÁU
Phải đến cuối tháng Sáu chúng tôi mới trở về Paris, và chẳng bao lâu sau các sự kiện kỷ niệm Ngày Bastille(1) đã bắt đầu, giờ nào cũng có ca hát nhảy múa trên phố. Không khí nóng nực, ồn ĩ, và lẽ ra chúng tôi thậm chí còn không nên cố ngủ. Tôi có thể thấy bóng hình thao thức của Ernest trong bóng tối, một cánh tay gác lên mắt.
“Chẳng mấy chốc sẽ đến ngày kỷ niệm của chúng mình,” tôi nói.
“Mình có nên đi đâu không?”
“Đi đâu bây giờ?”
“Tới Đức, hoặc có thể là tới Tây Ban Nha.”
“Chúng mình chẳng phải đi đâu cả,” tôi nói. “Chúng mình có thể ở nhà, uống say khướt và làm tình.”
“Mình có thể làm thế ngay lúc này mà.” Anh cười.
“Đúng vậy,” tôi nói.
Người thổi kèn clarinet bên ngoài cửa sổ nhà chúng tôi chơi một loạt những nốt trầm chờ nhạc đệm, rồi lại im lặng. Ernest quay sang bên, với tay ra vuốt ve bờ vai trần của tôi. Động chạm của anh truyền cho tôi một thoáng rùng mình ngọt ngào, rồi anh kéo tôi lại gần, lật tôi nằm sấp xuống mà không nói một lời, phủ cơ thể anh lên thân hình tôi. Anh nặng và ấm, tôi có thể cảm thấy môi và trán anh trên cổ mình.
“Đừng cử động,” anh nói.
“Em còn gần như chẳng thở nữa.”
“Tốt.”
“Em thích chậm rãi thế này.”
“Ừ.” Tay anh chống sang hai bên người tôi để không đè bẹp tôi, nhưng tôi lại muốn bị đè lên một chút.
Sau đó, khi chúng tôi nằm trong bóng tối, lại tiếng cười hồi nãy vang lên từ dưới phố, tiếng nhạc to hơn, nếu còn có thể to hơn được nữa, và hỗn loạn hơn. Ernest lại rơi vào im lặng, tôi tự hỏi không biết có phải anh đang nghĩ về Schio và tất thảy những thứ anh sẽ không tìm thấy ở đó nữa, và nghĩ về nỗi buồn anh đã mang theo về nhà.
“Em dậy đóng cửa sổ nhé?”
“Nóng lắm, mà cũng chẳng ích gì. Cứ đi ngủ thôi.”
“Anh đang bận lòng gì đó. Anh có muốn kể em nghe không?”
“Nói chuyện cũng chẳng giúp ích được gì đâu.”
Từ giọng anh tôi biết rằng anh đã ngã xuống một nơi rất sâu, nhưng tôi tin, một cách ngây thơ, rằng tôi có thể giúp nếu gợi được anh nói về nó. Tôi tiếp tục nhẹ nhàng hối thúc, và cuối cùng anh nói,
“Nếu em thật sự muốn biết, ấy là về việc làm tình. Ở nó có gì đấy khiến anh cảm thấy trống rỗng sau đó, và cô đơn nữa.”
“Khủng khiếp làm sao,” tôi thốt lên, cảm nhận lời anh đâm vào đau nhói. Chúng tôi chỉ vừa mới rất tha thiết với nhau, hay ít ra tôi cảm thấy như vậy.
“Anh xin lỗi. Không phải do em làm gì đâu.”
“Thế quái nào lại không được. Mình đừng làm chuyện ấy nữa. Chúng mình không bắt buộc phải làm. Em sẽ không bận tâm đâu.”
“Nhưng mình vẫn làm chứ. Em hiểu điều ấy mà. Anh biết là em hiểu.”
“Không.”
Anh bèn kéo tôi sát lại hơn. “Làm ơn đừng lo lắng gì cả, chỉ cần nói với anh rằng em yêu anh.”
“Em yêu anh,” tôi nói, rồi hôn bàn tay anh, mí mắt anh, cố quên những gì anh vừa nói. Nhưng không thể. Tôi không thể quên bất cứ điều gì anh từng nói với tôi. Vậy đấy.
“Đi ngủ thôi.”
“Vâng,” tôi nói.
Anh ngồi dậy mặc quần áo vào. Chắc đã ba giờ sáng rồi, hoặc có lẽ bốn giờ.
“Không phải anh đang định làm việc đấy chứ?”
“Có lẽ là không,” anh đáp. “Nhưng anh sẽ thử.”
Tôi lắng nghe tiếng anh ra khỏi nhà, bước chân anh trên cầu thang, xuống tận bậc cuối cùng, rồi tôi thiếp ngủ trong vài tiếng đồng hồ. Khi tôi thức dậy anh vẫn đang ra ngoài làm việc, còn trong nhà thì đã nóng nực và ngột ngạt lắm rồi. Tôi đá chăn ra, mặc áo choàng ngủ rồi đi vào bếp pha cà phê. Các nhạc công đêm qua vẫn đang ở dưới phố, và chỉ nghe họ chơi thôi cũng khiến tôi thấy mệt rồi. Tôi không hiểu làm sao mà họ cứ chơi liên tục được. Họ vừa đứng vừa ngủ ở cửa ư? Mà họ có ngủ chút nào không mới được?
Ăn sáng xong, tôi tắm rửa, thay đồ rồi ngồi tập piano vài tiếng, nhưng việc ấy không khiến tôi thỏa lòng. Ngày quá nóng nực còn tôi thì quá bị phân tán bởi đêm hôm trước. Tôi lại nằm xuống, rồi tôi nghe tiếng Marie Cocotte đang dọn bát đĩa trong bếp. Chúng tôi biết tên bà nhờ người giữ cửa khu nhà, và giờ thì hằng sáng bà đến làm femme de ménage (người giúp việc) cho chúng tôi, đảm trách toàn bộ việc rửa bát và nấu nướng với hai quan một giờ. Marie không con cái gì và đã sắp trung tuổi, người nhỏ nhắn chắc nịch, với đôi bàn tay nhanh nhẹn và thành thạo. Bà có cái biệt danh cocotte — từ lóng trong tiếng Pháp chỉ “đĩ điếm” — vì món ăn mà bà thường nấu rất ngon cho chúng tôi, poulet en cocotte(Gà hầm). Một tuần vài ngày, bà quay lại lúc chiều muộn để chuẩn bị bữa tối, và vì bà làm thứ gì cũng quá ngon nên tôi đã xin bà dạy tôi nấu món Pháp. Nhưng giờ thì đang vào cao điểm của mùa hè, tôi chẳng muốn chui vào bếp chút nào, chỉ sung sướng ngồi ăn hoa quả hoặc chẳng ăn gì cả đến khi Ernest xong việc. Rồi chúng tôi sẽ đến một quán nào đó uống rượu khai vị khi trời tối và mát mẻ hơn hẳn, khiến ta cảm giác muốn ăn và đói ngấu trở lại.
“Chúc cô một buổi sáng tốt lành, madame,” Marie Cocotte nói khi đi vào phòng ngủ, rèm cửa sổ vẫn mở từ đêm hôm qua. Chúng tôi chưa bao giờ kéo rèm lại.
“Cái thứ nhạc này có bao giờ dừng không nhỉ?” tôi hỏi bằng thứ tiếng Pháp vẫn còn chẳng chút uyển chuyển nào của mình, tay chỉ ra cửa sổ.
“Không phải hôm nay đâu,” bà cười, nói.
“Chắc cái Ngày Bastille này kéo dài đến vô tận mất,” tôi nói, và bà lại cười.
“Chúng tôi thích nó như thế,” bà nói.
Cứ như vậy mùa hè kéo dài ra, trở thành vài mùa hè nối tiếp nhau, và thời gian không nhúc nhích chút nào. Ngày trở nên khó mà lấp đầy hơn. Tôi cảm thấy chứng đau đầu của mình quay trở lại, và mặc dù biết mình không nên căm ghét Ernest làm việc hay cố tách anh khỏi nó, tôi luôn sung sướng mỗi khi anh thức dậy và nói rằng hôm đó anh sẽ không cố viết lách gì sất, thay vào đó chúng tôi sẽ đi xem đấm bốc, hoặc lái xe ra vùng nông thôn để xem đua xe đạp.
Một buổi chiều Gertrude và Alice mời chúng tôi đến ăn trưa tại ngôi nhà nông thôn của họ ở Meaux. Cả bốn chúng tôi đi cùng nhau, trên chiếc Model T của Gertrude, và ăn một bữa dã ngoại ê hề với hai loại trứng, khoai tây và gà quay. Chúng tôi uống vài chai vang lạnh, rồi ba chai Hennesy ba sao, và mọi thứ đều tuyệt đẹp — các thung lũng, những cây cầu, ngôi nhà duyên dáng và những cây cối trổ hoa. Sau bữa trưa, chúng tôi nằm trên cỏ trò chuyện, cảm thấy mình thật tự do thơ thới.
Ernest đã mang theo toàn bộ tác phẩm của mình cho Gertrude xem, và anh cũng đọc cả tác phẩm của bà nữa. Dù hồi hai người mới làm bạn anh đã từng cảm thấy nản lòng trước sự khó đọc của những thứ bà viết nhưng anh đã dần trở nên trân trọng sự lạ lùng ấy và ngày càng thích thú với những gì bà đang làm hơn. Thậm chí bà còn bắt đầu ảnh hưởng đến phong cách của anh, nhất là thói quen đặt tên và nhắc đi nhắc lại các đồ vật, nơi chốn, con người cụ thể mà không cố tìm các biến thể để biểu lộ rằng một từ bất kỳ có khả năng đáng sửng sốt đến thế nào khi ta dùng đi dùng lại nó. Ở vài đoạn văn mới về Nick Adams, tôi để ý thấy anh cũng viết bằng phong cách này, với ngôn ngữ và sự vật đơn giản nhất - hồ nước, cá hồi, khúc cây, con thuyền - và nhận ra việc đó đã mang lại cho tác phẩm một cảm giác rất hàm súc và gần như hoang đường.
Mối giao kết của Ernest với Gertrude rõ ràng là rất quan trọng với cả hai người bọn họ, và tôi mừng vì tất cả chúng tôi đều trở thành bạn bè tốt và thoải mái của nhau, dù khi gặp nhau vẫn còn kiểu chia đôi chia cặp dai dẳng. Ernest và Gertrude là nghệ sĩ, và khi nói chuyện, đầu họ ghé sát vào nhau, trông gần như thể chị em vậy. Alice và tôi là những bà vợ, ngay cả khi không có bốn bức tường phòng khách để phân định điều ấy, và dường như bà hài lòng với vai trò này. Tôi có hài lòng không ư? Ernest tuyệt đối ủng hộ việc chơi nhạc của tôi và thường nhắc đến cây piano như là “công việc” của tôi vậy, cứ như thể tôi cũng là một nghệ sĩ. Tôi thích chơi nhạc và cảm thấy nó như một phần đời mình, nhưng tôi không tin chút nào rằng mình có gì đặc biệt, như Ernest đặc biệt. Anh sống trong quả cầu sáng tạo còn tôi sống bên ngoài, và tôi không biết liệu rồi đây có gì thay đổi được điều đó hay không. Alice có vẻ thấy thoải mái hơn trong vai trò vợ nghệ sĩ, giấu mình hoàn toàn sau tham vọng của Gertrude, nhưng cũng có thể chỉ là do bà đã đóng vai này lâu hơn nên giấu được sự ghen tị kỹ hơn. Tôi nhìn đăm đăm vào ly brandy của mình — vào hoa văn biến ảo nó tạo nên trên tấm chăn nhạt màu may bằng vải len Ailen gì đó. Ngay lúc này chúng tôi đang ở đây cùng nhau, tôi tự nhủ. Mọi thứ đều đáng yêu và đẹp đẽ. Tôi nên biết điều mà giữ chặt lấy và vui vẻ lên. Tôi sẽ làm thế. Tôi sẽ cố.
Hôm sau chúng tôi dậy muộn, và tôi vẫn cảm thấy dư vị của Hennessy. Chắc hẳn Ernest cũng đang cảm thấy thế, vì chúng tôi thậm chí còn chưa ra khỏi giường thì anh đã lên tiếng, “Hôm nay có làm việc cũng không ra gì đâu mà. Anh không cần bận tâm nữa.”
“Anh có thể cứ đi làm thử xem sao, chỉ vài tiếng đồng hồ thôi,” tôi nói mà cảm thấy hơi cắn rứt vì không thật lòng.
“Không,” anh nói. “Sẽ chẳng có kết quả gì đâu. Anh biết mà.”
Chúng tôi dậy ăn sáng, rồi quyết định sẽ tới Auteuil xem đua ngựa. Ra khỏi thành phố chắc sẽ mát hơn. Marie Cocotte sẽ sửa soạn một giỏ bánh mì kẹp và rượu vang, rồi sau đó chúng tôi sẽ lấy bảng liệt kê thành tích ngựa để đọc trên tàu. Ngay khi bàn bạc xong, tôi cảm thấy áp lực trong đầu mình tan biến, vụt bay đi nhanh chẳng khác nào bóng ma bị yểm bùa xua đuổi khỏi một căn nhà. Tôi thấy mình có lỗi vì đã vui sướng đến thế khi không phải chia sẻ anh — có lỗi và vui sướng, cả hai cảm giác ấy cùng một lúc.
Cả Ernest và tôi đều thích mê Auteuil. Chúng tôi luôn lướt qua bảng thành tích ngựa cùng nhau rồi đến bãi tập trung để xem bọn ngựa. Tôi yêu cái mùi nồng nồng của lũ ngựa, yêu đường đua và tiếng ồn của đám đông vui vẻ sẵn sàng đón nhận may rủi. Ernest thì bị cuốn hút bởi mọi thứ - những múi cơ ngựa lượn sóng tuyệt đẹp, những tay nài ngựa dáng bè bè trong phục trang bằng lụa, những người huấn luyện đứng bên rào chắn dường như biết điều gì bí mật, tiếng lóng của mấy thằng nhóc trong chuồng, và mùi nước đái ngựa. Chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền để tiêu pha vào các cuộc đua, nhưng chúng tôi luôn luôn có một ít, và cảm giác được cùng nhau ra ngoài chơi dưới nắng trời thật dễ chịu. Ernest sẽ trải áo khoác của anh lên cỏ và chúng tôi ngồi lên dùng bữa trưa, rồi tôi sẽ chợp mắt hoặc chỉ ngắm mây trời mà đợi cuộc đua tiếp theo. Khi thắng, chúng tôi sẽ uống sâm banh, và đôi khi uống cả khi thua nữa, vì chúng tôi hạnh phúc khi được ở đó và bên nhau, vả lại dù sao thì tiền với chúng tôi là gì chứ? Chúng tôi đã bao giờ có đủ để tạo nên khác biệt gì nếu mất tiền đâu.
Hôm ấy, ngựa chúng tôi ưng nhất là một cậu chàng đẹp mã lông đen bóng, nhảy rất cừ và nhanh. Trong lúc nhảy vượt chướng ngại, bóng nó chỉ còn là những đường nét sắc cạnh, khiến ta tưởng rằng mình hầu như không trông thấy cú nhảy. Chúng tôi không đặt cược vào con ngựa ưng nhất, mà vào một con khác nhẹ cân hơn tên là Chèvre d’Or với tỉ lệ đặt cược 120:1. Đôi khi chúng tôi cùng nhau chọn ngựa sau khi dạo qua bãi tập trung hoặc đứng ở hàng rào xem cách lũ ngựa chuyển động và chờ linh cảm xuất hiện. Cũng có lúc Ernest tìm thấy người quen cho anh một hai cái tên với tỉ lệ đặt cược tốt. Hôm ấy tôi làm theo linh cảm của riêng mình, tôi tự tìm thấy con ngựa đó. Tôi có thể là bùa may cho cả hai như thế. Chuyện này đã từng xảy ra một lần, và ngày hôm ấy tôi cảm thấy chắc chắn nó sẽ xảy ra lần nữa. Chèvre d’Or không nhanh nhẹn đen bóng nhưng di chuyển như rượu brandy trong ly. Tôi quan sát cẳng chân mượt mà của nó và bảo Ernest nó chính là con chúng tôi sẽ chọn.
“Mình quyết cược vào nó đi,” tôi nói. “Chúng mình có đủ tiền không anh?”
“Có lẽ là đủ,” anh đáp.
“Kể cả không đủ thì cũng chơi luôn.”
Anh phá lên cười rồi đi đặt cược, miệng vẫn cười với tôi. Anh rất thích những khi tôi mạnh mẽ.
“Em vẫn trung thành với con ngựa này chứ?” anh hỏi khi quay về.
“Em vẫn.”
“Tốt. Chi phí sinh hoạt trong sáu tháng đã được đặt vào nó.”
“Anh cứ đùa em.”
“Anh không đùa đâu,” anh nói, và chúng tôi xúm lại quanh hàng rào cùng những người khác, cả hai đều thấy náo nức kích động vì sự mạo hiểm của mình.
Con ngựa của tôi dẫn đầu ngay từ đầu. Đến rào chắn thứ hai, không gì có thể chạm được vào nó. Đến rào thứ tư thì nó dẫn trước bốn sải tay, một vệt mờ màu hổ phách.
“Nó làm được rồi,” tôi kêu lên đầy xúc động. Bụng tôi căng thẳng đến thắt lại.
“Đúng là nó làm được rồi,” Ernest nói, quan sát những con ngựa khác bứt phá. Nhưng đã quá muộn cho bất cứ con nào vì Chèvre d’Or quá nhanh và dẫn trước quá xa — nó giỏi quá, vượt trước mười sải tay, rồi nhiều hơn nữa. Con ngựa ưng ý kia tăng tốc và vượt lên những những con khác, cây roi của nài ngựa quất vun vút, nhưng chú ngựa của chúng tôi chỉ phải chạy đua với chính mình.
Nó đang dẫn trước hai mươi sải tay và chỉ còn cách đích hai mươi bước nước kiệu thì chuyện xảy ra. Màn trình diễn từ đầu đến giờ đẹp đến thế nào thì cú ngã ở chướng ngại vật cuối cùng xấu xí thế ấy. Nếu trước đó nó là rượu brandy thì giờ nó chỉ là một cái xe đẩy hỏng. Nó là đôi que đan len, một thứ đồ chơi trẻ con gãy răng rắc. Cảnh tượng quá khủng khiếp, tôi không dám nhìn nữa. Tôi vùi mặt vào lưng Ernest và không chứng kiến đoạn cuối cuộc đua, lũ ngựa tách ra vượt qua con vật bị ngã, con ngựa chúng tôi thích lúc đầu nhận được mọi thứ không phải do nó tự giành lấy.
Tôi khóc lóc suốt nửa chặng đường trên tàu về nhà, qua những khu dân cư ảm đạm với dây phơi, rác rến và lũ trẻ con ăn mặc rách rưới, cố quên đi ngày hôm nay cùng những gì chúng tôi đã thấy.
Chú thích:
(1) Ngày Bastille là tên các nước nói tiếng Anh gọi ngày Quốc khánh Pháp, tổ chức vào 14/7 hằng năm để kỷ niệm ngày chiếm ngục Bastille - biểu tượng quyền lực Vương triều - hồi Cách mạng Pháp 1789.